Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 79 trang )

QU

T

N

TRƯỜN

KN

P

P ÁP LUẬT VỀ

P

O KẾT
T

MN

TẾ - LUẬT

ÂN

ỢP

N

T ƯƠN


V ỆT N M

LUẬN VĂN T

TP

MN

SĨ LUẬT

MN

– 2018

M

ỆN TỬ


QU

T

N

TRƯỜN

P

KN


MN
TẾ - LUẬT

PHẠM NGỌC HÂN

P ÁP LUẬT VỀ

O KẾT
T

ỢP

N

T ƯƠN

M

ỆN TỬ

V ỆT N M

Luật Kinh tế
60.38.01.07

LUẬN VĂN T

N ƯỜ


Ư N

NK O

TP

SĨ LUẬT

: PGS. TS N UYỄN T Ị

MN

– 2018

N

N UN


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn được trình bày sau đây là kết quả của quá trình nghiên cứu, học hỏi của chính
tác giả dưới sự hướng dẫn tận tâm của Giảng viên hướng dẫn.
Tác giả xin cam đoan tất cả tri thức trong luận văn là sản phẩm riêng của tác giả trên cơ
sở nghiên cứu, học hỏi, kế thừa, tổng hợp tri thức từ những cơng trình nghiên cứu đã
cơng bố. Đồng thời tác giả đã tuân thủ nghiêm túc những quy định về trích dẫn nguồn
tài liệu được tác giả sử dụng trong luận văn.
Tác giả

Phạm Ngọc Hân



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADR

Alternative Dispute Resolution - Phương thức giải quyết tranh chấp
thay thế

BLDS

Bộ luật dân sự

B2B

Business to Business

B2C

Business to Customer

CISG

Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế

CNTT

Cơng nghệ thơng tin

CQNN


Cơ quan nhà nước

CUECIC

Cơng ước về sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế 2005

GDĐT

Giao dịch điện tử

GKHĐ

Giao kết hợp đồng

HĐĐT

Hợp đồng điện tử

HĐTMĐT Hợp đồng thương mại điện tử
ODR

Online Dispute Resolution - Phương thức giải quyết tranh chấp trực
tuyến

SCT

The Small Claims Tribunals – Tòa án giải quyết các tranh chấp
nhỏ/Tòa án phụ


TĐDL

Thông điệp dữ liệu

TMĐT

Thương mại điện tử

VIAC

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, PHỤ LỤC



Tên

Trang

Hình 1

HĐTMĐT hình thành trên website

Hình 2

HĐTMĐT được ký kết qua thư điện tử

17


Hình 3

HĐTMĐT có sử dụng chữ ký số

18

15,16


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
Khái niệm hợp đồng thƣơng mại điện tử…………………………

7

1.1.1.

Khái niệm về thương mại điện tử………………………….

7

1.1.2.


Khái niệm về hợp đồng thương mại điện tử……………….

10

1.2.

Phân loại hợp đồng thƣơng mại điện tử…………………………..

14

1.3.

Sự khác biệt giữa hợp đồng thƣơng mai điện tử so với hợp đồng

1.1.

truyền thống………………………………………………………...
1.3.1.

1.4.

18

Về cách thức ký kết và phương tiện để thực hiện hợp đồng
thương mại điện tử………………………………………...

19

1.3.2.


Về hình thức thể hiện của hợp đồng thương mại điện tử…

20

1.3.3

Về chữ ký điện tử………………………………………….

20

Sơ lƣợc văn bản pháp luật liên quan hợp đồng thƣơng mại điện
tử……………………………………………………………………..

30

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1……………………………………………………

32

Chương 2: GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
2.1.

Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng………………………………

34

2.2.

Trình tự giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử………………….


42

2.2.1.

Đề nghị ký kết hợp đồng thương mại điện tử……………...

43

2.2.2.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại điện

2.3.

tử……………………………………………………..........

57

Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử…

60


2.3.1.

Thời điểm giao kết hợp đồng……………………………...

60

2.3.2.


Địa điểm giao kết hợp đồng……………………………….

63

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2……………………………………………………

65

KẾT LUẬN…………………………………………………………………..

67

Danh mục tài liệu tham khảo


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới hiện đại ngày nay, công nghệ thông tin đã trở thành một thứ tất yếu
trong cuộc sống xã hội. Sự ra đời của Internet làm cho lĩnh vực thương mại điện tử
ngày càng phát triển mạnh mẽ, giao kết hợp đồng truyền thống đang dần được thay
thế bằng hình thức siêu việt hơn đó là giao kết hợp đồng bằng phương thức điện tử.
Giao kết hợp đồng thương mại bằng phương thức điện tử giúp các doanh nghiệp
giảm thiểu được chi phí giao dịch, rút ngắn được đáng kể thời gian giao kết, dễ
dàng tiếp xúc được với các khách hàng và thị trường trong nước và quốc tế một
cách nhanh chóng và hiệu quả. Về vấn đề khoảng cách địa lý vốn là trở ngại không
nhỏ trong giao kết hợp đồng truyền thống nhưng đối với giao kết hợp đồng thương
mại bằng phương thức điện tử điều đó đã được hóa giải.

Đối với Việt Nam trong hội nhập quốc tế và mở cửa hiện nay, giao kết hợp đồng
thương mại điện tử không chỉ giúp các doanh nghiệp trong nước có thể vươn ra thị
trường thế giới mà cịn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể
thực hiện được các hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài.Việt Nam ban hành
nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý phù hợp nhằm thực hiện các cam kết
quốc tế, trong đó có cam kết về thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử. Các
văn bản như Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự và nhiều các
văn bản khác, các văn bản này đã tạo ra môi trường pháp lý quan trọng cho việc ký
kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử.
Trong tình hình thực tiễn tại Việt Nam, việc giao kết hợp đồng thương mại điện
tử phát triển chưa tương xứng, còn ở mức tiềm năng. Sự phức tạp về mặt công
nghệ, sự đầu tư thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, sự thiếu chuyên nghiệp của đội ngũ
nguồn nhân lực có chất lượng cao, cũng đang là những khó khăn để giao kết hợp
đồng thương mại điện tử. Các quy định trong các văn bản pháp luật về giao kết hợp
đồng thương mại điện tử cịn mang tính tổng qt, quy trình giao kết hợp đồng


2

thương mại điện tử còn nhiều thách thức. Nhiều cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp ở
những nơi vẫn còn chưa biết về pháp luật quy định về hợp đồng thương mại điện tử.
Khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử đòi hỏi các chủ thể phải am
hiểu về pháp luật. Những quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử có gì khác với hợp đồng truyền thống. Pháp luật Việt Nam quy định những
vấn đề này như thế nào? Những câu hỏi này đã khiến tác giả quan tâm và quyết
định tìm hiểu. Đây cũng chính là lý do để tác giả quyết định chọn đề tài: “Pháp luật
về giao kết hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam” cho công trình nghiên cứu
khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử không phải là một đề tài mới

trong khoa học pháp lý. Đến thời điểm hiện nay đã có nhiều cơng trình khoa học
liên quan trực tiếp và gián tiếp đến nội dung này được công bố. Các công trình này
tồn tại dưới nhiều hình thức như sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu khoa học,
luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hay bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành.
Đầu tiên phải kể đến sách chuyên khảo của tác giả Trần Văn Biên: “Hợp đồng
điện tử theo pháp luật Việt Nam” do NXB Tư Pháp xuất bản năm 2012. Theo tìm
hiểu thì tính đến hiện nay, sách chuyên khảo viết về hợp đồng điện tử mới chỉ có 2
quyển được xuất bản. Và “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam” là một trong
hai quyển đó. Sách đề cập đến những vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử,
tình hình của việc thực hiện hợp đồng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp
đồng điện tử. Trong đó, có nhắc đến nội dung về giao kết hợp đồng điện tử nhưng
không nhiều, chỉ mới dừng lại ở việc nêu và diễn giải các quy định này mà chưa
phát triển nội dung về phân tích việc áp dụng các quy này trong thực tiễn như thế
nào.
Ngoài ra, phải kể đến một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí khoa học
có đề cập đến hoặc nhắc hợp đồng điện tử như: Phạm Thị Hồng Đào với bài “Một
số bất cập trong quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử - kiến nghị


3

hoàn thiện” được đăng trên website của Bộ tư pháp năm 2015; “Hoàn thiện pháp
luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam” của Phạm Hồng Nhật
năm 2015 đăng trên website www. tcdcpl.moj.gov.vn. Hai bài viết nêu lên các bất
cập của pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử đề từ đó đưa ra các giải pháp hoàn
thiện. Tuy nhiên, các giải pháp được đưa ra chỉ dừng lại ở việc đề xuất bổ sung, sửa
đổi, xây dựng thêm các quy định,…nhưng bổ sung như thế nào, nội dung các điều
luật cần quy định ra sao,… thì chưa được nêu ra.
Theo tìm hiểu của tác giả, đến nay cũng có một số bài luận văn nói đến các quy
định pháp lý về hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng thương mại điện tử nói

riêng, cụ thể: tác giả Nguyễn Nhất Tư với đề tài “Hợp đồng thương mại điện tử theo
pháp luật Việt Nam” năm 2017 của Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam –
Học viện Khoa học xã hội. Đây có thể nói là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về hợp
đồng thương mại điện tử, đa số các công trình trước đây đề nghiên cứu về hợp đồng
điện tử. Tuy nhiên, luận văn cũng chỉ mới nêu lên được các quy định pháp luật liên
quan đến đề tài mà chưa phân tích sự bất cập của các điều luật để từ đó đề xuất
hướng xây dựng các quy định pháp luật hoàn chỉnh hơn.
Luận án tiến sỹ năm 2009 của tác giả Nguyễn Văn Thoan với đề tài “Ký kết và
thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” –
Trường đại học Ngoại thương. Luận án thuộc chuyên ngành kinh tế. Vì thế luận án
chỉ điểm qua trong chương tổng quan các vấn đề như khái niệm, đặc điểm, chủ thể
của hợp đồng điện tử. Các nội dung chính như ký kết và thực hiện hợp đồng được
nghiên cứu dưới góc độ kỹ thuật, quy trình thực hiện. Qua đó luận án cũng có nêu
các ví dụ về rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Tóm lại: Những cơng trình đề tài nêu trên phân tích chủ yếu về vai trị của
thương mại điện tử, về đặc điểm của các giao dịch thương mại điện tử, về một số
điểm khác biệt về mặt pháp lý giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống
hoặc chỉ đi lướt sơ qua các quy định chung và đi sâu vào tập trung phân tích về kỹ
thuật của việc thực hiện hợp đồng điện tử. Vẫn chưa có cơng trình nào phân tích


4

một cách đầy đủ, chuyên sâu cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến việc giao kết
hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam. Hơn nữa, các cơng trình trên đa số
nghiên cứu và phân tích dựa trên những quy định pháp luật mà đến hiện tại các quy
định ấy hầu như đều thay đổi. Xuất phát từ quan điểm rằng khoa học vừa mang tính
kế thừa vừa mang tính mới mẻ, các cơng trình, bài viết trên đây là những tài liệu bổ
ích để tác giả tham khảo trong q trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Luận văn tập trung nghiên cứu đề tài nhằm nắm rõ và sâu rộng hơn những quy
định của pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam, tìm hiểu
về những quy định của pháp luật Việt Nam để từ đó đưa ra những bất cập của các
quy định hiện hành. Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ so sánh, đối chiếu những quy
định về hợp đồng thương mai điện tử với những quy định của Công ước Viên 1980
về quy định giao kết hợp đồng nhằm rút ra hướng quy định mới cho pháp luật về
hợp đồng điện tử trong thương mại và cũng phù hợp với thông lệ chung của thế giới
khi Việt Nam vừa trở thành thành viên của Cơng ước Viên.
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau: nêu rõ khái niệm, sự khác biệt
giữa hợp đồng thương mại điện tử và hợp đồng truyền thống, phân loại hợp đồng
thương mại điện tử. Phân tích thực trạng của các khía cạnh liên quan đến việc giao
kết hợp đồng thương mai điện tử trong những năm qua nhằm thấy được sự dần trở
nên phổ biến cho việc sử dụng loại hợp đồng này trong thời đại công nghệ thông tin
ngày nay.
Tiếp đến đề tài muốn phân tích sâu về giao kết hợp đồng thương mại điện tử như
đề nghị, chấp nhận đề nghị giao kết hay về thời gian và địa điểm giao kết. Tập trung
làm rõ những lý luận pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng. Từ chính những
phân tích đó cũng nhận thấy được điểm bất cập từ đó đưa ra hướng hồn thiện hơn.
Và cuối cùng là nghiên cứu làm rõ vấn đề về giá trị pháp lý của hợp đồng
thương mại điện tử. Đây là nội dung mà các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng


5

rất quan tâm đến. Bên cạnh đó cũng phải hiểu qua về chữ ký điện tử gắn liền với
hợp đồng thương mại điện tử.
4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về giao kết
hợp đồng thương mại điện tử bao gồm các nội dung về chủ thể giao kết hợp, đề

nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đồng, thời gian và địa điểm
giao kết, giá trị pháp lý của hợp đồng thương mại điện tử và chữ ký điện tử,…
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về giao
kết hợp đồng thương mại điện tử và giá trị pháp lý của hợp đồng thương mại điện tử
được ghi nhận tại: Luật Giao dịch điện tử 2005, Bộ luật dân sự 2015, Công ước
Viên 1980, Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005, Nghị định
52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2013, Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15
tháng 02 năm 2007 và một số văn bản liên quan. Đề tại không tập trung nghiên cứu,
đề cập đến việc thực hiện hợp đồng thương mại điện tử.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu của luận văn, tác giả đã sử dụng những
phương pháp nghiên cứu luật truyền thống như:
Phương pháp phân tích: được dùng để phân tích những quy định pháp luật điều
chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử, từ đó đưa ra các bất
cập của những quy định này.
Phương pháp so sánh: So sánh những quy định của Công ước Viên 1980 điều
chỉnh chung về mua bán hàng hóa thương mại trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của cơng ước với các quy định của Bộ luật Dân sự; hay thực
hiện so sánh những quy định của pháp luật hiện hành với những quy định cũ đã hết
hiệu lực nhằm thấy được sự cải tiến trong quá trình lập pháp.


6

Phương pháp nghiên cứu thông tin: thông tin về các tình huống thực tế xảy ra từ
đó mơ phỏng lại thành ví dụ minh họa trong bài.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá: được sử dụng để tổng hợp và phân
tích các số liệu về tình hình sử dụng và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử tại
Việt Nam, từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá.

Phương pháp lịch sử: Được sử dụng để nghiên cứu quy định của pháp luật dân
sự, thương mại và việc áp dụng pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng làm định
hướng cho việc hoàn thiện pháp luật hiện hành.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 02 chương:
Chƣơng 1: Khái quát chung về hợp đồng thƣơng mại điện tử
Cung cấp được cái nhìn tổng quan về hợp đồng thương mại điện tử qua các nội
dung như: khái niệm và phân loại hợp đồng thương mại điện tử, sự khác biệt
giữa hợp đồng thương mại điện tử và hợp đồng truyền thống, các văn bản pháp
luật điều chỉnh và tình hình giao kết hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam.
Chƣơng 2: Giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử
Tập trung phân tích các khía cạnh của giao kết hợp đồng thương mại điện tử về
chủ thể giao kết, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm và địa điểm giao kết.


7

Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm hợp đồng thƣơng mại điện tử
1.1.1. Khái niệm về thƣơng mại điện tử
“Thương mại điện tử” (TMĐT) (tiếng Anh là electronic commerce viết tắt là
e-commerce)1 còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: thương mại trực
tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ (paperless commerce)2, kinh doanh
điện tử (electronic business)… là sự mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ
thống điện tử như internet và các mạng máy tính.3 Tuy nhiên, tên gọi "thương mại
điện tử" được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp
luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể dùng và được hiểu với cùng một
nội dung.
TMĐT bắt đầu bằng việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các

phương tiện điện tử và mạng viễn thông, đặc biệt là qua máy tính và mạng Internet.4
Các doanh nghiệp tiến tới ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động của
mình, từ bán hàng, marketing, thanh tốn đến mua sắm, sản xuất, đào tạo, phối hợp
hoạt động với nhà cung cấp, đối tác, khách hàng5... khi đó TMĐT phát triển thành
kinh doanh điện tử, tức là doanh nghiệp ứng dụng TMĐT ở mức cao được gọi là
doanh nghiệp điện tử.
1

Xem thêm các bài viết về thương mại điện tử, Wikipedia,

/>2

“Tổng quan về thương mại điện tử và hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử”,

/>3

4

Nguyễn Đình Luận (2015), Tổng quan về thương mại điện tử ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 7
“Tổng quan về thương mại điện tử”, />
thuong-mai-dien-tu
5

“Khái niệm về thương mại điện tử”, />
thuong-mai-dien-tu-20-11-2013


8

Khó có thể tìm một định nghĩa có ranh giới rõ rệt cho khái niệm này. Khái

niệm thị trường điện tử được biết đến lần đầu tiên qua các công trình của Malone,
Yates và Benjamin6 nhưng lại khơng được định nghĩa cụ thể. Các cơng trình này
nhắc đến sự tồn tại của các thị trường điện tử và các hệ thống điện tử thông qua sử
dụng công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông. Thông qua một chiến dịch
quảng cáo của IBM trong thập niên 1990, khái niệm Electronic Business, thường
được dùng trong các tài liệu, bắt đầu thông dụng, khái niệm mà ngày nay được xem
là một lĩnh vực nằm trong kinh doanh điện tử (E-Business). Các quy trình kinh
doanh điện tử có thể được nhìn từ phương diện trong nội bộ của một doanh nghiệp
(quản lý dây chuyền cung ứng – Supply Chain Management, thu mua điện tử - EProcurement) hay từ phương diện ngoài doanh nghiệp (thị trường điện tử, ECommerce,...).7
Như đã nêu, khái niệm TMĐT được rất nhiều tổ chức quốc tế đưa ra song
chưa có một định nghĩa thống nhất về TMĐT. Trong bài viết này xin phép được
nhắc đến hai luồng quan điểm về TMĐT phổ biến là TMĐT theo nghĩa hẹp và
TMĐT theo nghĩa rộng.
Theo Ủy ban TMĐT của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) thì " thương mại điện tử liên quan đến các giao dịch thương mại trao đổi
hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân) mang tính điện tử chủ yếu thơng qua
các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet". Trong nội dung này thì TMĐT được
hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ đơn thuần bó hẹp TMĐT trong việc mua bán hàng hố và
dịch vụ thơng qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thơng, đặc biệt là máy tính
và internet. TMĐT bắt đầu bằng việc các doanh nghiệp sử dụng các phương tiện
6

Trương Tiến Bình (2013), Thương mại điện tử, />
vien/thuong-mai-dien-tu.html
7

Trương Tiến Bình (2013), Thương mại điện tử, />
vien/thuong-mai-dien-tu.html



9

điện tử và mạng internet để mua bán hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp mình, các
giao dịch có thể giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hoặc giữa doanh nghiệp với
khách hàng cá nhân cá nhân với nhau; Ví dụ: Alibala.com; Amazon.com,
eBay.com…. Các kỹ thuật thơng tin liên lạc có thể là email, trao đổi dữ liệu điện tử,
internet và extranet8 có thể được dùng để hỗ trợ TMĐT.9
Hiểu theo nghĩa rộng, TMĐT là các giao dịch tài chính và thương mại bằng
phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt
động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng. Theo quan điểm này, có hai định nghĩa
khái quát được đầy đủ nhất phạm vi hoạt động của TMĐT:
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì "TMĐT bao gồm việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán
trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm
giao nhận cũng như những thơng tin số hố thơng qua mạng Internet".10 Cách hiểu
này cho thấy WTO đã xem xét khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng, bao gồm cả sản
xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.
Tương tự như cách hiểu của WTO, Luật mẫu về TMĐT của Ủy ban Liên
Hiệp Quốc về luật thương mại điện tử (UNCITRAL Model Law on Electronic
Commerce, 1996) định nghĩa: “Thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin
thương mại thông qua các phương tiện điện tử, không cần phải in ra giấy bất cứ
cơng đoạn nào của tồn bộ q trình giao dịch”.

8

Extranet là mạng máy tính mà nó liên kết những mạng Intranet của những đối tác kinh doanh thông qua
Internet
9

“Khái niệm về thương mại điện tử”, />

mai-dien-tu
10

/>

10

TMĐT bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp. Trên góc độ doanh nghiệp
“Thương mại điện tử là việc thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh bao gồm
marketing, bán hàng, phân phối và thanh tốn thơng qua các phương tiện điện tử”.
Theo Ủy ban châu Âu: " Thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là sự
mua bán, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân,
tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hay các mạng
máy tính trung gian (thơng tin liên lạc trực tuyến). Thuật ngữ bao gồm việc đặt
hàng và dịch thông qua mạng máy tính, nhưng thanh tốn và q trình vận chuyển
hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể thực hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ
công."11
Khái niệm này đã đề cập đến toàn bộ hoạt động kinh doanh, chứ khơng chỉ
giới hạn riêng ở mua và bán, và tồn bộ các hoạt động kinh doanh này được thực
hiện thông qua các phương tiện điện tử. Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi
hoạt động của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế,
trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong
TMĐT. Đó là tồn bộ ý nghĩa được nói đến nếu xem xét dưới gốc độ nghĩa rộng.
Trong luận văn này, TMĐT được hiểu thiên về quan điểm của APEC, theo
đó TMĐT là việc thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ dựa trên các
phương tiện điện tử.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng thƣơng mại điện tử
Trong hơn một thập niên gần đây, sự phát triển của công nghệ thơng tin, nhất
là mạng internet tồn cầu đem lại cho chúng ta một phương thức giao dịch mới, đó
là giao dịch điện tử. Những lợi thế của phương thức giao dịch thơng qua mạng

internet như tốc độ nhanh, chi phí rẻ, chuyển tải thông tin đa dạng, không phụ thuộc
nhiều vào khoảng cách làm cho phương thức này ngày càng trở nên phổ biến, được
nhiều người, nhiều doanh nghiệp sử dụng. Sự gia tăng của giao dịch điện tử làm
11

/>

11

xuất hiện một hình thức hợp đồng mới: Hợp đồng thương mại điện tử (HĐTMĐT).
Thông qua phương tiện điện tử, các chủ thể hồn tồn có thể giao kết hợp đồng mà
không cần gặp mặt nhau trực tiếp để đàm phán, thương lượng.
Cụm từ “hợp đồng thương mại điện tử” bao gồm hai yếu tố: một là hợp đồng
thương mại và hai là điện tử. Dựa vào hai cách phân tích ở trên có thể phân tích một
cách đơn giản HĐTMĐT. Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên. Yếu
tố “điện tử” là các phương tiện công nghệ thông tin bao gồm mạng viễn thông,
internet, mail,..Như vậy, HĐTMĐT là thông qua các phương tiện điện tử, xác lập
hợp đồng nhằm quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Về cơ bản, HĐTMĐT
cũng giống hợp đồng thương mại truyền thống về chức năng, nội dung và giá trị
pháp lý. Điểm khác biệt nổi bật là hình thức thể hiện, phương thức ký kết và thực
hiện HĐTMĐT.
Luật mẫu về TMĐT năm 1996 của UNCITRAL không đưa ra định nghĩa thế
nào là HĐTMĐT, thay vào đó luật này quy định rằng, một hợp đồng có thể được
hình thành bằng cách trao đổi thông điệp dữ liệu (TĐDL) và khi một thơng điện dữ
liệu được sử dụng để hình thành hợp đồng thì giá trị pháp lý của hợp đồng đó khơng
thể bị phủ nhận. Điều 11, mục 1, Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL (1996) quy
định: “Trong khuôn khổ hình thành hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác, một chào hàng và chấp nhận một chào hàng được phép thể hiện bằng cách
thông điệp dữ liệu. Khi một thông điệp dữ liệu được sử dụng trong việc hình thành
một hợp đồng, thì giá trị và hiệu lực thi hành của hợp đồng đó khơng thể bị phủ

nhận chỉ với lý do rằng một thông điệp dữ liệu đã được dùng vào mục đích ấy”12.
Như vậy, theo luật mẫu thì HĐTMĐT được hiểu là hợp đồng được ký kết thông qua
việc sử dụng những phương tiện truyền các thông điện dữ liệu. Cùng với sự phát
triển của TMĐT, HĐTMĐT cũng đã được luật pháp thừa nhận là một công cụ pháp
lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
12

Nhà Pháp luật Việt – Pháp (1999), “Phụ lục 3: Đạo luật của UNCITRAL về thương mại điện tử”, Khoảng

không vũ trụ, mạng không gian và thông tin viễn thông (Tiến bộ công nghệ và các vấn đề pháp lý). Kỷ yếu
hội thảo Pháp – Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.159


12

Theo Ủy ban Kinh tế châu Âu của Liên Hợp Quốc (UNECE), hợp đồng điện
tử là hợp đồng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các đối tác TMĐT. Hợp đồng bao
gồm các điều khoản cơ bản có thể đảm bảo rằng một hay nhiều giao dịch TMĐT,
sau này có thể được ký kết giữa các đối tác thương mại trong khuôn khổ pháp lý
cho phép. HĐTMĐT nhằm đề cập tới mọi hình thức liên lạc điện tử có thể để ký kết
các giao dịch thương mại.13
Qua tìm hiểu pháp luật liên quan đến HĐTMĐT trên thế giới, chúng ta thấy
rằng, cũng như cách đề cập trong Luật mẫu về TMĐT năm 1996 của UNCITRAL,
hầu hết các nước không đưa ra định nghĩa về HĐTMĐT trong một văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành chính thức, mà thường đưa ra quy định thừa nhận
giá trị pháp lý của HĐTMĐT.14
Tại Việt Nam cũng như một số nước khác trên thế giới đi theo hướng xây
dựng của luật mẫu, nghĩa là khơng nêu khái niệm về HĐTMĐT mà chỉ có quy định
về HĐĐT tại điều 33 của Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam (2005), theo đó
“Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”, hay

nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu. Như vậy, yếu tố nền tảng
trong giao dịch điện tử là thông điệp dữ liệu. Đây là thuật ngữ pháp lý mới. “Thông
điệp dữ liệu” được giải thích là “thơng tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và
được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”15. Nó được thể hiện dưới hình thức: trao đổi
dữ liệu điện tử (EDI – Electronic data interchange), chứng từ điện tử, thư điện tử,
điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Cũng theo đó, “phương tiện
điện tử” được quy định là “phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử,
kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ

13

Trung tâm Thương mại quốc tế(2002), “Phụ lục III: Hợp đồng thương mại điện tử của UNECE”, Bí quyết

thương mại điện tử, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.184-185
14

Xem: Trần Văn Biên (2010), Về khái niệm hợp đồng điện tử, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 8/2010, tr.
30-36
15

Khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11


13

tương tự”16. Phương tiện điện tử cũng là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa giao
dịch thương mại điện tử với giao dịch thương mại thông thường. Nếu như phương
tiện thực hiện trong giao dịch thương mại thông thường chủ yếu qua lời nói, văn
bản giấy tờ hoặc hành vi cụ thể thì phương tiện thực hiện trong giao dịch thương
mại điện tử được thực hiện thông qua phương tiện hoạt động trên công nghệ điện,

điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây, quang học, điện từ hoặc cơng
nghệ tương tự. Có thể coi cơng nghệ điện tử, công nghệ thông tin là điều kiện tiên
quyết trong giao dịch thương mại điện tử.
Nhận thấy rằng, luật của Việt Nam định nghĩa hợp đồng điện tử như thế là hợp
lý vì nó sẽ dự liệu được tất cả các phương tiện điện tử được sử dụng để giao kết hợp
đồng và giúp tránh khỏi sự lạc hậu trước sự phát triển của công nghệ.
Mặc dù chỉ mới được ghi nhận trong khoa học pháp lý, tuy nhiên trước khi
Luật Giao dịch điện tử (Luật GDĐT) 2005 được ban hành, đối với mua bán hàng
hóa, Luật Thương mại 1997 cũng đã từng đề cập: “Đối với các loại hợp đồng mua
bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải thuân
theo các quy định đó; điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thơng tin
điện khác cũng được coi là hình thức văn bản”.17 Mặc dù vậy, khái niệm hợp đồng
điện tử (HĐĐT) chỉ thực sự được nói đến khi các giao dịch, nhất là giao dịch
thương mại qua internet được thực hiện phổ biến.
Với những quy định của luật tại Việt Nam cũng như các nước khác trên thế
giới thì ngày nay người ta hiểu khái niệm HĐTMĐT thông thường là những hợp
đồng thương mại được giao kết thơng qua các phương tiện điện tử hay ít nhất là các
kỹ thuật và giao thức được sử dụng trên Internet và công nghệ thông tin được coi là
điều kiện tiên quyết.
Như vậy, HĐTMĐT là một dạng của HĐĐT. HĐTMĐT cũng giống như
HĐĐT ở chỗ chúng đều xuất phát từ hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, cùng

16

Khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 51/2005/QH11

17

Khoản 3 Điều 49 Luật Thương mại 58/L-CTN năm 1997



14

được thực hiện trong môi trường điện tử thông qua dữ liệu điện tử. Chỉ khác ở chỗ
HĐTMĐT có phạm vi hẹp hơn HĐĐT do chỉ giới hạn trong các hoạt động thương
mại. Tính chất thương mại của HĐTMĐT được thể hiện thông qua chủ thể, nội
dung, phương thức… và đặc biệt là mục đích lợi nhuận của các chủ thể thơng qua
hợp đồng. Và khi nói đến HĐTMĐT là nói đến phương thức thiết lập hợp đồng chứ
khơng phải nói đến một loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào.18
1.2. Phân loại hợp đồng thƣơng mại điện tử
HĐTMĐT hình thành và phát triển song song với sự hình thành và phát triển
của TMĐT. Dựa trên cơng nghệ, kỹ thuật được sử dụng trong quá trình ký kết
HĐTMĐT, có thể phân chia thành 03 loại HĐTMĐT như sau:
Thứ nhất, hợp đồng thương mại điện tử hình thành trên website
Đây là HĐTMĐT được sử dụng phổ biến trên các website TMĐT bán lẻ,
điển hình như: adayroi.com.vn, lazada.vn, chodientu.vn, thegioididong.com.vn,
shoppee.vn…
Trong hình thức này, người mua tiến hành các bước đặt hàng tuần tự trên
website của người bán theo quy trình đã được tự động hóa do người bán thiết lập
theo ý mình, người mua phải thực hiện theo quy trình của người bán. Quy trình này
thơng thường gồm các bước từ tìm kiếm sản phẩm, lựa chọn, đặt hàng, tính giá,
chọn hình thức giao hàng, thanh tốn, xác nhận hợp đồng… Thực chất thì quy trình
thực hiện này cũng tương tự việc giao dịch thương mại truyền thống, chỉ khác ở đây
là việc xem, đặt hàng hóa, xem giá,…đều thực hiện trên thiết bị điện tử.
Đặc điểm nổi bật của loại HĐTMĐT này là nội dung hợp đồng không được
soạn sẵn mà được hình thành trong giao dịch tự động. Có nghĩa là thơng tin được
u cầu nhập do bên người bán thiết lập và lập trình sẵn trên các website, người
mua điền thông tin theo yêu cầu. Máy tính tổng hợp nội dung và xử lý dựa trên các
thơng tin để hồn thành nội dung HĐTMĐT. Nội dung mà người mua điền vào
18


Trần Văn Biên (2012), Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam , NXB Tư Pháp


15

thường là họ tên, số điện thoại, địa chỉ, số chứng minh nhân dân, ngày tháng năm
sinh, loại hàng hóa mua, ghi chú liên quan đến giao hàng,…. Một số giao dịch điện
tử kết thúc bằng hợp đồng, một số khác kết thúc bằng đơn đặt hàng điện tử. Cuối
quá trình giao dịch, hợp đồng được tổng hợp và hiển thị để người mua xác nhận sự
đồng ý với các nội dung của hợp đồng. Sau đó, người bán sẽ được thông báo về hợp
đồng và gửi xác nhận đối với hợp đồng đến người mua qua nhiều hình thức, có thể
bằng email hoặc các phương thức khác như điện thoại, fax…


16

Hình 1. HĐTMĐT hình thành trên website
Thứ hai, là hợp đồng thương mại điện tử được ký kết qua thư điện tử
Đây là hình thức HĐTMĐT được sử dụng phổ biến trong các giao dịch điện tử
giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B), đặc biệt là trong các giao dịch
TMĐT quốc tế. Trong hình thức này, các bên sử dụng thư điện tử để tiến hành các
giao dịch, các bước phổ biến thường bao gồm: chào hàng, hỏi hàng, đàm phán về
các điều khoản của hợp đồng như quy cách phẩm chất, giá cả, số lượng, điều kiện
cơ sở giao hàng… Quy trình giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng
tương tự quy trình giao dịch truyền thống, điểm khác biệt là phương tiện sử dụng để
thực hiện giao kết hợp đồng là máy tính, mạng internet và email.
Hình thức giao kết HĐTMĐT qua email có ưu điểm nổi bật là truyền tải được
nhiều chi tiết, nhiều thơng tin, tốc độ giao dịch nhanh, chi phí thấp, phạm vi giao
dịch rộng, nội dung của hợp đồng các bên có thể trao đổi, thỏa thuận qua lại với

nhau nhiều lần nhưng không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, hình thức này có một


17

nhược điểm là tính bảo mật cho các giao dịch và khả năng ràng buộc trách nhiệm
của các bên còn thấp. Về bản chất bước trao đổi qua lại giữa hai bên về các điều
khoản nội dung của hợp đồng cũng giống như quá trình giao kết đàm phán của hợp
đồng truyền thống, chỉ khác ở cách thức trao đổi, phương tiện trao đổi. Hợp đồng
dạng này thường được thiết lập qua nhiều email trong quá trình giao dịch, tuy nhiên,
các bên thường tập hợp thành một hợp đồng hoàn chỉnh sau quá trình giao dịch để
thống nhất lại các nội dung đã nhất trí trong q trình đàm phán và cho ra bản hợp
đồng cuối cùng.

Hình 2. HĐTMĐT được ký kết qua thư điện tử

Thứ ba, hợp đồng thương mại điện tử có sử dụng chữ ký số
Đây là hình thức HĐTMĐT được sử dụng trên các sàn giao dịch điện tử tiên
tiến như Alibaba.com, Asite.com, Covisint.com, Bolero.net… Đặc điểm nổi bật là
các bên phải có chữ ký số để ký vào các thông điệp dữ liệu trong quá trình giao
dịch. Chính vì có sử dụng chữ ký số nên loại HĐTMĐT này có độ bảo mật và ràng


18

buộc trách nhiệm các bên cao hơn các hình thức trên. Tuy nhiên, để có thể sử dụng
chữ ký số, cần có sự tham gia của các cơ quan chứng thực chữ ký.

Hình 3. HĐTMĐT có sử dụng chữ ký số
1.3. Sự khác biệt giữa hợp đồng thƣơng mai điện tử so với hợp đồng truyền

thống
Như mọi hợp đồng truyền thống, HĐTMĐT cũng có đặc điểm là: tham gia
vào HĐTMĐT có ít nhất hai bên (có thể là hai doanh nghiệp ký hợp đồng với nhau
hoặc có thể là doanh nghiệp ký hợp đồng với người tiêu dùng); nội dung HĐTMĐT
rất đa dạng (có thể là hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển…), tuy nhiên nội
dung không trái với những quy định của pháp luật. Khi ký kết HĐTMĐT, các bên


×