Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Kiểm tra, thanh tra của quản lý thị trường tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.45 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN QUỐC DŨNG

KIỂM TRA, THANH TRA
CỦA QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI – NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN QUỐC DŨNG

KIỂM TRA, THANH TRA


CỦA QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60340403

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THÚY

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của chính bản thân
tơi, được sự hướng dẫn của TS. Bùi Thị Thanh Thuý. Các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong đề tài là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ đề tài nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN QUỐC DŨNG


LỜI CÁM ƠN
Để có thể hồn thành đề tài luận văn thạc sỹ này, bên cạnh sự nỗ lực cố
gắng của bản thân cịn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy cô, cũng như
sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ
Xin chân thành cám ơn đến TS. Bùi Thị Thanh Thúy, người đã trực
tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi hồn

thành luận văn này.
Xin chân thành cám ơn toàn thể quý Thầy cơ của Học viện Hành chính
Quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho
đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành bày tỏ sự cám ơn đến các tập thể Lãnh
đạo, kiểm soát viên Chi cục Quản lý thị trường Lào Cai. Giám đốc Sở, các
Phó Giám đốc Sở Cơng Thương tỉnh Lào Cai, Lãnh đạo các phịng chun
mơn thuộc Sở, tập thể cơng chức Văn phịng Sở Cơng Thương đã hỗ trợ tơi
rất nhiều trong q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ này.

Lào Cai, ngày

tháng

năm 2018

HỌC VIÊN THỰC HIỆN

TRẦN QUỐC DŨNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM TRA,

THANH TRA CỦA QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG......................................................... 7
1.1. Khái niệm Quản lý thị trường............................................................................................ 7

1.2. Khái niệm kiểm tra của Quản lý thị trường............................................................. 10
1.3. Khái niệm thanh tra của Quản lý thị trường............................................................ 15
1.4. Mối quan hệ giữa kiểm tra và thanh tra của Quản lý thị trường...................17
1.5. Các yếu tố cấu thành kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường.................20
CHƢƠNG 2 :THỰC TRẠNG KIỂM TRA, THANH TRA CỦA QUẢN
LÝ THỊ TRƢỜNG TỈNH LÀO CAI.............................................................................. 33
2.1. Quá trình hình thành Quản lý thị trường tỉnh Lào Cai....................................... 33
2.2. Thực tiễn kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường tỉnh Lào Cai.............45
2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường tỉnh Lào
Cai........................................................................................................................................................... 58
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNGKIỂM TRA, THANH TRA CỦA QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG
TỈNH LÀO CAI............................................................................................................................. 70
3.1. Phương hướng tăng cường kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường tỉnh
Lào Cai................................................................................................................................................. 70
3.2. Giải pháp tăng cường kiểm tra, thanh tra của quản lý thị trường tỉnh Lào
Cai........................................................................................................................................................... 74


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Diễn đàn hợp tác Á - Âu
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Khu thương mại tự do Asean
Kinh tế cửa khẩu
Một thành viên
Quản lý nhà nước
Quản lý thị trường

Tổ chức thương mại thế giới
Tổng hợp
Thương mại
Trách nhiệm hữu hạn
Tiểu vùng sông MeKong mở rộng
Ủy ban nhân dân
Vật liệu nổ cơng nghiệp
Vi phạm hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu và đầy đủ trên nhiều
phương diện kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, cùng với
những cơ hội là những thách thức buộc chúng ta phải vượt qua để tiếp tục đi
lên với các bước đi vững chắc. Trong những năm gần đây, nền kinh tế trong
nước đang trên đà phát triển, các hoạt động dịch vụ, thương mại đang được
hình thành trên diện rộng với nhiều hình thức khác nhau giữa cả truyền thống
và hiện đại đã và đang đáp ứng yêu cầu cơ bản nhu cầu ngày càng cao của xã
hội. Nhưng bên cạnh đó các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại trong sản
xuất, kinh doanh hàng hóa với nhiều thủ đoạn tinh vi ngày càng diễn biến
phức tạp, gây khó khăn cho lực lượng chuyên ngành cũng như khó bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho người tiêu dùng. Việc kiểm tra, thanh tra nhằm giữ
bình ổn thị trường, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động thương mại là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của lực lượng Quản lý thị
trường nói riêng và của các cấp, các ngành nói chung.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao, biên giới với gần 200km đường biên giới
với nước bạn Trung Quốc. Lào Cai có vị trí địa lý quan trọng trong giao
thương hàng hóa giữa Việt nam với vùng Tây Nam ( Trung Quốc) thông qua
hệ thống đường giao thông thuận lợi: Tuyến đường sắt nối liền Hà Nội – Lào

Cai (Việt Nam) với Hà Khẩu – Côn Minh (Vân Nam – Trung Quốc); Về
đường bộ có tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai với điểm kết thúc tại Cửa
khẩu đường bộ Kim Thành ( Lào Cai – Việt Nam với Khu Bắc Sơn – Hà Khẩu
– Trung Quốc; tuyến đường AH14 nối Hà Nội với Lào Cai với điểm cuối tại
Khu Kinh tế cửa khẩu quốc tế Lào Cai). Hệ thống đường sông gồm sông
Hồng và sông Nậm Thi, vừa là biên giới giữa 2 nước, vừa là một thuận

1


lợi cho các hoạt động giao thương trên tất cả các lĩnh vực. Hoạt động giao
thương giữa 2 bên có sự phát triển nhanh nhất là các hoạt động Xuất nhập
khẩu qua các cửa khẩu. Bên cạnh đó có nhiều các cặp chợ biên giới là nơi
giao thương của nhân dân các vùng biên giới, chợ phiên…vì lợi nhuận nên
thương nhân kể cả thương nhân nước ngoài tới kinh doanh trên địa bàn tỉnh
Lào Cai có nhiều thủ đoạn gian lận trong thương mại như: buôn bán kinh
doanh các mặt hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không có xuất
xứ hàng hóa; Kinh doanh khơng niêm yết giá, bán khơng đúng giá niêm yết,
bên cạnh đó là những phương thức chiêu trò giảm giá, khuyến mại, mua bán
trả góp 0 đồng, lãi xuất 0% nhằm đánh vào thị hiếu ham rẻ của một số người
tiêu dùng… đặc biệt là hoạt động buôn lậu qua biên giới bằng những thủ đoạn
tinh vi, trong đó nổi lên là vấn đề buôn lậu các loại sản phẩm động vật không
rõ nguồn gốc xuất xứ….
Chi cục Quản lý thị trường là đơn vị trực thuộc Sở Công Thương tỉnh
Lào Cai. Theo Pháp lệnh Quản lý thị trường, với chức năng là phòng, chống
bn lậu, gian lân thương mại, kiểm tra, kiểm sốt, thực hiện thanh tra chuyên
ngành xử lý các hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu; bn bán hàng giả,
hàng cấm, vi phạm sở hữu trí tuệ…
Lực lượng QLTT hoạt động trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
tơn trọng và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích

hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm khách quan, chính xác,
công khai, minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội
và đảm bảo an sinh xã hội…
Xuất phát từ những lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Kiểm tra, thanh
tra của Quản lý thị trường tỉnh Lào Cai”để triển khai luận văn thạc sỹ quản lý
công.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Việc nghiên cứu về kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường là một đề
tài mới. Có một số cơng trình đã tiếp cận ở ở những góc độ nhất định như:
-

Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa

Thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành - thực trạng và giải pháp” Nguyễn
Khắc Hường làm chủ nhiệm đề tài năm 2004 [33].
-

Luận án tiến sĩ luật học “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh

tra ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trang và giải pháp” (2008) của
tác giả Nguyễn Thiện Thuật [36].
-

Luận văn thạc sỹ Luật học “ Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh

tra chuyên ngành ở Việt Nam hiện nay” (2011) của tác giả Nguyễn Thị Thục

[35].
-

Đề tài khoa học cấp cơ sở “Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ

quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành” của tác giải
Nguyễn Thị Hải Yến (2013) [37].
-

Sách tham khảo “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát

của một số nước trên thế giới” (2001), Nguyễn Văn Kim chủ biên [34].
Ngồi ra có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu khác như: bài viết
“Cần ban hành một Nghị định riêng về Thanh tra chuyên ngành” của tác giả
Bùi Sĩ Lợi đăng trên Tạp chí Thanh tra số 10/2007; “ Những bất cập trong các
quy định của pháp luật về thanh tra” của tác giả Đổng Quang Hưng, tạp chí
Thanh tra số 10/2007; “ Mơ hình nào cho tổ chức và hoạt động của hệ thống
thanh tra Tổng cục, Cục và Chi cục”, Nguyễn Hữu Quân đăng trên Tạp chí
Thanh tra số 5/ 2008; Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Yêu cầu hoàn
thiện pháp luật về tổ chức thanh tra theo ngành, lĩnh vực hiện nay ”. Một số
giáo trình: giáo trình “Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Đại học

3


Luật Hà Nội năm 2010 [23]; giáo trình “Thanh tra và giải quyết khiếu nại
hành chính” của Học viện Hành chính Quốc gia năm 2011 [25].
Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống dưới góc độ khác nhau
về thanh tra nói chung. Những các cơng trình nghiên cứu về thanh tra nói
chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng trong những năm qua là nguồn tài

liệu vơ cùng bổ ích, có giá trị tham khảo để tác giả hoàn thành đề tài nghiên
cứu này. Tuy nhiên hoạt động kiểm tra chuyên ngành nói chung và kiểm tra
của lực lượng quản lý thị trường nói riêng vẫn là một khoảng trống trong
nghiên cứu. Vì vậy đề tài “ Kiểm tra, thanh tra của Quản lý thị trường tỉnh
Lào Cai vẫn đảm bảo tính mới và cấp thiết của đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý
cơng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của đề tài là đề xuất các giải pháp nâng
cao chất lượng kiểm tra, thanh tra của QLTT tỉnh Lào Cai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra, thanh tra của
QLTT
Phân tích thực trạng hoạt động kiểm tra, thanh tra của QLTT
tỉnh Lào
Cai; chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng.
-

Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra của

QLTT tỉnh Lào Cai góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu hoạt động kiểm tra, thanh tra của QLTT


4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Giới hạn về nội dung: Quản lý thị trường được nghiên cứu dưới góc

độ một tổ chức, một lực lượng. Vì vậy, luận văn tiếp cận dưới góc độ hoạt
động kiểm tra và thanh tra chuyên ngành của lực lượng quản lý thị trường tỉnh
Lào Cai mà cụ thể là hoạt động kiểm tra và thanh tra chuyên ngành của Chi
cục Quản lý thị trường tỉnh Lào Cai.
-

Giới hạn về thời gian: từ năm 2014 đến nay.

-

Giới hạn về không gian: trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
5.

Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.

Phƣơng pháp luận

Luận văn triển khai trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về hoạt động thanh tra, kiểm tra nói chung và thanh tra, kiểm tra của

quản lý thị trường.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khi thực hiện đề tài là:
phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê…
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ
luận văn để giải quyết những vấn đề mang tính lý luận như các quan niệm,
đặc điểm kiểm tra, thanh tra của QLTT; đánh giá thực trạng kiểm tra, thanh tra
của QLTT tỉnh Lào Cai, chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của nó; đưa
ra những quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả kiểm tra, thanh tra của
QLTT tỉnh Lào Cai.
Phương pháp hệ thống được sử dụng để hệ thống các quan điểm, quan
niệm xung quanh các nội dung cần giải quyết trong đề tài.

5


Phương pháp thống kê, khảo sát được sử dụng để đưa ra các số liệu
thực tế, cần thiết phản ánh thực trạng kiểm tra, thanh tra của QLTT tỉnh Lào
Cai.
6. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp của Luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách có hệ thống về kiểm tra,
thanh tra của QLTT tỉnh Lào Cai, tổng quát từ lý luận đến thực tiễn, từ qui
định của pháp luật đến việc áp dụng pháp luật trong kiểm tra, thanh tra của
QLTT tỉnh Lào Cai.
Luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học giúp các nhà quản lý tiến hành
nâng cao hiệu quả kiểm tra, thanh tra của QLTT tỉnh Lào Cai. Đồng thời, luận
văn cũng là tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy của
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kết luận và phụ lục, Luận văn được chia

thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm tra, thanh tra của QLTT .
Chương 2: Thực trạng kiểm tra, thanh tra của QLTT tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, thanh
tra của QLTT tỉnh Lào Cai.

6


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TRA, THANH TRA
CỦA QUẢN LÝ THỊ TRƢỜNG
1.1. Khái niệm Quản lý thị trƣờng
Như đã giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, luận văn tiếp cận khái niệm
Quản lý thị trường dưới góc độ một thiết chế, một lực lượng. Để làm rõ khái
niệm Quản lý thị trường, cần xem xét qua lịch sử hình thành của lực lượng
này.
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1954) một nửa nước ta được hoàn toàn giải phóng, miền Bắc bước vào
thời kỳ khơi phục và phát triển kinh tế trong điều kiện hết sức khó khăn; nền
kinh tế tiêu điều, lực lượng sản xuất nhỏ và trình độ kỹ thuật lạc hậu, phần lớn
xí nghiệp, nhà máy ngừng hoạt động, hàng hóa khan hiếm. Lợi dụng những
khó khăn về sản xuất, những kẽ hở trong phân phối, tiêu thụ hàng hóa, nhất là
một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn lại tổ chức, một số phần
tử xấu trong xã hội nhân cơ hội này kích động chính trị, gây rối thị trường
thơng qua các hành vi đầu cơ, tích trữ hàng hóa, tạo sự khan hiếm để trục lợi,
gây khó khăn cho nền kinh tế quốc dân và ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tiêu dùng.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc luật số 001-SL ngày
19/4/1957 và Thủ tướng Chính phủ ký Nghị định số 163/TTg ngày 19/4/1957

về việc cấm chỉ hành động đầu cơ về kinh tế. Tiếp đó đến ngày 03/7/1957,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 190/TTg thành lập Ban Quản lý
thị trường Trung ương và Ban Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố và khu
tự trị trong cả nước. Đây là mốc son đánh dấu sự ra đời của lực lượng Quản lý
thị trường.

7


Ban Quản lý thị trường Trung ương có nhiệm vụ giúp Chính phủ
nghiên cứu chủ trương, chính sách Quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ;
chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách đó trong phạm vi tồn quốc. Các
Ban Quản lý thị trường tỉnh, thành phố và khu tự trị có nhiệm vụ giúp Ủy ban
hành chính địa phương (nay là UBND) chỉ đạo Quản lý thị trường ở địa
phương mình theo chỉ đạo của Chính phủ. Ban Quản lý thị trường Trung ương
và các địa phương đã tích cực, chủ động, triển khai nhiệm vụ, thu được những
kết quả quan trọng, góp phần giữ ổn định thị trường nhằm đảm bảo những
nhu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống nhân dân trong các giai đoạn khắc
phục, cải tạo và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, đồng thời đáp ứng nhu cầu của
cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Như vậy, các Ban
Quản lý thị trường ngay từ đầu đã trở thành bộ phận quan trọng của quản lý
nhà nước về thương mại.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975), số
người buôn bán tăng nhanh nhưng phần đơng khơng đăng ký kinh doanh, tình
trạng trốn thuế, đầu cơ, buôn lậu, kinh doanh trái phép diễn ra phổ biến.
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ V của Đảng xác định “Thiết lập trật tự
mới xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thơng để góp phần ổn định
đời sống, đẩy mạnh sản xuất…tăng cường Quản lý thị trường, đấu tranh
chống đầu cơ, làm ăn phi pháp”. Ngày 16 tháng 7 năm 1982, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng ký Quyết định 190/CT thành lập Ban chỉ đạo Quản lý thị

trường Trung ương thuộc Hội đồng Bộ trưởng, để hướng dẫn chỉ đạo các
ngành chức năng, các cấp tổ chức thực hiện công tác Quản lý thị trường. Tiếp
theo Hội đồng Bộ trưởng đã có Nghị quyết 249/HĐBT ngày 02 tháng 10 năm
1985 tổ chức lực lượng chuyên trách kiểm tra kiểm soát thị trường, các Đội
Quản lý thị trường trực thuộc Ban chỉ đạo Quản lý thị trường các tỉnh, thành
phố, đặc khu và cấp huyện, quận, thị xã được thành lập. Từ đây, lực lượng

8


quản lý thị trường chuyên trách kiểm tra, kiểm soát thị trường hình thành trên
khắp các địa bàn trong cả nước [9].
Năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 35/CP giao Bộ Thương Mại
chịu trách nhiệm thống nhất chỉ đạo công tác Quản lý thị trường cả nước,
đồng thời chuyển giao bộ máy làm việc, tài liệu, tài sản thuộc Ban chỉ đạo
Quản lý thị trường Trung ương sang Bộ Thương Mại. Để kh ng định vai trị,
vị trí pháp lý của lực lượng Quản lý thị trường, Chính phủ ban hành Nghị
định 10/CP (1995) quy định nhiệm vụ, quyền hạn và hệ thống tổ chức Quản
lý thị trường, trong đó xác định: Quản lý thị trường là lực lượng chuyên trách
được tổ chức từ Trung ương đến huyện; có chức năng kiểm tra, kiểm soát thị
trường, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động
thương mại ở thị trường trong nước.
Thực hiện Nghị định số 10/CP, từ năm 1995 đến nay lực lượng Quản lý
thị trường trên cả nước đã được kiện toàn, tổ chức lại thành hệ thống chuyên
trách từ Trung ương đến cấp quận, huyện theo địa bàn đơn vị hành chính lãnh
thổ, cụ thể như sau:
Ở Trung ương có Cục Quản lý thị trường trực thuộc Bộ Công
Thương.



cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 63 Chi cục Quản lý thị

trường thuộc Sở Công Thương tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trực thuộc 63 Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có 643 Đội Quản lý thị trường hoạt động trên địa bàn các quận, huyện,
thị xã thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Một số nơi do mới tách
huyện hoặc chưa có điều kiện thành lập Đội Quản lý thị trường tại địa bàn cấp
huyện nên vẫn phải hoạt động trên địa bàn liên huyện.
Ngoài các Đội Quản lý thị trường hoạt động trên địa bàn quận, huyện
nói trên, các Chi cục Quản lý thị trường tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
cịn có một hoặc một số Đội Quản lý thị trường cơ động toàn tỉnh hoặc Đội

9


Quản lý thị trường chuyên trách chống buôn lậu, chống hàng giả, kiểm tra
chất lượng hàng hoá và vệ sinh an toàn thực phẩm...theo yêu cầu cụ thể của
địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định thành
lập.
Phiên họp lần thứ 46 ngày 08 tháng 3 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa XIII, với 100% Ủy viên biểu quyết tán thành, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Quản lý thị trường; Đây được xem là văn
bản pháp quy quan trọng quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ
chức…của lực lượng Quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát thị trường nội địa, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác chống buôn
lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng.
Theo Điều 3 Nghị định 98/2017/NĐ-CP Quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương, thành lập Tổng Cục
Quản lý thị trường [8]. Tuy nhiên hiện nay, cơ cấu tổ chức lực lượng Quản lý
thị trường ở địa phương vẫn đang trong quá trình sắp xếp để phù hợp với quy

định pháp luật mới.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Quản lý thị trường là một thiết
chế (tổ chức) được thành lập từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện
chức năng phòng, chống, xử lý các hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu;
sản xuất, bn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất
xứ; hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; hành vi vi phạm pháp luật về
chất lượng, đo lường, giá, an toàn thực phẩm và gian lận thương mại; hành
vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
1.2. Khái niệm kiểm tra của Quản lý thị trƣờng
Để tìm hiểu khái niệm kiểm tra của Quản lý thị trường, trước hết cần
làm rõ nội hàm thuật ngữ kiểm tra.

10


Kiểm tra là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét,
đánh giá hoạt động của các khách thể bị quản lý trong việc thực hiện nhiệm
vụ, kế hoạch được giao, pháp luật, các quy định hay một quyết định nào đó do
chủ thể quản lý ban hành.
Trong hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam, kiểm tra được xem
xét từ hai góc độ:
Thứ nhất, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của mọi cơ quan nhà
nước. Đặc trưng của hoạt động kiểm tra này là tính quyền lực nhà nước. Hoạt
động này chia thành 2 loại:
-

Kiểm tra nội bộ: Kiểm tra nội bộ là nhiệm vụ, chức năng của mọi cơ

quan quản lý hành chính nhà nước. Khái niệm kiểm tra nội bộ được dùng để
chỉ hoạt động kiểm tra trong nội bộ ngành, một cơ quan, tổ chức do thủ

trưởng cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực tổ chức tiến hành. Hoạt động này
thể hiện tính trực thuộc chặt chẽ giữa chủ thể và đối tượng bị kiểm tra, phạm
vi kiểm tra bao quát mọi hoạt động, mọi vấn đề thuộc nhiệm vụ, chức năng
của cơ quan cấp dưới, nhân viên dưới quyền. Thủ trưởng cơ quan có thể trực
tiếp kiểm tra hoặc lập ra tổ chức giúp thủ trưởng kiểm tra. Khi tiến hành kiểm
tra, thủ trưởng cơ quan, tổ chức có quyềnáp dụng mọi hình thức và biện pháp
tác động thuộcquyền hạn của mình như: Khen thưởng cơ quan, cá nhân có
thành tích, kỷ luật cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm, ra quyếtđịnh cưỡng
chế hoặc bãi bỏ các quyết định sai trái của cấp dưới, cưỡng chế hành vi vi
phạm pháp luật, kết hợp các biện pháp kiểm kê, kê biên, niêm phong tài sản,
tài liệu…
-

Kiểm tra chức năng: là hoạt động kiểm tra do các cơ quan quản lý

nhà nước theo ngành, hay lĩnh vực thực hiện trong việc chấp hành pháp luật,
các chính sách và các quy tác quản lý về ngành hay lĩnh vực do mình quản lý
thống nhất trong cả nước đối với mọi cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan.

11


Phạm vi của kiểm tra chức năng chỉ làmột mặt hoạt động nàođó của đối tượng
bị kiểm tra mà khơng phải mọi hoạt động của đối tượng đó. Giữa chủ thể
kiểm tra và các đối tượng chịu sự kiểm tra khơng có quan hệ trực thuộc trên
dưới, mà chỉ có quan hệ về kiểm tra, quan hệ chức năng.
Thứ hai, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội như
kiểm tra của Đảng, kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội đối với hoạt
động hành chính nhà nước. Hoạt động kiểm tra này ít mang tính quyền lực
nhà nước và không trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ áp dụng

các biện pháp mang tính xã hội.
Căn cứ từ lí luận trên có thể xác định kiểm tra của lực lượng Quản lý
thị trường là hoạt động kiểm tra theo chức năng. Theo Khoản 1 Điều 3 của
Pháp lệnh Quản lý thị trường 2016 [31]: “Hoạt động kiểm tra của lực lượng
Quản lý thị trường là việc tiến hành xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp
luật của các tổ chức, cá nhân trong kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thương mại
và lĩnh vực khác khi được Chính phủ giao”.
Từ khái niệm trên cho thấy, chủ thể tiến hành kiểm tra là lực lượng
Quản lý thị trường.
Thông tư số 09/2013/TT-BCT ngày 02/5/2013 của Bộ Công Thương
quy định về hoạt động kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính của Quản lý
thị trường [10] như sau:
Đối tượng kiểm tra: các tổ chức cá nhân tham gia kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ thương mại .
Nội dung kiểm tra: việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân
trong kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thương mại và lĩnh vực khác khi được
Chính phủ giao

12


Hệ quả pháp lý : cơ quan Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính nếu phát hiện có vi phạm.
Mục đích hoạt động kiểm tra của Quản lý thị trường nhằm đảm bảo sự
tuân thủ pháp luật về kinh doanh hang hoá, dịch vụ thương mại trên thị
trường; phát hiện, ngăn chặn, xử ký kịp thời các hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động kinh doanh trên thị trường; góp phần phát triển sản xuất, bình
ổn thị trường, mở rộng lưu thơng hàng hóa; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân kinh doanh và người tiêu dùng.
Cơ quan Quản lý thị trường có 2 hình thức kiểm tra: kiểm tra thường

xuyên theo kế hoạch; kiểm tra đột xuất khi có thơng tin về hành vi vi phạm
pháp luật hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của Thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên có thẩm quyền thơng qua hoạt động của Tổ
kiểm tra (Tổ kiểm tra có ít nhất 02 cơng chức Quản lý thị trường, do một công
chức làm Tổ trưởng).
Về kiểm tra theo kế hoạch: Kế hoạch kiểm tra của cơ quan Quản lý thị
trường gồm có kế hoạch kiểm tra thường xuyên, kế hoạch kiểm tra theo mặt
hàng, lĩnh vực, địa bàn, đối tượng cần kiểm tra.
Về kiểm tra đột xuất: Cơ quan Quản lý thị trường sẽ xử lý các thông tin
về hành vi vi phạm pháp luật hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật và ra quyết
định kiểm tra ngay hoặc tổ chức thẩm tra, xác minh thông tin. Quy trình của
việc kiểm tra ngay hoặc xử lý kết quả xác minh thông tin được quy định chi
tiết tại Chương IV của Thông tư 09. Các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc liên
quan đến hoạt động kiểm tra, xử lý đối với hành vi vi phạm hành chính hoặc
có dấu hiệu vi phạm hành chính được bảo mật theo quy định và không được
tiết lộ cho những người khơng có thẩm quyền liên quan trực tiếp đến vụ việc.
Trừ trường hợp vi phạm pháp luật quả tang, mọi trường hợp kiểm tra
đều phải có quyết định bằng văn bản của Thủ trưởng cơ quan Quản lý thị

13


trường có thẩm quyền. Quyết định kiểm tra theo kế hoạch phải được thực hiện
trong thời hạn chậm nhất năm ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định
kiểm tra. Quyết định kiểm tra đột xuất phải tổ chức thực hiện ngay sau khi
ban hành.
Khi tiến hành kiểm tra, Tổ trưởng Tổ kiểm tra có 6 quyền, trong đó có
quyền kiểm tra hàng hóa, dụng cụ sản xuất, kinh doanh; kiểm tra hiện trường
nơi sản xuất, buôn bán, lưu giữ hàng hóa có liên quan đến nội dung kiểm tra.
Trường hợp đối tượng hoặc người có liên quan của đối tượng được kiểm tra

trốn tránh hoặc cản trở việc kiểm tra hiện trường nơi sản xuất, buôn bán, lưu
giữ hàng hóa mà có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính cần phải kiểm tra, thu giữ thì đề xuất với người có
thẩm quyền ban hành quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
Lấy mẫu hàng hóa để trưng cầu kiểm nghiệm, giám định khi cần thiết theo
quy định của pháp luật.
Căn cứ kết quả kiểm tra, Tổ kiểm tra lập biên bản kiểm tra, biên bản vi
phạm hành chính ngay sau khi kết thúc kiểm tra tại nơi kiểm tra trong ngày
làm việc, báo cáo Thủ trưởng cơ quan Quản lý thị trường để Thủ trưởng cơ
quan Quản lý thị trường có các hình thức xử lý, ra quyết định về vụ việc
(thông báo bằng văn bản cho đối tượng được kiểm tra, ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính hoặc chuyển giao vụ việc cho cơ quan tố tụng hình
sự có
thẩm quyền trong trường hợp xét thấy có dấu hiệu tội phạm). Kiểm
tra của Quản lý thị trường tuân thủ nguyên tắc cơ bản;
-

Hoạt động kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ pháp

luật về kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính.
-

Hoạt động kiểm tra và xử phạt hành chính của Quản lý thị trường

nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về thương mại, công nghiệp của các tổ

14



chức và cá nhân hoạt động kinh doanh trên thị trường; phát hiện, ngăn chặn,
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động kinh doanh
trên thị trường; góp phần phát triển sản xuất, bình ổn thị trường, mở rộng lưu
thơng hàng hóa; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh
doanh và người tiêu dùng.
-

Tuân thủ quy chế công tác và sử dụng đúng các mẫu biên bản, quyết

định (gọi tắt là ấn chỉ) theo quy định trong hoạt động kiểm tra, xử phạt vi
phạm hành chính.
-

Hoạt động kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính phải có căn cứ, bảo

đảm khách quan, công bằng, đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quản
lý thị trường và theo quy định của pháp luật.
1.3. Khái niệm thanh tra của Quản lý thị trƣờng
Thanh tra, theo tiếng Latinh ( Inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên
trong” chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng
nhất định [25; tr.23].
Theo từ điển Luật học, “ thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối
tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích
nhất định”[25; tr.23].
Với những nghĩa trên đây, thanh tra bao hàm trong đó nghĩa kiểm sốt
nhằm xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Ngồi ra,
thanh tra cịn được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định
kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ
quan nhà nước nhằm khắc phục những nhược điểm, phát huy những ưu điểm
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Điều 3 Luật Thanh tra số

56/2010/QH12 ngày 29/11/2010:
“Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với

15


việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra nhà nước gồm thanh tra hành chính và
hoạt động thanh tra chuyên ngành [25];
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”.
Như vậy, thanh tra của Quản lý thị trường trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn là hoạt động thanh tra chuyên ngành. Theo Khoản 2 Điều 3 Pháp
lệnh Quản lý thị trường [31]:“Thanh tra chuyên ngành của lực lượng Quản lý
thị trường là hoạt động thanh tra của cơ quan Quản lý thị trường đối với tổ
chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật liên quan đến quản lý thị
trường”.
Nghị định số 127/2015/NĐ-CP ngày 14/12/2015 quy định về tổ chức và
hoạt động của thanh tra chuyên ngành Công Thương; cụ thể hoạt động thanh
tra việc chấp hành quy định của pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý của Bộ Công Thương, Sở Công thương bao gồm các lĩnh vực sau:an
tồn kỹ thuật cơng nghiệp; cơ khí, luyện kim, cơng nghiệp hỗ trợ; năng lượng;
hóa chất; cơng nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản (trừ khoáng sản
làm vật liệu xây dựng và sản xuất xi măng); an toàn thực phẩm; xuất nhập

khẩu; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; hoạt động thương mại; cạnh
tranh; phòng vệ thương mại; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [38].

16


1.4. Mối quan hệ giữa kiểm tra và thanh tra của Quản lý thị trƣờng

Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra có đặc điểm khác
với kiểm tra. Thanh tra ln mang tính quyền lực nhà nước. Kiểm tra có thể
mang tính quyền lực nhà nước hoặc khơng (ví dụ kiểm tra của Đảng). Hoạt
động thanh tra do một thiết chế, một tổ chức riêng biệt thực hiện (tổ chức
thanh tra nhà nước), còn hoạt động kiểm tra là hoạt động thường xuyên, liên
tục của chủ thể quản lý với đối tượng quản lý, có thể hình thành dưới dạng tổ
chức (Uỷ ban kiểm tra trung ương Đảng) hoặc không. Kiểm tra và thanh tra
của Quản lý thị trường đều là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Xem
xét mối quan hệ giữa kiểm tra và thanh tra của Quản lý thị trường qua sự phân
tích giống và khác nhau của hai hoạt động này.
Hoạt động thanh tra và kiểm tra của Quản lý thị trường đều là hai chức
năng do cùng một chủ thể có thẩm quyền tiến hành, đó là lực lượng Quản lý
thị trường và đều có thẩm quyền xử phạt hành chính.
Bên cạnh đó, điểm khác nhau cơ bản đó là:
Thứ nhất, khác biệt về tư cách pháp lý của chủ thể. Mặc dù cùng là lực
lượng công chức của cơ quan quản lý thị trường nhưng khi đi tiến hành thanh
tra, kiểm tra thì mang tư cách pháp lý khác nhau. Cụ thể:
Chủ thể kiểm tra của Quản lý thị trường là công chức quản lý thị
trường. Khi tiến hành hoạt động kiểm tra, công chức được cấp thẻ kiểm tra thị
trường.Thời hạn sử dụng của thẻ kiểm tra thị trường là 05 năm kể từ ngày
được cấp thẻ kiểm tra thị trường và được ghi trên thẻ kiểm tra thị trường.
Công chức Quản lý thị trường chỉ được sử dụng và phải xuất trình thẻ kiểm

tra thị trường khi thực hiện hoạt động kiểm tra theo quy định. Người có thẩm
quyền cấp thẻ kiểm tra là Bộ trưởng Bộ Công thương hoặc Cục trưởng Cục
quản lý thị trường (nay là Tổng cục trưởng Cục Quản lý thị trường).

17


Chủ thể thanh tra của Quản lý thị trường là công chức được giao thực
hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Khi đi thanh tra chun ngành, cơng
chức này có quyết định phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
do Cục trưởng Cục Quản lý thị trường, Giám đốc Sở Công thương ký quyết
định. Thanh tra chuyên ngành khơng thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sốt viên
Quản lý thị trường, ngược lại: Kiểm soát viên Quản lý thị trường có thể là
Thanh tra chuyên ngành.
Thứ hai, khác biệt về nội dung.
Nội dung của kiểm tra của Quản lý thị trường là việc chấp hành pháp
luật của các tổ chức, cá nhân trong kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thương mại
và lĩnh vực khác khi được Chính phủ giao.
Nội dung của thanh tra quản lý thị trường đó là việc chấp hành quy
định của pháp luật về quản lý thị trường trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý của Bộ Công Thương, Sở Công thương bao gồm các lĩnh vực sau: An
tồn kỹ thuật cơng nghiệp; cơ khí, luyện kim, cơng nghiệp hỗ trợ; năng lượng;
hóa chất; cơng nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản (trừ khoáng sản
làm vật liệu xây dựng và sản xuất xi măng); an toàn thực phẩm; xuất nhập
khẩu; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; hoạt động thương mại; cạnh
tranh; phòng vệ thương mại; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ ba, khác biệt về trình tự thủ tục.
Hoạt động thanh tra của quản lý thị trường trình tự thủ tục chặt chẽ
hơn, thời gian có thể kéo dài hơn trình tự, thủ tục kiểm tra của Quản lý thị
trường:

-

Thời hạn một cuộc kiểm tra tại nơi kiểm tra không quá 03 ngày làm

việc, kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra. Trường hợp vụ việc kiểm tra phức
tạp thì thời hạn một cuộc kiểm tra có thể kéo dài nhưng tối đa không quá 05
ngày làm việc, kể từ ngày công bố quyết định kiểm tra. Việc kéo dài thời

18


hạn một cuộc kiểm tra do người đã ban hành quyết định kiểm tra quyết định
bằng văn bản ( Điều 22 Pháp lệnh Quản lý thị trường 2016) [31].
-

Thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra chuyên ngành do Đoàn thanh

tra được quy định như sau: Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ,
Tổng cục, Cục thuộc Bộ tiến hành khơng q 45 ngày; trường hợp phức tạp
có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 ngày; Cuộc thanh tra chuyên ngành
do Thanh tra sở, Chi cục thuộc Sở tiến hành khơng q 30 ngày; trường hợp
phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày ( Điều 16 Nghị định
07/2012/NĐ-CP quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành).
-

Thời hạn thanh tra chuyên ngành độc lập đối với mỗi đối tượng thanh

tra là 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiến hành thanh tra. Trường hợp cần thiết,
Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc

Bộ, Chi cục trưởng thuộc Sở gia hạn thời gian thanh tra nhưng thời gian gia
hạn không được vượt quá 05 ngày làm việc ( Điều 30 Nghị định 07/2012/NĐCP) [2].
Từ sự phân tích điểm giống nhau và khác biệt trong hoạt động kiểm tra,
thanh tra của Quản lý thị trường cho thấy đây là hai chức năng của cùng một
chủ thể. Như vậy cùng một công chức của Quản lý thị trường vừa có thể là
chủ thể kiểm tra, vừa có thể là chủ thể thanh tra chuyên ngành, tuỳ vào nhiệm
vụ được phân công. Đối tượng kiểm tra, thanh tra đều hướng tới các cá nhân,
tổ chức trong phạm vi quản lý của ngành Cơng thương. Mặc dù có những
phân biệt như trên nhưng có thể nói, hai hoạt động này dưới góc độ lý luận và
thực tiễn vẫn rất khó tách bóc sự khác biệt. Trên thực tế hiện nay, việc kiểm
tra, thanh tra của Quản lý thị trường là chưa rõ ràng: Chủ thể vừa là Kiểm soát
viên vừa là Thanh tra chuyên ngành. Khi tiến hành một cuộc thanh tra, thường
phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ đó thực chất là kiểm tra.

19


×