Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016 TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.01 KB, 42 trang )

Suanan
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐÀO THỊ HỒN

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CƠNG TÁC XUẤT BẢN
TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2016

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 922 90 15

HÀ NỘI, NĂM 2020


Cơng trình được hồn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS Trần Văn Hải
2. PGS. TS Nguyễn Thắng Lợi

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
vào hồi giờ ngày tháng năm 2020



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc gia, Thư viện
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Thư viện Viện Lịch sử Đảng


DANH MỤC BÀI BÁO KHOA HỌC
CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA NGHIÊN CỨU SINH

1.

Đào Thị Hoàn (2020), “Đảng lãnh đạo công tác xuất bản (1986-2001) Chủ trương và một số kết quả”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4.

2.

Đào Thị Hoàn (2020), “Xuất bản Việt Nam trong thời kỳ Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức”, Tạp chí Cộng sản điện
tử, ngày 21-7.

3.

Đào Thị Hồn (2020), “Kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW
về Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn,
tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng tại tỉnh Yên Bái và tỉnh Lào
Cai”, Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, ngày 22-7.

4.


Đào Thị Hồn (2020), “Cơng tác nghiên cứu, biên soạn, xuất bản
sách lịch sử Đảng, lịch sử truyền thống tại tỉnh Yên Bái - Một số kết
quả và kinh nghiệm”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8.

5.

Đào Thị Hoàn (2020), “Vietnam’s Publishing in the Fourth Industrial
Revolution: Opportunities and challenges”, Communist Review, 24-7.

6.

Đào Thị Hoàn (2020) “Renovating book publishing management in
Viennam in the trend of globalization and international integration:
situation and solutions”, Vietnam Journal of Education, Volume 4,
issue 2.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi ra đời đã sử dụng sách, báo
làm công cụ tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng cách mạng, tập
hợp, tổ chức lực lượng và đấu tranh đối với kẻ thù. Công tác xuất bản
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có những đóng góp quan trọng vào sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đề ra những định hướng lớn đối với ngành xuất bản. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng chủ trương: “Quản lý chặt
chẽ công tác xuất bản, công tác điện ảnh và công tác phát hành sách, báo,
phim ảnh. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, nâng cao chất
lượng thông tin” [99, 92] và xác định đây là một trong những nhiệm vụ

quan trọng của công tác xuất bản trong thời kỳ đổi mới… Đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển
sự nghiệp thông tin, báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng,
đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân…
Quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, thơng tin, báo chí…” [100, 84]. Đồng
thời, nhấn mạnh việc “Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng
tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin
đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích” [101, 14-15]. Đứng
trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập và phát triển, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định, cần “Làm tốt công
tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản. Các cơ quan truyền thơng phải
thực hiện đúng tơn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, nâng cao tính tư
tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ cơng
dân, góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt Nam” [123].
Với tinh thần đổi mới toàn diện, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh
đạo ngành xuất bản xác định phương hướng hoạt động phù hợp, từng
bước đưa hệ thống các đơn vị xuất bản, in, phát hành từng bước thích ứng
với cơ chế thị trường, góp phần tun truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tun truyền những mơ hình tiêu biểu
thực hiện nhiệm vụ chính trị; cổ vũ, tạo sự đồng thuận xã hội; nâng cao
kiến thức của nhân dân về chính trị, lý luận và pháp luật, phục vụ sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, xuất bản phẩm
(XBP) là công cụ đấu tranh chống các tư tưởng phản động, thù địch trong
và ngồi nước; cơng cụ quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam hịa bình,
hữu nghị, ổn định và phát triển năng động, giàu tiềm năng hợp tác và là
1


một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; góp phần

thơng tin về Việt Nam, giúp nhân dân thế giới và người Việt Nam ở nước
ngoài hiểu đúng về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước, về đất nước, con người Việt Nam. Chú trọng đảm bảo định
hướng chính trị và hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất bản.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lãnh đạo, quản lý hoạt
động xuất bản thời kỳ đổi mới còn những hạn chế, yếu kém… Song song
với đó, khi khoa học cơng nghệ phát triển mạnh mẽ, sự bùng nổ của dữ
liệu, số hóa, kết nối internet, với những thành tựu đột phá về công nghệ
thông tin, hoạt động xuất bản của các quốc gia trên thế giới có sự phát
triển nhanh chóng, hiện đại, đặt ra hàng loạt vấn đề và thách thức đối với
ngành xuất bản Việt Nam: Khi công nghệ và tự động hóa phát triển, các
đơn vị xuất bản phải đối mặt với áp lực nâng cao chất lượng sản phẩm, cải
tiến và đổi mới dây chuyền công nghệ, nguồn nhân lực cần có năng lực về
cơng nghệ cao;… XBP điện tử phát triển, cạnh tranh gay gắt với sách truyền
thống; công nghệ, nhân lực và nguồn vốn của các đơn vị xuất bản, đặc biệt là
lĩnh vực in ấn, phát hành của Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với u
cầu; năng lực, quy mơ, trình độ của các nhà xuất bản (NXB) còn nhiều hạn
chế, mơ hình tổ chức chưa phù hợp; cơng tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về
xuất bản trên một số mặt chưa hiệu quả, nhất là quản lý xuất bản điện tử;...
Vì vậy, cơng tác xuất bản đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, địi hỏi phải được nghiên cứu
tồn diện, đầy đủ, có hệ thống sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với công tác xuất bản trong thời kỳ đổi mới. Việc tổng kết thực tiễn,
đánh giá quan điểm, chủ trương của Đảng trong công tác xuất bản, đúc rút
các kinh nghiệm chủ yếu là yêu cầu cần thiết, góp phần cung cấp những
luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước tiếp tục xây dựng và hồn thiện cơ
chế, chính sách cho cơng tác xuất bản hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo công tác xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016” làm

luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất bản từ năm
1990 đến năm 2016. Từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng cho
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết một số
nhiệm vụ cơ bản: Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến luận án;
2


Làm rõ bối cảnh lịch sử và những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016; Làm rõ những chủ
trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác xuất bản từ năm 1990 đến
năm 2016; Phân tích q trình Đảng chỉ đạo cơng tác xuất bản qua hai giai
đoạn 1990-2004 và giai đoạn 2004-2016; Đánh giá thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân; Đúc kết những kinh nghiệm qua thực tiễn q trình Đảng lãnh
đạo cơng tác xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo công tác xuất bản của Đảng từ năm
1990 đến năm 2016.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Bắt đầu từ năm 1990 - là năm Ban Bí thư Trung ương
Đảng (Khóa VI) ban hành Chỉ thị số 63-CT/TW, ngày 25-7-1990, Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác báo chí, xuất bản. Đây
được coi là văn kiện quan trọng đánh dấu mốc đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác báo chí, xuất bản. Mốc thời gian
kết thúc nghiên cứu: năm 2016 - là năm Ban Bí thư Trung ương Đảng ra

Thông báo số 19-TB/TW, ngày 29-12-2016, Về việc tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư khóa IX “Về nâng cao chất lượng tồn
diện của hoạt động xuất bản”.
- Về khơng gian: Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác xuất bản trên phạm vi cả nước, trong đó tập trung khảo sát hoạt
động của một số đơn vị xuất bản tại Hà Nội.
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác xuất bản trên các mặt: định hướng lãnh đạo, quản lý hoạt động
xuất bản; chỉ đạo hoạt động kiểm tra, giám sát công tác xuất bản; công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xuất bản.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic.
Bên cạnh đó là các phương pháp: phân tích, tổng hợp, kết hợp các phương
pháp liên ngành như phương pháp điều tra bảng hỏi,…
4.3. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện của Đảng; các quy hoạch, văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước và các cơ quan liên quan; các cơng trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài của tập thể, cá nhân,…; Nguồn tài liệu, số liệu khảo
sát thực tế ở một số NXB, cơ quan quản lý hoạt động xuất bản.
3


5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ sự chủ động và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác
xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016; Đúc rút những kinh nghiệm có giá trị
lý luận và thực tiễn của Đảng trong lãnh đạo công tác xuất bản từ năm 1990
đến năm 2016, góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ việc bổ sung,

hoàn thiện chủ trương, chính sách đối với cơng tác xuất bản.
- Làm rõ quá trình phát triển của hoạt động xuất bản ở Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1990 đến năm 2016; Thông qua đánh giá kết
quả của cơng tác xuất bản, góp phần làm rõ hiệu quả triển khai thực hiện các
chỉ thị, nghị quyết, thông báo kết luận của Đảng; các luật, nghị định, thông tư
của Nhà nước về công tác xuất bản; Luận án cịn có thể làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành lịch sử Đảng, chuyên
ngành xuất bản.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận án gồm 4 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Cơng trình nghiên cứu về hoạt động xuất bản
Đề cập tới hoạt động xuất bản ở trong nước, tiêu biểu là các cơng
trình: Trần Văn Phượng (1997), Vì sự nghiệp xuất bản, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Tạ Ngọc Tấn (2003), “Đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số 61, tháng 6; Đỗ Quý Dỗn (2005),
“Thực trạng hoạt động báo chí, xuất bản và cơng tác quản lý nhà nước năm
2004”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 4-2005; Đinh Xuân Dũng (2008),
“Vấn đề quy mơ, năng lực và mơ hình của xuất bản Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Tuyên giáo, số 10-2008; Trần Hùng Phi (2009), “Hoạt động xuất
bản ở thành phố Hồ Chí Minh những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động”, Tạp chí Khoa học chính trị, số 5-2009; Nhiều tác giả
(2011), Xuất bản Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Nhiều tác giả (2012), Xuất bản Việt Nam trong bối
cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB Thời đại, Hà Nội; Nhiều
4



tác giả (2012), Một số nghiên cứu về xuất bản nước ta trong những năm
gần đây, NXB Thời đại, Hà Nội; Đặng Vũ Huân (2012), “Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý báo chí, xuất bản của cơ quan chủ quản”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 6; Phạm Thị Thanh Tâm, Thái Thu Hoài
(2014), “Ngành xuất bản - xu hướng phát triển và vấn đề quản lý”, Tạp
chí Văn hố Nghệ thuật, số 362, tháng 8; Nguyễn An Tiêm-Nguyễn
Nguyên (đồng chủ biên, 2015), Xã hội hóa hoạt động xuất bản - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn;...
Đề cập đến hoạt động xuất bản nước ngồi, có thể kể đến các cơng trình:
Tác giả G. Philip Altbach và Damfew Teferra (1999), Xuất bản và phát triển,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Emmanuel Pierrat (2007), Quyền tác giả và
hoạt động xuất bản (In lần thứ 3), NXB Hội Nhà văn, Trung tâm Quyền tác giả
Văn học Việt Nam; Xu và Fang (2008), trong Đề tài “Cơng nghiệp xuất bản
Trung Quốc hướng tới tồn cầu: Bối cảnh và Hiệu suất” (Chinese Publishing
Industry Going Global: Background and Performance); Grigoriev và Adjoubei
(2009), Đề tài “Khảo sát xuất bản sách ở Nga” (Survey of Book Publishing in
Russia); Kulesz (2011), Đề tài “Xuất bản kỹ thuật số ở các nước đang phát
triển: Sự nổi lên của các mơ hình mới?” (Digital Publishing in Developing
Countries: The Emergence of New Models?); N.D.Eriasvili (2013), Xuất bản:
Quản trị và Marketing, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;...
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước đối với công tác xuất bản
Có thể kể đến các cơng trình cơ bản như: Vụ Báo chí-Xuất bản, Ban
Tư tưởng Văn hóa Trung ương (1992), Nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác báo chí, xuất bản, NXB Tư tưởng-Văn hóa, Hà Nội; Đường Vinh
Sường (1993), Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động của các NXB
trong bước chuyển sang cơ chế thị trường-Luận án PTS chuyên ngành kinh
tế; Vũ Mạnh Chu (1996), Pháp luật xuất bản ở Việt Nam, quá trình thực

hiện và đổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Luận án Phó tiến sĩ, chuyên ngành: Lý luận nhà nước và pháp
quyền; NXB Lao động (2000), Đảng-Bác Hồ khai sinh ngành xuất bản
cách mạng Việt Nam thế kỷ XX, NXB Lao động, Hà Nội; Khuất Duy Hải
5


(2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức quản lý ở các NXB nước ta
hiện nay, Luận án chuyên ngành Kinh tế; Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương, Bộ Văn hóa - Thơng tin, Hội Nhà báo Việt Nam (2002), Tiếp tục
thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đình Nhã (2002), “Tăng cường quản lý hoạt
động xuất bản”, Tạp chí Cộng sản, số 15, tháng 5; Trần Văn Phượng
(2002), Quá trình xây dựng Luật Xuất bản (Kỷ yếu), NXB Văn hóa Thơng tin, Hà Nội; Hồng Vinh (2006), “Một số vấn đề đặt ra từ công tác
lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí, xuất bản trong tình hình hiện nay”,
Tạp chí Tư tưởng - văn hóa, số 7; Nguyễn Duy Bắc (2009), Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo công tác báo chí - xuất bản trong thời kỳ đổi mới,
Đề tài khoa học cấp bộ của Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung
ương; Đỗ Quý Doãn (2010), “Thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng
về báo chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước”, Tạp chí
Cộng sản, số 4; Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Một số vấn đề đặt ra
và giải pháp thúc đẩy công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà
Nội; Nguyễn An Tiêm, Nguyễn Nguyên (Đồng chủ biên) (2013), Tổ chức,
quản lý và chính sách xuất bản của một số quốc gia - kinh nghiệm đối với
Việt Nam; Lê Văn Yên (2013), Quản lý nhà nước đối với hoạt động in và
phát hành sách ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ của Hội động
Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương; Phạm Thị Vui (2013), “Một số
vấn đề về chính sách xuất bản ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Quản lý nhà

nước, số 9-2013; Nguyễn Anh Tú (2015), Quản lý nhà nước đối với hoạt
động xuất bản ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế
(Khoa học quản lý), Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội; Vũ Thùy Dương
(2016), Nhận diện các sai phạm trong hoạt động xuất bản sách hiện nay thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp cơ sở trọng điểm, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội;...
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trong nước khá phong phú,
của cả các nhà khoa học và các nhà lãnh đạo quản lý, những người hoạt
động trực tiếp trong lĩnh vực xuất bản. Các cơng trình khơng chỉ nêu rõ
6


quan điểm của Đảng, những quy định của Nhà nước về xuất bản, mà còn
nêu rõ thực trạng hoạt động xuất bản trên những nội dung cụ thể, những
khó khăn, vấn đề cần tháo gỡ đối với hoạt động xuất bản.
1.2. Kết quả các cơng trình nghiên cứu và những vấn đề luận án
tiếp tục giải quyết
1.2.1. Kết quả các cơng trình nghiên cứu
Các cơng trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đã làm rõ một số
vấn đề: Luận chứng sự cần thiết và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động xuất bản và công tác quản lý nhà nước về xuất bản; Điểm qua những
quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xuất bản. Tuy nhiên, các
cơng trình trên chưa hệ thống được các quan điểm, chủ trương của Đảng
về công tác xuất bản; chưa phân tích có hệ thống và đầy đủ về q trình
hồn thiện quan điểm, chủ trương, cũng như chưa nghiên cứu cụ thể về
vai trò định hướng của Đảng đối với công tác xuất bản trong cơ chế thị
trường, định hướng XHCN.
Các cơng trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động
xuất bản đã nêu được một cách khái quát thực trạng quản lý nhà nước về
công tác xuất bản trong thời kỳ đổi mới; phân tích, đánh giá kết quả hoạt
động và bước đầu đưa ra được một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng của hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, các cơng trình này mới
dừng lại ở việc phân tích thực trạng quản lý nhà nước về xuất bản; kết quả
hoạt động cụ thể các NXB mà chưa xây dựng được các giải pháp mang
tính tồn diện và khả thi nhằm lập lại trật tự trong lĩnh vực xuất bản, đặc
biệt là lĩnh vực in và phát hành sách còn nhiều yếu kém, bất cập.
Các cơng trình nghiên cứu về xuất bản và hoạt động xuất bản đã hệ
thống quan điểm về vị trí, vai trị và chức năng của xuất bản và hoạt động
xuất bản; đưa ra những khái niệm, đặc điểm, nội dung và đặc trưng, đặc
thù hoạt động xuất bản Việt Nam. Các nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề
lý luận và thực tiễn của hoạt động xuất bản với tư cách là một lĩnh vực
khoa học đặc thù.
Một số cơng trình nghiên cứu về hoạt động xuất bản ở nước ngoài
cho thấy, xuất bản là lĩnh vực đặc thù, các nước có quan điểm khác nhau
7


về quản lý hoạt động xuất là do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác
nhau. Đối với các nước phát triển, doanh nghiệp xuất bản hoạt động thuần
túy trong cơ chế thị trường thì mục tiêu hoạt động xuất bản tập trung giải
quyết mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng chủ yếu mang
tính chất kinh doanh, do vậy nhà nước khơng có cơ chế, chính sách riêng
cho hoạt động này. Vì vậy, nghiên cứu hoạt động xuất bản và phương
thức quản lý xuất bản ở các quốc gia này thường tập trung vào vấn đề tiếp
cận thị trường, quan hệ công chúng, trào lưu xuất bản mới,..
Những đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động xuất bản về mặt nghiệp vụ như: công tác xây dựng kế hoạch đề tài,
công tác cộng tác viên, công tác in ấn, phát hành sách đã được đề cập đến.
Tuy nhiên, đó là những nghiên cứu riêng rẽ về mặt nghiệp vụ xuất bản là
chủ yếu. Do đó, các cơng trình nêu trên có ý nghĩa tham khảo hữu ích cho
triển khai nghiên cứu đề tài luận án, đặc biệt là có thể kế thừa về cách tiếp

cận, phương pháp và một số tư liệu, tài liệu.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu, giải quyết
Một là, làm rõ những yếu tố tác động, yêu cầu đối với sự lãnh đạo
của Đảng về phát triển hoạt động xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016.
Hai là, luận án tập hợp, hệ thống hóa các văn bản chỉ đạo của Đảng
đối với cơng tác xuất bản qua mỗi giai đoạn; phân tích quan điểm, chủ
trương của Đảng về công tác xuất bản từ năm 1990 đến năm 2016 một
cách tồn diện, có hệ thống, trong đó, tập trung làm rõ sự phát triển trong
nhận thức và chủ trương của Đảng về công tác xuất bản.
Ba là, làm rõ vai trò chỉ đạo thực tiễn của Đảng đối với công tác xuất
bản, thể hiện ở những điểm sau: Vai trò định hướng trong việc quy hoạch
phát triển, xây dựng chiến lược, chương trình mục tiêu hoạt động xuất
bản; Vai trò của các cơ quan tham mưu cấp ủy từ Trung ương đến các cơ
quan chủ quan, các tỉnh, thành phố; Vai trò định hướng chính trị, tư tưởng
của tổ chức đảng, đồn tại cơ quan chủ quản, các NXB, cơ sở in và các
đơn vị phát hành sách; Sự chỉ đạo của Đảng trong việc thể chế hóa, xây
dựng, ban hành và thực thi những văn bản pháp quy về lĩnh vực xuất bản
đã góp phần trực tiếp định hướng và điều chỉnh hoạt động xuất bản như
8


thế nào; Cơ chế phối hợp cụ thể giữa cơ quan chỉ đạo với cơ quan quản lý
trong công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực xuất bản; Vai trò của Đảng
trong việc định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành xuất bản.
Bốn là, đưa ra những nhận xét khách quan, khoa học về những ưu
điểm, hạn chế, làm rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế; đúc kết
những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo công tác xuất bản
từ năm 1990 đến năm 2016.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG

ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XUẤT BẢN TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2004
2.1. Một số khái niệm
Xuất bản: Khái niệm xuất bản được định nghĩa qua những lần sửa
đổi Luật Xuất bản các năm 1993, 2004, 2008 (sửa đổi), 2012. Luật Xuất
bản năm 2012 quy định: Xuất bản “là việc tổ chức, khai thác bản thảo,
biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua
các phương tiện điện tử”.
Công tác xuất bản: Khái niệm về công tác xuất bản được hiểu là tổng
thể các hoạt động: lãnh đạo, quản lý xuất bản; sản xuất, phân phối, tiêu dùng
XBP (hoạt động xuất bản: biên tập-in-phát hành XBP); đào tạo nhân lực xuất
bản; thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất bản.
Hoạt động xuất bản: là công việc của NXB, cơ sở in, đơn vị phát hành
XBP. Trong cơ chế thị trường, hoạt động xuất bản vừa là hoạt động sự nghiệp
cơng ích, vừa là dịch vụ cơng cộng, hoạt động kinh doanh sản phẩm văn hóa.
Như vậy, cơng tác xuất bản có nội hàm bao trùm hoạt động xuất
bản ở khâu lãnh đạo, quản lý xuất bản, công tác lãnh đạo, quản lý xuất
bản. Việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất bản là
nghiên cứu nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trên các mặt: công
tác định hướng, chỉ đạo của Đảng; công tác quản lý của Nhà nước (thể
chế hóa và chỉ đạo hoạt động xuất bản); hoạt động xuất bản (biên tập - in
ấn - phát hành); công tác đào tạo nhân lực xuất bản; công tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động xuất bản.
9


2.2. Những yếu tố tác động đến công tác xuất bản
2.2.1. Tình hình trong nước và quốc tế
Đầu những năm 90 thế kỷ XX, trên thế giới, sự biến đổi phức tạp,
đột ngột của tình hình quốc tế tác động sâu sắc đến Việt Nam. Sự sụp đổ
của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và sự tan rã của hệ thống các

nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động mạnh đến tư tưởng và tình
cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam; Hoạt động
phá hoại của các thế lực thù địch ở cả trong và ngoài nước diễn biến phức
tạp,... Hơn lúc nào hết, sách, báo là vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần giữ vững sự ổn định về chính trị, đẩy mạnh cơng cuộc đổi
mới, nâng cao dân trí, phát huy dân quyền,... [218, 46]. Đây là bối cảnh
thuận lợi để đổi mới hoạt động xuất bản, đổi mới các cơ quan xuất bản
thích ứng với cơ chế thị trường.
2.2.2. Thực trạng công tác xuất bản trước năm 1990
Trước năm 1990, Đảng xác định xuất bản là khâu quan trọng trên
mặt trận văn hóa tư tưởng. Do đó, Đảng và Nhà nước lãnh đạo tồn
diện cơng tác xuất bản, khơng tư nhân hóa các NXB; Đổi mới tư duy,
cách thức lãnh đạo xuất bản; Tăng cường kiện toàn các cơ quan lãnh
đạo quản lý xuất bản. Vì vậy, hoạt động xuất bản đã đạt được những
kết quả bước đầu. Tuy nhiên, vì những ngun nhân khách quan, chủ
quan khác nhau, cơng tác xuất bản, nhất là hoạt động in ấn, phát hành
sách cịn có những mặt hạn chế, địi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với yêu cầu của công cuộc đổi mới.
2.3. Chủ trương của Đảng về công tác xuất bản (1990-2004)
Tại các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI,
VII, VIII, IX, Đảng đã có những định hướng lớn đối với cơng tác xuất
bản. Trên cơ sở đó, một số chỉ thị quan trọng, chỉ đạo cụ thể hoạt động
xuất bản ở mỗi thời kỳ đã được ban hành. Đó là: Chỉ thị số 63-CT/TW,
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) 25-7-1990 Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác báo chí, xuất bản. Đây là văn kiện
quan trọng đầu tiên kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nêu rõ nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí, xuất
bản. Tiếp đó, từ năm 1991 đến năm 2004, hai văn bản quan trọng về tăng
cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác xuất bản được ban hành, đó là Chỉ thị
số 08-CT/TW, ngày 3-3-1992 của Ban Bí thư Về tăng cường sự lãnh đạo

và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác báo chí, xuất
10


bản; Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị Về tiếp tục
đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí, xuất bản, đã
đưa ra những định hướng lớn đối với công tác xuất bản, thể hiện tư tưởng
nhất quán trong xác định vị trí, vai trị, nhiệm vụ của cơng tác xuất bản
giai đoạn 1990-2004.
Một là, Đảng nhận mạnh vai trò định hướng tư tưởng chính trị cho cơng
tác xuất bản, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đầu đổi mới; Hai là, nâng cao chất
lượng công tác xuất bản, phục vụ kịp thời, hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đất
nước; Ba là, tập trung nguồn lực, đầu tư cơ sở vật chất cho công tác xuất bản,
nhất là cơ chế đặt hàng; Bốn là, coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ báo chí,
xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là các cán bộ chủ chốt; Năm là, phát triển
phải đi đơi với quản lý tốt, đồng thời kiện tồn các cơ quan chỉ đạo, quản lý
báo chí-xuất bản của cấp ủy đảng và chính quyền.
Những nội dung trên là một thể thống nhất, những định hướng lớn để
công tác xuất bản được đẩy mạnh và phát tiển một cách đồng bộ và hiệu quả.
2.4. Q trình chỉ đạo cơng tác xuất bản
2.4.1. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về xuất bản
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng tại các kỳ Đại hội, các cơ
quan Nhà nước đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách, mơ hình tổ chức và các thiết chế hỗ trợ phát triển đối với hoạt động xuất
bản. Tháng 7-1993, Luật Xuất bản được ban hành. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng, tạo hành lang và môi trường cho hoạt động xuất bản, góp phần quan
trọng trong việc lập lại trật tự thị trường XBP. Đồng thời, Nhà nước đã có
nhiều chính sách hỗ trợ hoạt động xuất bản, như chính sách đầu tư: con
người, tài chính, phương tiện kỹ thuật; chính sách tài trợ: trợ giá, đặt hàng, trợ
phí phát hành các loại sách dành cho học sinh, thư viện, trường học, vùng sâu,

vùng xa; điều chỉnh giá thuế giá trị gia tăng và thuế doanh nghiệp,...

2.4.2. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất bản
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản được quy định cụ thể
trong Luật Xuất bản. Theo đó, “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
hoạt động xuất bản trong cả nước; trình dự án luật, pháp lệnh về hoạt động
xuất bản; quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp xuất bản,
chính sách đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước ngoài; ban hành quyết định về
quản lý nhà nước và các chính sách khác về xuất bản, in, phát hành theo thẩm
quyền quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ” [184, Điều 32].
11


Từ năm 1990 đến năm 2004, chủ trương của Đảng về công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ngày càng hoàn thiện hơn. Đặc
biệt, trong thời gian này, Bộ Văn hóa - Thơng tin đã Phê duyệt Quy hoạch
phát triển ngành Xuất bản, In, Phát hành sách đến năm 2010 (năm 2002).
Đây là văn bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển của tồn
ngành trong tình hình mới, tạo ra những chuyển biến đáng kể trong công
tác xuất bản.
2.4.3. Đảng lãnh đạo nâng cao chất lượng và hồn thiện quy trình
của cơng tác xuất bản
Đảng lãnh đạo sắp xếp hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ
quan xuất bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, từ năm
1990 đến năm 2004, hoạt động xuất bản trong cơ chế thị trường dần được
xác lập theo hướng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết
của Nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái, tác
động khơng nhỏ đến cơng tác quản lý hoạt động xuất bản. Thị trường sách
ở vùng sâu, vùng xa bị bỏ ngỏ, tình trạng chênh lệch về hưởng thụ văn
hóa thơng qua XBP giữa các vùng sâu, vùng xa, cản trở sự phát triển đồng

đều giữa các vùng, địa bàn. Xu hướng “thương mại hóa” trong khâu sản
xuất, lưu thơng XBP gia tăng, dẫn đến tình trạng trốn thuế, in lậu và đưa
ra thị trường những XBP có nội dung sai trái, khơng lành mạnh, trái với
quan điểm của Đảng, Nhà nước.

2.4.4. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xuất bản
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng các cơ quan quản lý
nhà nước tiến hành nghiên cứu và triển khai các đề án nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ xuất bản, trong đó trọng tâm là nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất bản. Đội ngũ cán bộ trong các
NXB, hằng năm đều được cử tham gia lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ. Từng bước nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận chính trị của đội ngũ lãnh đạo quản
lý, cán bộ, công chức trong ngành xuất bản. Đổi mới phương thức đào
tạo, bồi dưỡng phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp và thực tiễn hoạt
động xuất bản, in, phát hành; đa dang hóa hình thức và phương pháp đào
tạo. Từ năm 1990 đến năm 2004, trung bình mỗi năm, Học viện Báo chí
và Tun truyền đào tạo từ 40 đến 50 cử nhân Biên tập xuất bản. Cử
nhân phát hành sách được đào tạo tại Đại học Văn hóa Hà Nội; Trường
12


Cao đẳng Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh đào tạo chuyên ngành kinh
doanh XBP trình độ cao đẳng. Năm 1997, nguồn nhân lực được đào tạo,
bồi dưỡng của toàn ngành xuất bản là 2.340 người, đến cuối năm 2002 là
3.701 người được đào tạo, bồi dưỡng. Toàn ngành in có 40.000 lao
động, trong đó có 15.000 lao động được đào tạo, bồi dưỡng trực tiếp sản
xuất [18, 4].
Bên cạnh đó, chú trọng đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật
của các cơ sở đào tạo, tăng cường phối hợp nghiên cứu, đào tạo với

nước ngoài trong lĩnh vực xuất bản. Đổi mới và hiện đại hóa chương
trình, nội dung đào tạo, đảm bảo cân bằng giữa lý thuyết và thực hành,
gắn đào tạo với thực tiễn. Tuy đã có nhiều kết quả, nhưng cơng tác đào
tạo nguồn nhân lực cho hoạt động xuất bản cịn có nhiều hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu là chưa xây dựng được quy hoạch đội ngũ cán bộ
xuất bản làm căn cứ cho cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển trình độ
chuyên môn một cách khoa học, cơ bản và lâu dài.
2.4.5. Chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của các NXB và chất lượng các
XBP, Đảng chỉ đạo phải chú trọng và đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám
sát, gồm kiểm tra nội dung chính trị - tư tưởng trong các XBP; chỉ đạo
phối hợp với các cơ quan Nhà nước xử lý nghiêm đối với những người vi
phạm, lợi dụng xuất bản để thực hiện mưu đồ xấu;…
Từ năm 1990 đến năm 2004, các cơ quản quản lý đã rà rốt, chấn chỉnh
lại tồn bộ hoạt động xuất bản, trên các mặt: Kiểm tra và giám sát việc thực
hiện tơn chỉ, mục đích của các NXB đúng theo giấp phép hoạt động đã được
cấp. Ngồi ra cịn tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật, các thủ tục và
chế độ chính sách trong hoạt động xuất bản; kiểm tra việc tổ chức thực hiện
quy trình xuất bản,…
Tiểu kết: Sau 14 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơng tác xuất bản
đã có những bước phát triển nhanh, đồng bộ và hiệu quả. Tuy nhiên,
trong quá trình lãnh đạo cơng tác xuất bản, vẫn cịn nhiều hạn chế, bất
cập trong cả ba khâu xuất bản, in và phát hành, đòi hỏi phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, từng bước hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp
luật về xuất bản là yêu cầu khách quan nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ
chiến lược phát triển xuất bản trong giai đoạn tiếp theo.
13


Chương 3

ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC
XUẤT BẢN TRONG BỐI CẢNH MỚI (2004-2016)
3.1. Yêu cầu đẩy mạnh công tác xuất bản trong tình hình mới
3.1.1. Tình hình trong nước và quốc tế
Những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ với nền tảng là internet, số hóa; sự phát triển
mạnh mẽ của giao thông vận tải đã thúc đẩy tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế... Nhiều phương tiện truyền thông, đặc biệt là các phương tiện
điện tử, tác động đến ngành xuất bản, tạo cho ngành xuất bản nhiều thời
cơ và thách thức đan xen. Nhiều loại hình XBP điện tử trở nên phổ biến:
đĩa CD, VCD, DVD,… XBP điện tử phát triển, cạnh tranh gay gắt với
sách truyền thống.
Các lực lượng thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam ln coi báo
chí, xuất bản là phương tiện trọng yếu để tác động, thực hiện âm mưu
“diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền”, “tự do báo chí”…
Cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt, tạo những khó khăn và
thách thức lớn đối với sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước nói chung và đối với cơng tác xuất bản nói riêng.
Bối cảnh trên vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với hoạt động xuất
bản, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới trong quản lý hoạt động xuất bản
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất bản.
3.1.2. Yêu cầu đặt ra đối với công tác xuất bản
Vấn đề lớn đặt ra đối với xuất bản trong thời kỳ mới là làm thế nào để
vừa thực hiện chức năng là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước trên lĩnh
vực văn hóa-tư tưởng, lại vừa bảo đảm phát triển như một ngành kinh tế kỹ
thuật trong cơ chế thị trường, định hướng XHCN. Do đó, yêu cầu đặt ra đối
với công tác xuất bản thời kỳ mới là: Bảo đảm tính định hướng chính trị
trong bối cảnh mới; Đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, sự quản lý Nhà nước đối với công tác xuất bản; Nâng cao nhận thức

của các cơ quan chủ quản về vai trò, chức năng của xuất bản.

14


3.2. Chủ trương của Đảng về đẩy mạnh công tác xuất bản (2004-2016)
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng, vai
trò quan trọng của báo chí, xuất bản tiếp tục được khẳng định. Đặc biệt,
trước những yêu cầu mới của công tác xuất bản, ngày 25-8-2004, Ban Bí
thư Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW Về nâng cao chất
lượng toàn diện của hoạt động xuất bản. Trong đó nhấn mạnh, hoạt động
xuất bản phải coi trọng việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, đáp ứng
nhu cầu đọc của nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh
doanh, xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế - cơng nghệ
phát triển tồn diện, vững chắc. Cần xây dựng những chính sách và cơ chế
phù hợp để xuất bản hoạt động có hiệu quả trong cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa [6]. Chỉ thị số 42-CT/TW đánh dấu bước
ngoặt quan trọng của hoạt động xuất bản trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, kịp thời định hướng cho
hoạt động xuất bản, in, phát hành XBP phát triển.
3.3. Chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác xuất bản, đáp ứng yêu cầu mới
3.3.1. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về xuất bản
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước tập trung xây dựng,
hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, mơ hình tổ chức và các thiết chế hỗ
trợ phát triển hoạt động xuất bản. Công tác thể chế hoá, xây dựng pháp luật
được đẩy mạnh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất bản.
Trước yêu cầu quản lý hoạt động xuất bản trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất bản phát triển đúng định hướng, nâng cao hiệu quả công tác
quản lý xuất bản, khắc phục những vấn đề nảy sinh, phát triển trong thực

tiễn, ngày 3-12-2004, Quốc hội thông qua Luật Xuất bản (2004) và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2005. Luật Xuất bản (2004) đã giao quyền
chủ động thực hiện nhiệm vụ xuất bản cho cơ quan chủ quản, giám đốc,
tổng biên tập NXB, quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan và cá
nhân đối với nhiệm vụ được giao. Quy định cụ thể tiêu chuẩn, nhiệm vụ,
trách nhiệm và quyền hạn của biên tập viên NXB, đội ngũ thực hiện một
khâu rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng của các XBP.
Sau đó, Quốc hội tiếp tục ban hành Luật Xuất bản (2008, sửa đổi),
Luật Xuất bản (2012). Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng đã ra các văn
bản hướng dẫn dưới luật về các vấn đề liên quan đến công tác xuất bản,
tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất bản, góp phần quan trọng trong
việc lập lại trật tự thị trường XBP.
15


3.3.2. Tăng cường đổi mới công tác quản lý xuất bản đáp ứng những yêu
cầu nhiệm vụ mới
Xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác xuất bản từ
năm 2004 đến năm 2016, Đảng luôn khẳng định vị trí, vai trị của xuất bản
trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng; từ đó, xác định nhiệm vụ và giải pháp để
xuất bản phát triển, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Những định
hướng đó thể hiện qua các nội dung: Một là, xác định rõ vị trí, vai trị của
cơng tác xuất bản trong cơng tác văn hóa tư tưởng của Đảng, đời sống tinh
thần xã hội; hai là, tăng cường nguồn lực cho công tác xuất bản và coi đây
là ngành kinh tế công nghệ đặc thù; ba là, đổi mới toàn diện, nâng cao
chất lượng từng khâu trong quy trình xuất bản, mang lại hiệu quả cao; bốn
là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác xuất
bản; năm là, tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất.
Chính phủ, các bộ, ngành đã xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển xuất bản; các cơ quan

chức năng đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động xuất
bản, bản quyền tác giả, chính sách thuế, chính sách đặt hàng XBP, chính
sách hỗ trợ cước vận chuyển sách đến vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn...
Ngày 16-1-2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
115/QĐ-TTg, Về việc phê duyệt quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát
hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quy hoạch
nêu rõ quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong cơng tác xuất bản: (1).
Phát triển hoạt động xuất bản, in, phát hành XBP đáp ứng nhu cầu về
XBP của nhân dân, đóng góp tích cực vào việc xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. (2). Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực: a) Xuất bản; b) Phát hành XBP tại
các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và ra nước ngoài. (3). Thu hút các
nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản, in, phát hành XBP
theo quy định của pháp luật, phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước” [204].
Như vậy, từ năm 2004 đến năm 2016, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về cơng tác xuất bản, Chính phủ, các bộ đã ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật về công tác xuất bản và liên quan, đáp ứng kịp thời,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơng tác xuất bản, góp phần xây
dựng, phát triển ngành xuất bản.
16


3.3.3. Nâng cao toàn diện chất lượng hoạt động xuất bản
Trong giai đoạn 2004-2016, thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TWcủa Ban Bí
thư, trên cơ sở đó, Luật Xuất bản (năm 2004) cùng nhiều văn bản quy định
chi tiết và hướng dẫn về cơng tác xuất bản, thị trường XBP có nhiều khởi sắc.
Chất lượng nội dung được nâng cao, ngày càng có nhiều XBP với thể loại
phong phú, đa dạng hơn. Trải qua hơn 10 năm toàn ngành xuất bản, in,

phát hành thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư, hệ thống các
NXB được giữ vững, ổn định, năng lực, trình độ được tăng cường, lực
lượng lao động tại các NXB có bước phát triển nhất định cả về lượng và
chất; năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm in được cải thiện, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của độc giả… Cùng với việc phục vụ nhiệm vụ chính trị,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, ngành phát hành đã được xã
hội hóa cao, phát triển mạnh về số lượng, từng bước mở rộng quy mô và
năng lực hoạt động…
3.3.4. Chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xuất bản
Nguồn nhân lực trong hoạt động xuất bản là yếu tố quyết định cho
sự phát triển của ngành xuất bản Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Trên cơ sở quan điểm, chủ
trương của Đảng qua các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, X, XI, XII và nội dung định hướng cụ thể về công tác xuất bản Chỉ
thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ
quan quản lý nhà nước từng bước xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xuất bản. Cơng tác kiện tồn hệ
thống cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản, các NXB, cơ sở in, cơ sở
phát hành theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phân công, phân nhiệm rõ
ràng, được tiến hành nghiêm túc. Qua số liệu khảo sát cho thấy, từ năm
2004 đến năm 2016, trung bình mỗi năm, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền đào tạo từ 40-50 cử nhân biên tập-xuất bản; thạc sĩ xuất bản trung
bình mỗi năm đào tạo 5 học viên. Sau năm 2016, số lượng sinh viên ra
trường mỗi năm khoảng 100 người thuộc hai chuyên ngành là biên tập
xuất bản và xuất bản điện tử (từ năm 2019). Ngành phát hành sách có
khoảng hơn 50.000 lao động (năm 2012), trong số đó, chủ yếu là lao
động được đào tạo từ Trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Trường Đại
học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
17



3.3.5. Chỉ đạo thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản
Thực hiện chủ trương của Đảng, đặc biệt là Chỉ thị số 42-CT/TW của
Ban Bí thư, cơng tác quản lý, kiểm tra giám sát hoạt động xuất bản ngày
càng được thực thi nghiêm túc. Các đơn vị chức năng tập trung nhiều hơn
đến công tác hậu kiểm, công tác thanh tra, giám sát được tiến hành thường
xuyên. Cương quyết xử lý sai phạm, xử lý, thu hồi XBP sai phạm.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường, kịp thời phát hiện các
trường hợp in lậu, xử phạt hành chính và chuyển hồ sơ sang cơ quan điều
tra đối với một số trường hợp in lậu. Cục Xuất bản-In-Phát hành, Bộ
Thông tin và Truyền thông phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng xử
lý, kiểm tra kiểm soát chặt chẽ những sai phạm trong lĩnh vực xuất bản,
đạt hiệu quả định hướng tư tưởng, hạn chế tác động xấu đến xã hội.
Tiểu kết: Từ năm 2004 đến năm 2016, sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác xuất bản đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đảng đã xây dựng
những định hướng lớn, với những chiến lược thích hợp, tạo điều kiện cho
cơng tác xuất bản phát triển trong cơ chế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế. Những chủ trương của Đảng được khẳng định tại Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII, các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận của Ban Bí thư, chỉ đạo nâng cao chất lượng toàn diện của
hoạt động xuất bản. Phương thức hoạt động của các NXB đổi mới theo
hướng linh hoạt, năng động và hiệu quả. Công nghệ xuất bản từng bước
được đầu tư, phát triển theo hướng hiện đại hóa. Năng lực của người làm
xuất bản từng bước được nâng cao. Những thành tựu đó khẳng định, chủ
trương của Đảng trong lãnh đạo cơng tác xuất bản là hồn tồn đúng đắn,
mang lại những bước phát triển quan trọng của toàn ngành xuất bản trong
bối cảnh lịch sử mới. Tuy vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xuất
bản vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục…


18


Chương 4
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
4.1. Một số nhận xét
Từ thực tiễn lãnh đạo công tác xuất bản của Đảng và thực trạng hoạt
động xuất bản ở nước ta từ năm 1990 đến năm 2016, bước đầu đưa ra một số
nhận xét sau:
4.1.1. Ưu điểm
Một là, Đảng không ngừng tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo,
kiện tồn bộ máy lãnh đạo, quản lý cơng tác xuất bản phù hợp với tình hình mới.
Hai là, quan điểm, chủ trương của Đảng được cụ thể hoá kịp thời
thành hệ thống chính sách pháp luật ngày càng hồn thiện.
Ba là, việc chỉ đạo các cơ quan chức năng trong phối hợp triển khai lãnh
đạo, quản lý, thực thi chính sách và kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản
ngày càng đồng bộ và hiệu quả.
Bốn là, từ sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
phối hợp hiệu quả của cơ quan chức năng, năng lực xuất bản được nâng
cao; phương thức, cơ chế hoạt động và quản lý công tác xuất bản được đổi
mới; trình độ chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác xuất bản
từng bước được nâng cao.
Kết quả công tác xuất bản đạt được khá tồn diện, góp phần tích cực
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; một mặt đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản
bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch; mặt
khác, nâng cao nhất thức chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Nguyên nhân của ưu điểm:
Sự nghiệp cách mạng đúng đắn của Đảng, thành tựu 30 năm đổi mới

(1986-2016) là cơ sở để tạo điều kiện thúc đẩy cơng tác xuất bản phát triển.
Vai trị lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được tăng cường.
Sự lãnh đạo sát sao của Trung ương Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của các cơ
quan tham mưu, thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, uốn nắn sai sót, cung cấp
thông tin cho các cơ quan xuất bản hoạt động đúng và hiệu quả...
Sự nỗ lực của các NXB, cơ sở in, đơn vị phát hành trong việc nâng cao
chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới đất nước những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cũng như công cuộc
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.
19


4.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động xuất bản còn một số hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất, một số cơ quan chủ quản chưa nhận thức đúng vai trị, vị
trí của hoạt động xuất bản, cịn có tình trạng buông lỏng quản lý hoạt động
xuất bản ở một số NXB.
Thứ hai, công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về xuất bản chưa theo
kịp yêu cầu của thực tiễn hoạt động xuất bản; chưa đẩy mạnh được việc xuất
bản các ấn phẩm ra nước ngoài để phục vụ công tác xuất khẩu và hợp tác đầu
tư giữa trong nước với khu vực, thế giới.
Thứ ba, chậm đổi mới trong đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao;
gây hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, biên tập viên ở các NXB.
Nguyên nhân của hạn chế
Cơ chế thị trường đang trong q trình hồn thiện, xuất hiện nhiều
vấn đề mới, chưa có tiền lệ, kinh nghiệm trong xử lý và giải quyết. Từ đó
dẫn đến việc xây dựng chủ trương, chính sách để ngành xuất bản đồng
thời thực hiện tốt hai nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ kinh tế cịn gặp
nhiều khó khăn; các thế lực thù địch lợi dụng mặt trận xuất bản, thực hiện

“âm mưu diễn biến hịa bình” đặt ra những thách thức gay gắt cho công
tác chỉ đạo, quản lý xuất bản; một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan chủ
quản NXB nhận thức chưa đúng, coi đơn vị xuất bản như những cơ sở làm
kinh tế đơn thuần, thiếu quan tâm đến chức năng tư tưởng, văn hóa, giáo
dục của hoạt động xuất bản. Một số vấn đề đặc thù của ngành xuất bản
chưa được hướng dẫn kịp thời, thiếu các qui định cụ thể thể hiện ưu đãi
cho hoạt động xuất bản. Thiếu chủ động trong định hướng chiến lược.
Sự phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo với cơ quan quản lý
còn yếu, giữa các cơ quan quản lý trong ngồi ngành xuất bản cịn thiếu
chặt chẽ... Thiếu đội ngũ lãnh đạo, quản lý và biên tập viên, cán bộ kỹ
thuật in ấn, phát hành trình độ cao. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm cịn chậm, chưa kiên quyết, khơng dứt điểm.
4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu
4.2.1. Kinh nghiệm về định hướng chính trị, tư tưởng đối với công tác
xuất bản
Thứ nhất, luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc thù
hoạt động xuất bản.

20


Thứ hai, luôn quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của
Đảng về công tác xuất bản, nhất là bảo đảm định hướng thông tin trong lĩnh
vực xuất bản.
Thứ ba, luôn bám sát khuynh hướng phát triển của xuất bản để tiếp
tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
4.2.2. Kinh nghiệm về chỉ đạo thể chế hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo việc thể chế hóa, hồn thiện hệ thống pháp
luật về xuất bản phù hợp thực tiễn hoạt động xuất bản gắn với việc thực

hiện nhiệm vụ chính trị của cơng tác xuất bản trong tình hình mới.
Thứ hai, nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước
đối với công tác xuất bản.
4.2.3. Kinh nghiệm về chỉ đạo nâng cao chất lượng xuất bản
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động của
các đơn vị xuất bản.
Thứ hai, bảo đảm hoạt động của NXB, cơ sở in và đơn vị phát hành
sách thực hiện tốt hai chức năng tư tưởng-văn hóa và sản xuất kinh doanh
trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, rà soát, sắp xếp hợp lý các NXB, tránh chồng chéo; có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các NXB và các đơn vị phát hành.
4.2.4. Kinh nghiệm về chỉ đạo công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm
công tác xuất bản
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò, ý
nghĩa, tầm quan trọng của công tác xuất bản.
Thứ nhất, quan tâm công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.
Thứ hai, phát triển đội ngũ biên tập viên vững về nghiệp vụ, giỏi về
chuyên môn.
4.2.5. Kinh nghiệm về chỉ đạo kiểm tra, giám sát công tác xuất bản
Thứ nhất, phát huy vai trò của cấp ủy trong cơ quan chủ quản và
trong kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản; quy định về trách nhiệm
người đứng đầu khi đơn vị mình mắc sai phạm trong hoạt động xuất bản.
Thứ hai, sử dụng phương pháp kiểm tra, giám sát hiện đại, có chế tài
cụ thể trong xử phạt vi phạm trong lĩnh vực xuất bản.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát có đủ trình độ,
năng lực, phẩm chất đạo đức.
21



×