Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Hình siêu âm và chụp cắt lớp vi tính nang ống Nuck nhân một trường hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.56 KB, 3 trang )

DIỄN ĐÀN

MEDICAL FORUM

HÌNH SIÊU ÂM VÀ CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH
NANG ỐNG NUCK NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
Ultrasound and CT image of the Nuck canal hydrocele.
Case report
Nguyễn Trường Đức*, Hữu Hoài Anh**,
Vũ Hồng Anh***, Trần Đình Dưỡng****

SUMMARY
Hydrocele (or cyst) of the Nuck canal is a rare condition in female resulting from incomplete obliteration of
the canal and entrapment of fluid in the inguinal canal. Ultrasonography play an important role to diagnostic and
differentiate from the other conditions presenting with inguinal swelling. MRI and CT can help identify an inguinal
cystic mass when sonographic findings are not clearly.
A case of hydrocele of the Nuck’ canal diagnosed withUSG and CT scan, comparison with surgery and pathology
result at the E hospital.
Keywords: Hydrocele, Cyst, Canal of Nuck, Ultrasonography.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kỳ bào thai khi hình thành bộ phận sinh
dục ở nữ giới thì một phần của phúc mạc lõm xuống
di chuyển theo dây chằng tròn chui qua lỗ bẹn sâu
vào ống bẹn ra lỗ bẹn nông và tận cùng ở môi lớn tạo
thành ống phúc mạc gọi là ống Nuck. Bình thường ống
này tắc lại trong khoảng một năm đầu, khi có biểu hiện
khơng bít tắc hoặc bít tắc từng đoạn kèm theo ngun
nhân nào đó làm mất cân bằng bài tiết, hấp thu ở phúc
mạc trong lịng của ống Nuck thì sẽ dẫn tới tích tụ dịch
tạo thành nang gọi là nang của ống Nuck. Các nguyên


nhân gây tăng tiết hoặc giảm hấp thu có thể là: viêm
nhiễm, chấn thương, do bạch mạch… Ống Nuck nằm
phía trước dây chằng trịn, có cấu tạo lớp trong cùng
là phúc mạc thành, sau đó là tổ chức mỡ và có rất ít
mạch máu[1,4,7].
Nang của ống Nuck là bệnh lý rất hiếm gặp, tài
liệu sách giáo khoa cũng chưa thấy nói về bệnh lý này,
trên tạp chí thế giới cũng có những báo cáo nhưng với
số liệu bệnh nhân rất ít[4]. Dấu hiệu lâm sàng chủ yếu
là có khối u mềm ở vùng bẹn không di động ấn không
xẹp, một số ít bệnh nhân có triệu chứng đau tại khối u.
Dựa vào lâm sàng để chẩn đốn chính xác trước mổ

* Khoa Chẩn đốn hình ảnh - Bệnh viện E - Hà Nội.
** Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện E - Hà Nội
*** Khoa Thăm dò chức năng - Bệnh viện E - Hà Nội.
**** Bộ môn Chẩn đốn hình ảnh - Học viện Qn Y.
564

là rất khó khăn, dễ nhầm với các bệnh lý khác cũng có
khối u ở vùng bẹn do vậy đa số các bệnh nhân được
chẩn đốn xác định sau mổ[5]. Vì khó khăn lâm sàng
như vậy nên chẩn đốn hình ảnh có vai trị rất quan
trọng để chẩn đốn xác định ngồi ra cịn có giá trị cao
trong chẩn đốn phân biệt nang ống Nuck với các bệnh
lý khác. Một số tác giả đã mơ tả hình ảnh siêu và cộng
hưởng từ, cắt lớp của nang Nuck là nang có vỏ mỏng
được tưới máu rất ít, hình ống, xúc xích, quả tạ hoặc
hình dấu phẩy[1,3,4,6,7]. Nhờ có chẩn đốn hình ảnh giúp
cho chẩn đốn chính xác trước mổ[4].

Tháng 1 năm 2013 tại Bệnh viện E một bệnh nhân
được chẩn đoán trên siêu âm và chụp CT nang ống
Nuck chúng tôi ghi nhận đối chiếu với kết quả phẫu
thuật và giải phẫu bệnh.
II. CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nữ, Kim Thị T, 51 tuổi, vào viện với lý
do: đau vùng bẹn phải. Bệnh nhân tình cờ phát hiện
khối vùng bẹn phải trước khi vào viện 1 tháng, 1 ngày
trước khi vào viện đau âm ỉ. Thăm khám vùng bẹn phải
có khối mềm như quả trứng, ít di động, không to lên khi
ho rặn, ấn không nhỏ đi và đau tức nhẹ.
Hình siêu âm
Hình nang trống âm, có tăng âm phía sau, thành
mỏng, kích thước 44x24 mm nằm trong ống bẹn phải,
ấn khơng xẹp.
ĐIỆN QUANG VIỆT NAM

Số 12 - 07 / 2013


Diễn đàn

Kết luận: hình ảnh nang trong ống bẹn phải.

Hình ảnh siêu âm
Hình ảnh CT scan
Cấu trúc dạng nang dịch tỉ trọng 1-5 HU, ranh giới
rõ, không xâm lấn thành ống bẹn, kích thước 32x29 mm,
nằm phía dưới của dây chằng trịn trong ống bẹn phải.


Hình ảnh phẫu thuật

Kết luận CT scan: hình ảnh nang của ống Nuck
bên phải.

III. BÀN LUẬN

Hình ảnh chụp CT
Phẫu thuật
Chẩn đốn trước mổ: nang ống Nuck, bệnh nhân
được xếp lịch mổ theo chương trình. Mở bụng theo
đường ngang bên phải 5cm, mở cân chéo lớn vào ống
bẹn, nang nước kích thước 41 x 29 mm, nằm trong
ống bẹn phía trước dây chằng trịn, hình như quả
trứng thuôn nhỏ lại ở lỗ bẹn sâu, vỏ mỏng, ít mạch
máu. Phẫu tích bóc tồn bộ nang cắt cổ nang đóng
cân chéo lớn, da.
Kết quả giải phẫu bệnh
Đại thể: Nang kích thước 41 x 29mm, trong lịng
nước, vỏ mỏng. Vi thể: Thành nang là tổ chức xơ, mỡ.
ĐIỆN QUANG VIỆT NAM

Số 12 - 07 / 2013

Ống Nuck được mơ tả lần đầu tiên bởi Anton Nuck
vào năm 1691. Nang của ống Nuck là bệnh lý rất hiếm
gặp, trên thế giới có một số báo cáo nhưng với số liệu
bệnh nhân rất ít, trong nhiều năm chúng tơi cũng chỉ
gặp được một bệnh nhân[4]. Dấu hiệu lâm sàng có u
vùng bẹn không di động, ranh giới rõ, ấn không xẹp, đơi

khi có đau vì vậy đa số các tác giả cho rằng chẩn đốn
trước mổ là rất khó khăn, rất dễ nhầm với các bệnh lý
có khối u vùng bẹn như thốt vị bẹn, thốt vị đùi, hạch
vùng bẹn, phình mạch, khối áp xe…[5]. Bệnh nhân của
chúng tơi cũng có khối u bẹn phải không di động, ấn
không xẹp và có đau do vậy chúng tơi cân nhắc rất kĩ
để chẩn đoán phân biệt với thoát vị bẹn.
Các tác giả trên thế giới cho rằng chẩn đốn hình
ảnh đặc biệt siêu âm Doppler rất có giá trị chẩn đốn
phân biệt nang của ống Nuck với các nguyên nhân
khác[4]. Hình siêu âm nang của ống Nuck thường hình
ống, bầu dục hoặc dấu phẩy, nằm trong ống bẹn, có vỏ
mỏng ít mạch máu, cấu trúc trống âm và tăng âm phía
565


diễn đàn

sau nang, không xâm lấn ra thành ống bẹn. Trong lịng
nang có thể có vách do di chứng của tổn thương viêm
và chảy máu, đơi khi có hình ảnh nang trong nang. Có
ít mạch trong và quanh nang, làm biện pháp Valsalva
khơng thấy thay đổi kích thước và vị trí nang[1,3,7]. Hình
siêu âm bệnh nhân của chúng tơi là nang trống âm, có
tăng âm phía sau, thành mỏng, kích thước 44x24mm
nằm trong ống bẹn phải, ấn không xẹp tương tự như
mô tả của các tác giả. Chúng tôi chẩn đoán nang ống
Nuck tuy nhiên để củng cố thêm chẩn đốn chúng tơi
thống nhất tiến hành chụp CT để đối chiếu kết quả.
Hình chụp CT

Cấu trúc nang dịch đồng nhất, có thể có vách, thành
nang ít ngấm thuốc, nằm trong ống bẹn lan tới môi lớn
và không xâm lấn ra thành ống bẹn[4,6]. Trên hình ảnh
chụp CT của chúng tơi thấy: trong ống bẹn ở phía trước
dây chằng trịn có cấu trúc dạng nang, tỉ trọng 1-5 HU,
ranh giới rõ, kích thước 32x29 mm, khơng bắt thuốc cản
quang, khối này không tiếp giáp với quai ruột, các quai
ruột không dãn. Như vậy hình ảnh này phù hợp với dấu
hiệu lâm sàng, hình ảnh siêu âm của nang của ống Nuck.
Hình chụp MRI
Cấu trúc dạng nang dịch tăng tín hiệu trên T2 và
giảm tín hiệu trên T1, vách trong nang có ngấm thuốc

nhẹ sau tiêm thuốc tương phản từ, không xâm lấn
thành ống bẹn. Chụp cộng hưởng từ cũng có giá trị
chẩn đốn cao tuy nhiên tại bệnh viện chúng tơi chưa
có máy vì vậy chúng tơi chỉ tiến hành chụp CT[1,2,3].
Chúng tôi tiến hành hội chẩn và thống nhất chẩn đoán
nang của ống Nick, chẩn đoán loại trừ với thoát vị bẹn
nghẹt không mổ cấp cứu và để bệnh nhân mổ theo
chương trình. Kết quả trong mổ nang nước kích thước
41 x 29mm, nằm trong ống bẹn phía trước dây chằng
trịn, hình như quả trứng thn nhỏ lại ở lỗ bẹn sâu, vỏ
mỏng và giải phẫu bệnh lý là tổ chức xơ, kết quả này
hoàn toàn phù hợp giữa lâm sàng, giải phẫu bệnh, siêu
âm và chụp cắt lớp.
IV. KẾT LUẬN
Nang của ống Nuck là bệnh lý hiếm gặp ở nữ giới,
gợi ý chẩn đốn khi có khối u mềm vùng bẹn khơng di
động, ấn khơng xẹp.

Chẩn đốn hình ảnh có vai trị rất quan trọng trong
chẩn đốn xác định nang của ống Nuck. Trên hình ảnh
siêu, cộng hưởng từ và cắt lớp nang của ống Nuck đó
là nang nằm trong ống bẹn trước dây chằng trịn có vỏ
mỏng được tưới máu rất ít, hình ống, xúc xích, quả tạ
hoặc hình dấu phẩy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Edmund Soh, Kenneth Sheah, Keh Oon Ong:
Hydrocele of the canal of Nuck: ultrasound and MRI
findings. Reports in Medical Imaging 2011:4 15–17.
2. S J Park, H K lee, H S Hong, H C Kim, D H Kim,
and E J SHin: Hydrocele of the canal of Nuck in a girl:
ultrasound and MRI appearance. The British Journal
of Radiology, 77 (2004), 243–244. DOI: 10.1259/
bjr/51474597.
3. Safak AA, Erdogmus B, Yazici B, Gokgoz AT.
Hydrocele of the canal of Nuck: sonographic and MRI
appearances. J Clin Ultrasound 2007; 35(9):531-2.
4. Ranjeet Jagdale, Saurabh Agrawal, Sarabjeet
Chhabra, Shehreen Youlaena Jewan. Hydrocele of the

Canal of Nuck: Value of Radiological Diagnosis Case
Reports. Journal of Radiology . 2012 Jun; 6(6):18-22.
5. YM Choi, et al: Two cases of female hydrocele
of the canal of Nuck. Korean J Pediatr 2012;
55(4):143-146.
6. YC Manjunatha, YC Beeregowda and A
Bhaskaran: Hydrocele of the canal of Nuck: imaging
findings. Acta Radiologica Short Reports 2012; 1:12.

DOI: 10.1258 /arsr.2012.11 0016.
7. Walter H. Stickel, Martin Manner: Female
Hydrocele (Cyst of the Canal of Nuck) Sonographic
Appearance of a Rare and Little-Known Disorder.J
Ultrasound Med 23:429–432, 2004.

TÓM TẮT
Nang của ống Nuck là một bệnh lý hiếm gặp ở nữ giới do sự bít tắc khơng hồn tồn của ống Nuck dẫn tới tích
đọng dịch và tạo nang trong ống bẹn. Siêu âm có vai trị quan trọng trong chẩn đốn xác định và phân biệt bệnh lý này.
MRI và CT giúp xác định những trường hợp siêu âm không rõ. Nhân một trường hợp được chẩn đoán nang của ống
Nuck trên siêu âm và CT tại Bệnh viện E được chúng tôi ghi nhận đối chiếu với kết quả phẫu thuật và giải phẫu bệnh.

566

ĐIỆN QUANG VIỆT NAM

Số 12 - 07 / 2013



×