Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với toán cho trẻ lớp mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.57 KB, 15 trang )

SKKN – Làm quen với toán

Nguyễn Kim Tuyến

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẢI PHÒNG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỒNG BÀNG
-------***--------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
Một số biện pháp nâng cao chất lượng
làm quen với toán cho trẻ lớp mẫu giáo lớn

Xếp loại A – cấp thành phố
Cô giáo: Nguyễn Kim Tuyến

I. Đặt vấn đề
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:
"Nghề giáo là nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo,
bởi nó tạo ra những con người sáng tạo".
Câu nói đó có một sức mạnh lạ kỳ thơi thúc, cuốn hút và dẫn
bước tôi đi theo con đường sư phạm. Vào nghề rồi, câu nói đó lại ln


thổi đầy niềm say mê, hứng thú, khích lệ tơi vươn tới mục đích: "Phải
tạo ra những con người sáng tạo". Để làm được điều đó, tơi ln cố
gắng chịu khó học hỏi, nghiên cứu, tìm tịi, tích luỹ kinh nghiệm, đưa
ra các biện pháp giúp trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo và nhất là các
hoạt động cho trẻ em với tốn. Bởi vì tơi nhận thấy: Với trẻ mầm non,
các hoạt động làm quen với toán mới chỉ là bước đầu hình thành cho
trẻ những biểu tượng tốn sơ đẳng, tuy kiến thức đơn giản, song vai


trò của nói lại hết sức quan trọng; vì đây là một trong những cơ sở
tiền đề, một nền móng vững chắc để xây dựng và phát triển nhận thức
cho trẻ.
Qua các hoạt động làm quen với toán làm nẩy sinh, phát triển ở
trẻ sự chú ý, quan sát có mục đích, ghi nhớ, so sánh, phân tích, tổng
hợp, ... làm thoả mãn tính tị mị, thích hoạt động, muốn khám phá,
thử nghiệm, tạo hành trang cho trẻ tự tin, mạnh dạn bước vào các bậc
học tiếp theo và hoà nhập với cuộc sống xã hội.
Nhiều năm qua, trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, qua
chương trình dạy trẻ làm quen với toán của Bộ Giáo dục - Đào tạo,
cùng với những trăn trở, suy tư của riêng mình, tơi đã tìm tịi, đúc rút


cho bản thân một số kinh nghiệm nho nhỏ để nâng cao chất lượng làm
quen với toán cho trẻ, mà cụ thể là trẻ lớp mẫu giáo lớn.
Trong quá trình thực hiện, tơi thấy nổi lên một số khó khăn và
thuận lợi sau:
II. Những thuận lợi và khó khăn
1. Những thuận lợi:
- Trẻ ở lớp mẫu giáo lớn, hầu hết các cháu đã học qua các lớp 3, 4
tuổi nên đã biết nhau, quen thân nhau, học tập có nề nếp, thích hoạt
động.
- Sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp lãnh đạo mà trực
tiếp là Ban giám hiệu nhà trường; cùng với sự tương trợ của các đồng
nghiệp.
- Sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
- Và một yếu tố quan trọng đó là lịng yêu trẻ và niềm say mê
nghề nghiệp, cùng với sự nỗ lực của bản thân.
2. Những khó khăn:
- ở trường mầm non trẻ em được làm quen với tiền đề của nhiều

lĩnh vực khoa học. Nhưng tôi nhận thấy, làm quen với toán là hoạt


động khó, trìu tượng và có phần cứng nhắc nên trẻ khó tiếp thu, dễ
chán.
- Mặt khác, mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt, nên cá tính, nhận
thức của trẻ khác nhau, không đồng đều và trẻ chưa học theo chương
trình đổi mới hình thức giáo dục ở lớp 3, 4 tuổi. Nên gây khó khăn
trong q trình tổ chức các hoạt động.
III. Một số biện pháp
1. Tạo hứng thú, kích thích tính tị mị của trẻ:
* ở tuổi mẫu giáo lớn, hoạt động nhận thức của trẻ vẫn mang tính
tự nguyện, trẻ thích thì hoạt động, khơng thích thì ì ra. Nhưng ở lứa
tuổi này trẻ lại rất tị mị, ham hiểu biết. Do đó, theo tơi việc quan
trọng đầu tiên là phải tạo được hứng thú, kích thích tính tị mị, ham
hiểu biết của trẻ, lơi cuốn trẻ vào các hoạt động.
Để làm được điều đó, tơi thường trẻ vào thế giới những câu
chuyện cổ tích (Điều này rất phù hợp với tâm sinh lý của trẻ), hay tổ
chức những giờ hoạt động chung thành những chuyến tham quan du
lịch. Với tuỳ từng nội dung, kiến thức cần cung cấp, củng cố cho trẻ,
tôi chọn những câu chuyện phù hợp để làm chủ đề xuyên suốt giờ
hoạt động chung.


Ví dụ: + Với bài ơn thêm bớt trong phạm vi 7 và lập số 8, tôi
chọn câu chuyện: "Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn".
+ Với bài cho trẻ đo một đối tượng bằng nhiều đơn vị đo khác
nhau, tôi chọn chủ đề với chuyến du lịch về thăm quê ngoại.
+ Với bài ôn tập nhận biết, phân biệt các khối cầu, khối trụ, khối
vuông, khối chữ nhật, tôi chọn cho trẻ vui chơi trong vườn cổ tích với

câu chuyện: "Nàng công chúa Hiếu Học", ...
- Trong các giờ hoạt động chung, tôi luôn quan tâm đến hứng thú
của trẻ, ln tạo cho trẻ sự thích thú, nhu cầu tham gia hoạt động. Do
đó, trẻ ln được hoạt động một cách tích cực thoải mái, hứng thú.
Ví dụ: Khi cho trẻ ôn thêm bớt trong phạm vi 7, tôi cho trẻ đốn
câu chuyện có 7 nhân vật gần giống nhau, trẻ đốn được ngay đó là
câu chuyện: "Nàng Bạch tuyết và bảy chú lùn".
+ Mỗi lần về nhà, các chú lùn phải gõ cửa 7 tiếng thì cửa mới mở
ra. Sau đó, cơ gõ cửa, trẻ đếm và gõ tiếp cho đủ 7 tiếng.
+ Cho trẻ đi chợ mua đồ dùng cho các chú lùn, sao cho mỗi chú
lùn có một đồ dùng ...


Với những câu chuyện hấp dẫn đó, trẻ như hố thân vào các nhân
vật và được sống trong câu chuyện, trẻ rất thích thú, hoạt động rất say
sưa, tích cực.
2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các trò chơi:
Như chúng ta đã biết, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo
của trẻ mẫu giáo, trẻ học bằng chơi, chơi mà học. Nên khi tổ chức các
giờ hoạt động chung, tôi thường nghiên cứu và đưa các hoạt động
nhận thức vào các trò chơi, nhất là các trò chơi dân gian, các trò chơi
vận động, tạo cho trẻ cảm giác đang được vui chơi.
Ví dụ: Với bài nhận biết, phân biệt khối cầu, khối vuông, khối
chữ nhật, tôi đưa các hoạt động nhận thức của trẻ vào một loại các trò
chơi. Như:
- Trò chơi "Chuyển khối": Mỗi trẻ cầm một khối tuỳ ý, ngồi vòng
tròn vừa hát, vừa chuyển khối cho nhau, hát hết câu trẻ đọc to khối
mình có.
- Trị chơi "Kết bạn"
+ Kết nhóm bốn bạn có khối khác nhau: Trẻ chạy tìm nhau tạo

thành những nhóm bốn bạn có khối khác nhau (Khối cầu, trụ, vng,
chữ nhật).


+ Kết nhóm các bạn có khối giống nhau: Trẻ chạy tìm nhau tạo
thành những nhóm các bạn có khối giống nhau (cựng khối cầu, trụ,
vng, chữ nhật).
- Trị chơi "Chồng khối và lăn khối":
+ Thi xem nhóm nào có khối chồng được (Nhóm khối vng,
khối trụ, khối chữ nhật).
+ Thi xem nhóm nào có khối lăn được (Nhóm khối cầu, khối trụ).
Ngồi ra, cịn rất nhiều trị chơi khác như:
+ Ai nhanh hơn: "Chn khối theo yêu cầu"
+ Ai thông minh hơn: "Nêu đặc điểm, so sánh khối"
+ Ai khéo hơn: "Trẻ xếp các hình theo ý thích từ các khối đã học
và từ các đồ dùng, đồ chơi có dạng gần giống khối đã học".
Với các trị chơi hấp dẫn, sinh động nêu trên tôi tạo cho trẻ tâm lý
mình đang vui chơi, chứ khơng phải đang học thuộc những kiến thức
khơ khan, cứng nhắc. Qua các trị chơi nêu trên, trẻ được vận động,
được trao đổi, được tìm tịi, khám phá những vấn đề, những kiến thức
mà tôi muốn cung cấp cho trẻ. Trẻ rất hứng thú, tự hào với chính mình
vì đã phát hiện ra những điều thú vị. Trẻ sẽ ghi nhớ những kiến thức
đó trong vốn hiểu biết của mình và nhớ rất lâu. Trong quá trình tổ


chức các trị chơi cho trẻ, tơi ln đan xen các trò chơi động và các trò
chơi tĩnh giúp trẻ thay đổi trạng thái, đỡ mệt mỏi, căng thẳng.
Ví dụ: + Trò chơi "Chuyển khối" là trò chơi tĩnh
+ Trò chơi "Kết bạn" là trò chơi động
+ Trò chơi "Chồng khối và lăn khối" là trò chơi tĩnh, ...

Qua các trò chơi nêu trên, trẻ được chơi với các khối, được chơi
với các bạn, trẻ tự khám phá những khối nào chồng được, những khối
nào lăn được, tại sao? ... Những biểu tượng đó trở thành ấn tượng khó
quên trong đầu trẻ, làm phong phú thêm vốn hiểu biét của trẻ về
những cơ sở tiền đề của toán học.
3. Tạo tình huống có vấn đề:
* Tạo tình huống có vấn đề là cách thức ta đặt ra trước trẻ những
tình huống bất ngờ ngoài dự kiến của trẻ buộc trẻ phải suy nghĩ tìm
hướng giải quyết. Đây là biện pháp hữu hiệu, giúp trẻ phát triển tư
duy, phản xạ và khả năng ứng xử.
Trong giờ học, tôi thường tạo ra trước trẻ những tình huống buộc
trẻ phải suy nghĩ, vận dụng mọi hiểu biết của mình để xử lý tình
huống theo cách riêng của trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ chơi trò chơi "Kết bạn với số lượng là 8".


Khi trẻ chạy về nhóm khơng có đủ số bạn là 8, tơi nói: "Hãy tìm
đồ vật thay thế cho đủ số lượng là 8". Trẻ đã suy nghĩ và chạy tới góc
gia đình, bế hai em búp bê chạy về nhóm mình đang có 6 bạn để
thành nhóm 8 bạn; có trẻ khác lại chạy ra cửa bê thêm một chiếc ghế
chạy về nhóm mình đang có 7 bạn để thành nhóm 8 bạn, ...
- Khi đưa ra các tình huống, tơi khơng chọn các tình huống vượt
xa tầm nhận thức của trẻ, trẻ không xử lý được sẽ chán nản, thiếu tự
tin, dẫn tới ngại hoạt động.
Những tình huống tôi đưa ra thường ngang tầm hoặc vượt lên
một chút nhận thức của trẻ để xử lý được, tạo cho trẻ sự thích thú, tự
tin bước vào các hoạt động. Như vậy, cịn kích thích tính ham hiểu
biết của trẻ, làm cho trẻ có nhu cầu mong muốn được xử các tình
huống tiếp theo, tạo cho trẻ tâm thế chủ động trong mọi hoạt động.
Ví dụ: Khi cho trẻ đếm đến 8, tơi cố tình nhặt thêm một bơng hoa,

trẻ phát hiện ra và nêu ý kiến: "Thưa cô có chín bơng hoa, thừa một
bơng hoa".
Tơi hỏi phải làm gì để cịn 8 và nhờ trẻ giúp tơi làm điều đó.
Thường là trẻ làm được và rất sung sướng tự hào vì đã phát hiện và
xử lý giúp cơ được một vấn đề.


4. Dậy trẻ trong nhóm bạn:
* Vì mỗi trẻ là một cá thể riêng biệt nên nhận thức của trẻ thường
khác nhau, khơng đồng đều. Do đó, với cùng một hoạt động, cùng
một nội dung bài dạy, có trẻ nắm được 90%, có trẻ nắm được 70%,
cũng có trẻ chỉ nắm được 30% đến 40%.
Chính vì vậy mà trong các hoạt động khác hay ở mọi lúc, mọi nơi
tôi thường cho trẻ chơi theo nhóm, để bổ sung cho nhau. Có trẻ nhút
nhát khi ở trước cơ và đơng các bạn, trẻ thường mất bình tĩnh, thu
mình nên hoạt động và nhận thức có phần hạn chết. Nhưng khi ở
trong một nhóm bạn, nhất là có những bạn gần gũi, thân thiết, trẻ hoạt
động rất thoải mái, hoạt động tích cực hết mình, khơng một chút e
ngại.
Ví dụ: ở lớp, tơi có một số cháu có phần nhút nhát, thiếu tự tin.
Tơi cho các cháu chơi lại các trị chơi, các hoạt động trong giờ học,
cũng có khi tơi để các cháu tự chơi theo cách riêng của mình.
Ví dụ: Khi dạy trẻ phân biệt các khối cầu, khối trụ, khối vng.
Trong giờ đón, trả trẻ, các giờ hoạt động ngồi giờ, sinh hoạt chiều tối
tơi để các rổ khối cho trẻ chơi chuyển khối, chồng khối, lăn khối, xếp
hình từ các khối và cho trẻ chơi theo ý thích của trẻ.


- Mỗi nhóm chơi tơi thường chọn một cháu nắm chắc kiến thức,
nhanh nhẹn làm nhóm trưởng, những bạn cịn lại trong nhóm thường

là những bạn hay chơi với nhau.
Theo tôi, đây là một biện pháp để củng cố, ôn luyện kiến thức đã
học hoặc cho trẻ làm quen với các kiến thức mới rất hiệu quả.
5. Thiết lập mối quan hệ giữa toán và thực tiễn xã hội:
* Để khắc sâu và làm phong phú thêm các biểu tượng về tốn, tơi
ln định hướng cho trẻ thiết lập mối quan hệ giữa các biểu tượng về
toán với thực tế xã hội. Trẻ biết đưa các biểu tượng toán đã được học
ở lớp gắn với các đồ vật, sự vật của xã hội. Đi đến đâu và làm việc gì
trẻ cũng nhận ra các biểu tượng tốn có ở đó.
Ví dụ: Cầm chiếc khăn tay, trẻ nhìn thấy ngay nó giống hình
vng, nếu gấp phẳng thì giống hình chữ nhật, gấp theo đường chéo
thì giống hình tam giác.
- Về nhà trẻ nhìn chiếc tủ lạnh thấy giống khối chữ nhật, các hộp
nước ngọt giống khối trụ, ra đường trẻ nhìn các bóng đèn trịn giống
khối cầu, những cột điện cao áp cao hơn cái cây, cái nhà này to hơn
cái nhà kia ...


- Cầm chiếc bánh, trẻ biết giống hình trịn, hình vng ... khi cầm
khúc mía trẻ biết giống khối trụ, nhìn vào gia đình này trẻ biết có 4
người, sang gia đình khác trẻ biết có 3 người và biết so sánh gia đình
nào ít hơn, gia đình nào đơng hơn, đơng hơn là mấy ...
- Qua đó, trẻ thấy biểu tượng tốn có ở khắp nơi xung quanh
mình, rất gần gũi, thân quen, vô cùng sinh động và đa dạng, giúp trẻ
thêm u các biểu tượng tốn và thích tham gia các hoạt động làm
quen với toán.
IV. kết quả
Qua việc vận dụng các phương pháp trên vào việc dạy trẻ lớp
mẫu giáo lớn làm quen với toán, theo chương trình của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, tơi đã thu được một số kết quả sau:

1. Về hứng thú:
- Sau khi học 100% trẻ rất thích tham gia các hoạt động làm quen
với toán, mà trước khi học tỷ lệ này là 23%, tăng 77%.
2. Về kỹ năng:
Trước khi học chỉ có 20% trẻ biết sử dụng các đồ dùng, đồ chơi,
đồ vật có ở xung quanh mình làm đồ dùng học toán, sau khi học
100% trẻ biết làm điều này, tăng hơn trước 80%.


Có 85% trẻ thao tác nhanh, sử dụng linh hoạt, sáng tạo các đồ
dùng, đồ chơi, phản xạ nhanh, xử lý tốt trước các tình huống xảy ra.
3. Về chất lượng:
Xếp loại
Trước khi học
Tốt
30%
Khá
25%
Trung bình
35%
Yếu
10%
V. Bài học kinh nghiệm

Sau khi học
70%
18%
12%
0%


Chỉ số so sánh
Tăng 40%
Giảm 7%
Giảm 23%
Giảm 10%

Có rất nhiều biện pháp cho trẻ mầm non làm quen với toán.
Nhưng qua thực tế áp dụng các biện pháp trong quá trình thực hiện
chương trình cho trẻ làm quen với tốn của Bộ Giáo dục - Đào tạo, tôi
đã đúc rút cho mình một số kinh nghiệm quý báu, cần thiết để nâng
cao chất lượng làm quen với toán cho trẻ ở lớp mẫu giáo lớn như sau:
1. ở tuổi mẫu giáo lớn, hoạt động của trẻ vẫn mang tính tự
nguyện, nhưng trẻ lại rất tò mò, ham hiểu biết. Do đó, tạo hứng thú,
kích thích tính tị mị, cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động là một
biện pháp quan trọng không thể thiếu trong mỗi hoạt động, nhất là
hoạt động cho trẻ làm quen với toán.
2. Với trẻ ở lứa tuổi mầm non hoạt động vui chơi là hoạt động
chủ đạo. Trẻ học bằng chơi, chơi mà học, nên giáo viên cần tìm tịi,


sáng tạo, vận dụng linh hoạt các trò chơi, biến giờ học thành giờ chơi
có mục đích để kích thích trẻ hoạt động một cách tích cực, thoải mái,
đạt hiệu quả cao.
3. Trong các hoạt động, người giáo viên cần tạo ra các tình huống
có vấn đề, để trẻ suy nghĩ, vận dụng mọi hiểu biết của mình, xử lý
tình huống theo cách riêng của trẻ. Như vậy sẽ giúp trẻ phát triển tư
duy, khả năng ứng xử và các phản xạ nhanh nhạy. Qua đó kích thích
trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo và chủ động trong mọi hoạt động.
4. Kết hợp dạy trẻ trong nhóm bạn ở mọi lúc, mọi nơi để trẻ tác
động, hỗ trợ, bổ sung kiến thức cho nhau một cách thoải mái, tự tin

nhất.
5. Thiết lập mối quan hệ giữa toán với thực tiễn xã hội để khắc
sâu và làm phong phú, sinh động các biểu tượng toán giúp trẻ thêm
yêu các biểu tượng tốn, thích thú với hoạt động làm quen với tốn.
Trên đây là những kinh nghiệm nho nhỏ mà tôi nghiên cứu, đúc
rút được trong quá trình thực hiện chương trình của Bộ Giáo dục Đào tạo dạy trẻ lớp mẫu giáo lớn làm quen với toán.
Rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo và
các đồng nghiệp.


Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Hải Phịng, ngày 02 tháng 4 năm 2004
Người viết
Nguyễn Kim Tuyến
Năm học 2003 - 2004



×