Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.86 KB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

DƯƠNG KIM LIÊN

PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số chuyên ngành: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC SƠN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và thông tin
nêu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực. Các dữ liệu, luận điểm được trích đầy
đủ, nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính tôi.

Tác giả

Dương Kim Liên


MỤC LỤC
Đề mục


Trang

Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................................ 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................................................ 4

3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 6

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................................................. 7

5.

Bố cục của luận văn ........................................................................................................................... 7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH
TẾ TRONG LĨNH VỰC VIỄN THÔNG ............................................................................................ 8
1.1. Vấn đề tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông ............................................................. 8
1.1.1. Khái niệm tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông ......................................... 8
1.1.2. Tác động của tập trung kinh tế đối với thị trƣờng viễn thơng ........................... 20

1.2. Vai trị của kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thơng ................................ 22
1.2.1. Tạo động lực phát triển bền vững cho lĩnh vực viễn thơng ................................. 23
1.2.2. Bảo vệ lợi ích chung của xã hội đặc biệt là lợi ích của ngƣời tiêu dùng ...... 24
1.2.3. Ngăn chặn các yếu tố cản trở sự gia nhập thị trƣờng hoặc sự chuẩn bị
gia nhập thị trƣờng của các doanh nghiệp khác trong lĩnh vực viễn
thông 25
1.3. Đặc trƣng của tập trung kinh tế và kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực
viễn thơng ............................................................................................................................................... 26
1.3.1. Chính sách cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông .................................................... 27
1.3.2. Mức độ tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông so với các lĩnh vực
khác 30
Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


1.3.3. Nhà nƣớc vừa là chủ thể tham gia tập trung kinh tế vừa là chủ thể kiểm
soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông của Việt Nam 34
1.3.4. Thách thức của việc kiểm soát tập trung kinh tế trƣớc nhu cầu liên kết
giữa các doanh nghiệp viễn thông đang trở nên phổ biến trong thời kỳ
hiện nay

37

Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................................................................ 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM, NHU CẦU VÀ ĐỊNH
HƢỚNG HOÀN THIỆN............................................................................................................................ 39
2.1. Các quy định pháp luật chung điều chỉnh vấn đề tập trung kinh tế trong lĩnh
vực viễn thông ...................................................................................................................................... 39
2.2. Đánh giá quan hệ giữa Luật Cạnh Tranh và Luật Viễn Thông trong việc điều
chỉnh tập trung kinh tế ...................................................................................................................... 40
2.2.1. Nguyên tắc ƣu tiên áp dụng giữa Luật Cạnh Tranh và Luật Viễn Thông .... 41

2.2.2. Chủ thể tham gia tập trung kinh tế theo Luật Cạnh Tranh và Luật Viễn
Thơng 46
2.2.3. Cơ chế kiểm sốt tập trung kinh tế ................................................................................. 50
2.2.4. Thẩm quyền kiểm soát tập trung kinh tế ..................................................................... 66
Kết luận Chƣơng 2 và kiến nghị ............................................................................................................. 71

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông
- 1/73 -


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Xét về mặt lý luận
Ngành viễn thông Việt Nam là một trong những ngành mà bản thân nó bị

khiếm khuyết về cạnh tranh vì thuộc một trong các lĩnh vực có mức độ tập trung
kinh tế (“TTKT”) cao nhất với tổng thị phần của ba doanh nghiệp lớn nhất là
85,96%1. Đặc thù này xuất phát từ việc số lượng doanh nghiệp tham gia trong
ngành này còn hạn chế và sự hạn chế này xuất phát chủ yếu từ hai nguyên nhân là
lịch sử định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam và chính sách quản lý ngành
viễn thơng của Chính Phủ Việt Nam.
Nguyên nhân thứ nhất, Việt Nam vừa chuyển sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hơn hai thập niên qua. Ngành viễn thông dần
được chuyển từ lĩnh vực độc quyền nhà nước sang kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường. Viễn thông giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Đây được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp vào sự tăng
trưởng đất nước. Do đó, việc chuyển đổi mơ hình của các doanh nghiệp nhà nước

trong ngành viễn thông không thể ngay lập tức chuyển đổi hoàn toàn mà phải trải
qua những giai đoạn nhất định để vừa đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô của
đất nước vừa thực hiện đúng định hướng phát triển kinh tế.
Nguyên nhân thứ hai, theo định hướng phát triển của lĩnh vực viễn thông đến
năm 2020 tại Quyết Định 32/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày
27/7/2012, Việt Nam chủ trương hạn chế số lượng doanh nghiệp tham gia đối với
một số thị trường dịch vụ viễn thông quan trọng như cố định đường dài trong nước,
quốc tế; di động; Internet băng rộng thơng qua các chính sách cấp phép, kết nối hạ
tầng mạng, kiểm sốt bình ổn thị trường và quy hoạch tài nguyên viễn thông phù
hợp. Tuy nhiên, để hạn chế thị trường tập trung vào một số ít các doanh nghiệp viễn
thông, số lượng doanh nghiệp tối thiểu của mỗi thị trường là ba doanh nghiệp. Việc
hạn chế sự tham gia của quá nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này nhằm hạn chế
1

Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2009), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam – hiện trạng và dự báo, Hà
Nội, tháng 1/2009, trang 41.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 2/73 -

sức ép cạnh tranh quá lớn đối với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc nâng cao năng lực tài chính,
năng lực tổ chức quản lý, cải tiến công nghệ, xây dựng các chiến lược kinh doanh
lâu bền và hợp lý. Do đó, việc tập trung nguồn lực kinh tế sẵn có (vốn, cơng nghệ,
lao động…) giữa các doanh nghiệp tạo động lực phát triển nội tại của thị trường để
tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp viễn thông. Song, việc tập
trung các nguồn lực kinh tế này vào trong một số ít các doanh nghiệp nhất định với
thị phần kết hợp đến mức độ kiểm soát trong một thị trường liên quan nhất định sẽ

là mầm mống triệt tiêu hoặc gây tổn hại đến động lực phát triển nội tại của thị
trường, ảnh hưởng đến nguồn thu quốc gia, thu hẹp sự lựa chọn của người tiêu
dùng.
Do đặc thù về mức độ TTKT của ngành viễn thơng cao nên vai trị quản lý
của nhà nước đối với việc TTKT trong lĩnh vực viễn thông trở thành nhu cầu tất yếu
để đảm bảo sự vận hành và phát triển của lĩnh vực viễn thông phù hợp với các quy
luật phát triển kinh tế của thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Xuất phát từ nhu
cầu này, việc nghiên cứu một cách hệ thống pháp luật về kiểm soát TTKT là điều
kiện cần thiết cho việc áp dụng một cách hiệu quả các biện pháp kiểm soát TTKT
này.
1.2.

Xét về mặt thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật

Hiện vấn đề TTKT trong lĩnh vực viễn thông thuộc đối tượng điều chỉnh
đồng thời của Luật Cạnh Tranh năm 2004 với vai trị của “luật chung” và Luật Viễn
Thơng năm 2009 với vai trò của “luật chuyên ngành”. Tuy nhiên pháp luật chưa quy
định cụ thể nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành hay luật chung khi có sự
xung đột giữa hai luật này.
Việc kiểm soát TTKT trong lĩnh vực viễn thơng sẽ do Chính Phủ quản lý
thống nhất và quyết định trên cơ sở ý kiến chấp thuận của hai bộ chịu trách nhiệm
quản lý trực tiếp là Bộ Thông Tin và Truyền Thông (“BTTTT”) và Bộ Công
Thương (“BCT”). Từ đó có thể thấy, Chính Phủ giữ vai trị là cơ quan quản lý của
lĩnh vực viễn thông đồng thời cũng là cơ quan kiểm sốt TTKT. Nhìn từ ngun góc
độ giám sát, kiểm sốt cũng như phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước, pháp luật
chưa quy định cơ chế phối hợp của hai cơ quan này.
Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 3/73 -


Ngồi ra, có nhiều quy định của hai luật này liên quan đến cơ chế kiểm soát
TTKT chưa minh bạch, thống nhất, còn chồng chéo, còn mâu thuẫn, điển hình như
quy định liên quan đến tiêu chí xác định TTKT, hành vi TTKT… Vì vậy, vấn đề
này cần được nghiên cứu và xử lý để tránh việc gây khó khăn cho các cơ quan quản
lý đồng thời tránh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Thực tiễn tại Việt Nam, kể từ khi Luật Cạnh Tranh năm 2004 lần đầu tiên được
ban hành và có hiệu lực đến nay, Cục Quản Lý Cạnh Tranh (“CQLCT”) đã phê chuẩn
tất cả các vụ việc TTKT được thơng báo, chưa có vụ nào thuộc dạng bị cấm hoặc bị xử
lý do vi phạm các quy định về TTKT2. Có một số trường hợp tham vấn (bằng văn bản
hoặc làm việc trực tiếp) với CQLCT về các vụ việc diễn ra trong các ngành khác nhau,
trong đó có lĩnh vực thiết bị viễn thông là Công ty TNHH Lucent Technologies Việt
Nam và Công ty TNHH Alcatel – Lucent Việt Nam3. Gần đây nhất, có thể kể đến việc
Hanoi Telecom gửi cơng văn đến CQLCT, đồng thời cũng gửi tới HĐCT, Hội Tiêu
Chuẩn và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng, Hanoi Telecom cho rằng chủ trương sáp nhập
EVN Telecom vào Viettel là TTKT quá mức và dồn mọi nguồn lực của EVN Telecom
cho Viettel, là trái với các quy định của Luật Cạnh Tranh cũng như các cam kết của
Việt Nam khi gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (“WTO”)4. Thêm vào đó, một
số vụ việc có thể xem xét dấu hiệu của hành

vi TTKT trong thời gian gần đây như vụ Viettel tiếp quản EVN Telecom từ ngày
01/01/2012, đề án sáp nhập hai mạng di động MobiFone và VinaPhone của VNPT,
đề án sáp nhập VTN và VTI5 đã và đang gây sự chú ý của dư luận và không thể
không được giới nghiên cứu khoa học pháp lý xem xét, phân tích đặc biệt từ góc độ
của pháp luật cạnh tranh. Như vậy, các vấn đề kiểm soát TTKT đã và đang trở thành
vấn đề các doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh tế đặc thù là viễn thông và cũng như
nhiều người rất quan tâm hiện nay.
Tham khảo thực tiễn về xử lý TTKT trên thế giới, trường hợp Tập đoàn
2


3

4

5

Cục Quản lý Cạnh tranh- Bộ Công thương (2012), Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012, tháng 9/2012, trang
33.
Cục Quản lý Cạnh tranh – Bộ Công thương (2012), Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012, tháng 9/2012,
trang 32.
Mạnh Chung (2011), “Nhập EVN Telecom vào Viettel là phạm Luật Cạnh tranh”, Vn Economy, bài đăng Thứ Sáu,
11/11/2011 - 05:07 tại website truy cập ngày 30/4/2014 lúc 10 giờ 00 phút.
Bá Huy, Mai Phương (2012), “Nếu hai "đại gia phone" sáp nhập: Có gì ầm ĩ!”, Báo pháp luật
ngày 22/3/2012 - 00:31 tại website truy cập ngày 30/4/2014 lúc 10 giờ 00 phút.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 4/73 -

Temasek của Singapore, thông qua hai công ty con là SingTel và Asia Mobile
Holdings đã thâu tóm và nắm cổ phần chi phối tại hai công ty viễn thông di động
lớn nhất của Indonesia là PT Indosat và Telkomsel. Theo KPPU - Cơ quan quản lý
cạnh tranh của Indonesia, với vị trí thống lĩnh thị trường, các hãng này đã áp đặt giá
cước cao bất hợp lý và vi phạm Luật Cạnh Tranh. KPPU đã ra phán quyết buộc
Temasek phải bán cổ phần của họ ở một trong hai cơng ty di động Indonesia nói
trên trong vịng hai năm kèm theo các mức phạt và biện pháp chế tài bổ sung6. Một
ví dụ khác, DOJ – Cục chống độc quyền thuộc Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ - không thông
qua kế hoạch AT&T mua lại T-Mobile sau khi DOJ xem xét và nhận định rằng việc
mua bán, sáp nhập này sẽ gây khó khăn, làm tốn chi phí và thời gian, đòi hỏi về

giấy phép phổ tần và xây dựng mạng lưới cho các đối thủ cạnh tranh mới gia nhập
thị trường viễn thông của Hoa Kỳ7.
Từ những phân tích trên rõ ràng rằng, xét về điều kiện thực tiễn và khoa học
pháp lý Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề kiểm soát TTKT
trong lĩnh vực viễn thông là thực sự cần thiết. Nhằm mục đích tìm hiểu khía cạnh
pháp lý và kỳ vọng luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động áp
dụng, nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật, tác giả chọn đề tài “Pháp luật kiểm sốt
tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thơng”.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
TTKT và kiểm sốt TTKT nói chung đã được nhiều chuyên gia và tác giả lựa

chọn phân tích và bình luận ở nhiều khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như:
-

Luận văn thạc sĩ “Kiểm soát TTKT theo luật cạnh tranh Việt Nam” năm 2008
của tác giả Nguyễn Thị Huỳnh dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn
Như Phát. Đề tài này đã có những nghiên cứu khá tồn diện về mặt lý luận
nhưng chưa phân tích những trường hợp thực tiễn có liên quan. Đề tài này
chỉ đề cập đến tương quan điều chỉnh giữa Luật Cạnh Tranh và các luật khác
như Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.

-

Luận văn thạc sĩ “TTKT dưới hình thức mua lại doanh nghiệp” năm 2010 của

6

Cục Quản lý Cạnh tranh- Bộ Công thương (2009), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam – hiện trạng và dự báo, Hà

Nội, tháng 1/2009, trang 66.
Cục Quản lý Cạnh tranh- Bộ Công thương (2012), Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2012, tháng 9/2012, trang
95-96.

7

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 5/73 -

tác giả Huỳnh Văn Hiếu dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Trí Hùng. Đề tài
này mổ xẻ vấn đề TTKT tập trung vào một hình thức TTKT dưới dạng mua
lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, đề tài không đi sâu vào bất cứ lĩnh vực kinh tế
nào.
-

Luận văn thạc sĩ “TTKT theo pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ” năm 2011 của
tác giả Cao Thị Hoàng Oanh dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phan Huy
Hồng. Đề tài này tập trung phân biệt và so sánh vấn đề TTKT trên nền tảng
pháp luật của Việt Nam và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đề tài này khơng bình luận
các vụ việc thực tiễn về TTKT trong một lĩnh vực nhất định.
Ngoài ra, cịn có một số bài viết, nghiên cứu chung về vấn đề kiểm soát

TTKT theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam của các tác giả như:
-

Báo cáo TTKT Việt Nam của Cục Quản Lý Cạnh Tranh – Bộ Công Thương
vào tháng 9/2012, với những thơng tin khá tồn diện về lý luận và thực tiễn
kiểm soát TTKT;


-

Bài viết “Kiểm soát TTKT theo pháp luật cạnh tranh và các vấn đề của Việt
Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Sơn đăng trên tạp chí nghiên cứu và lập pháp số
79, tháng 7/2006;

-

Bài viết “Các khía cạnh pháp lý về TTKT và vai trò của cơ quan quản lý
cạnh tranh” của Nguyễn Như Phát đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 4
(41) 2007.
Trong lĩnh vực viễn thông, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng

Linh “Thực hiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông ở Việt Nam” vào
năm 2007 là một trong những nghiên cứu tiêu biểu. Tuy nhiên, đề tài này chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế
cạnh tranh (kiểm soát độc quyền), chưa nghiên cứu về vấn đề kiểm soát TTKT
trong lĩnh vực viễn thơng.
Ngồi ra, cũng có nhiều bài viết, bình luận cũng như ý kiến liên quan vấn đề
TTKT xung quanh ý kiến vấn đề sáp nhập MobiFone vào VinaPhone của tập đoàn
VNPT và việc EVN Telecom sáp nhập vào Viettel trong thời gian vừa qua. Tuy
nhiên, các bài viết này chỉ là các bài báo mang tính chất thơng tin về vụ việc, không
phải là các bài nghiên cứu được thực hiện dưới góc nhìn của khoa học pháp lý và
Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 6/73 -

chưa đưa ra các vấn đề lý luận để xem xét đánh giá của vụ sáp nhập này.

Như vậy, tính đến thời điểm thực hiện đề tài này và trong phạm vi tìm hiểu
của tác giả, vấn đề kiểm sốt TTKT trong lĩnh vực viễn thơng hiện chưa có bất kỳ
cơng trình nghiên cứu chun sâu chính thức nào. Do đó có thể khẳng định đề tài
này đáp ứng được tính mới khi nghiên cứu.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đưa ra mổ xẻ về lý luận là các quan điểm khái niệm về kiểm soát

TTKT trong lĩnh vực viễn thông và về thực tiễn là các quy định pháp luật và các vụ
việc cụ thể.
Đề tài tập trung nghiên cứu pháp luật kiểm soát TTKT trong một số vấn đề
cụ thể và đặc thù của lĩnh vực viễn thông, là cung cấp dịch vụ viễn thơng ở Việt
Nam. Dịch vụ viễn thơng đóng góp một phần quan trọng trong tổng doanh thu của
ngành viễn thông và thời gian gần đây hoạt động mua bán, sáp nhập ở các doanh
nghiệp dịch vụ viễn thông lớn như Viettel- EVN telecom, VNPT-MobiFone đã và
đang được dư luận đặc biệt quan tâm.
Cụ thể, thông qua việc nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về
viễn thông, tác giả phân tích sự liên kết điều chỉnh cũng như tương quan điều chỉnh
của hai luật này đối với cùng một vấn đề là kiểm soát TTKT. Trên cơ sở phân tích
mối tương quan điều chỉnh này, kết hợp với những vụ việc thực tiễn của một số
doanh nghiệp viễn thơng để làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận này. Trên
cơ sở lý luận và thực tiễn này, tác giả sẽ phân tích nhu cầu hồn thiện và định hướng
hồn thiện của pháp luật kiểm sốt TTKT trong lĩnh vực viễn thông.
Tác giả chỉ tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến việc kiểm sốt
TTKT trong lĩnh vực viễn thông như nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật, chủ thể tham
gia TTKT, các tiêu chí kiểm soát TTKT và thẩm quyền kiểm soát TTKT. Tác giả
khơng phân tích một hình thức TTKT cụ thể như sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh theo quy định của Luật Cạnh Tranh.
Khi thực hiện đề tài tác giả không thể tiếp cận những hồ sơ liên quan đến các

vụ việc thực tiễn mặc dù đã liên hệ với các cơ quan hữu quan. Tác giả chủ yếu dựa
vào các thơng tin báo chí đưa ra nên ít nhiều cũng có những hạn chế nhất định.

Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 7/73 -

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp và

phân tích. Việc so sánh và phân tích được thực hiện giữa pháp luật cạnh tranh với
pháp luật viễn thông, giữa pháp luật trong nước với pháp luật một số quốc gia điển
hình trên thế giới, cũng như giữa các quy định pháp luật với các tài liệu tổng kết
thực tiễn và các tài liệu khoa học pháp lý để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Ngoài ra, để thực hiện đề tài, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau tùy từng nội dung cụ thể nhất định. Trong đó, tác giả sẽ sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như sau:
-

Phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin.

-

Kế thừa và phát triển một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên
cứu có liên quan, các tư liệu có trong sách báo, tạp chí, trang thông tin điện
tử và các báo cáo nghiên cứu chuyên sâu.


-

Các phương pháp khác như thống kê, lịch sử, trao đổi chuyên gia….

5.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm soát TTKT trong lĩnh vực viễn

thông.
Trong phạm vi chương này, tác giả phân tích lý luận về kiểm sốt TTKT
trong lĩnh vực viễn thơng để từ đó làm nền tảng và cơ sở cho chương tiếp theo.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam, nhu cầu và định hướng hoàn
thiện.
Trong phạm vi chương này, tác giả làm rõ tương quan điều chỉnh của Luật
Cạnh tranh và Luật Viễn Thông. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả phân tích
nhu cầu và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật để kiểm sốt TTKT trong lĩnh
vực viễn thơng.

Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thơng


- 8/73 -

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SỐT TẬP TRUNG
KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC VIỄN THƠNG
1.1.


Vấn đề tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông

1.1.1. Khái niệm tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông

TTKT trong lĩnh vực viễn thông về bản chất giống như TTKT trong các
ngành nghề kinh tế khác và là hiện tượng kinh tế khách quan xuất hiện ngay cả
trong điều kiện kinh tế phát triển thịnh vượng lẫn khi khủng hoảng kinh tế, đáp ứng
nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dựa trên cơ sở
nguồn gốc, khái niệm và các hình thức của hiện tượng TTKT như phân tích dưới
đây.
1.1.1.1. Nguồn gốc của hiện tượng tập trung kinh tế
Lịch sử hình thành các loại công ty đã cho thấy phương cách nhanh nhất để
các thương nhân thời trung cổ nâng cao năng lực cạnh tranh là liên kết về vốn và
khả năng quản lý trong quá trình kinh doanh8.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải ln tìm cách tối đa hóa lợi
nhuận, tức tăng tối đa tổng doanh thu và giảm tối thiểu chi phí phải bỏ ra để sản
xuất/cung cấp dịch vụ cho thị trường. Để có thể tối đa tổng doanh thu doanh nghiệp
phải tìm cách sản xuất nhiều hàng hóa và bán với giá cao nhất thơng qua hình thức
nâng cao năng lực tài chính, năng lực tổ chức quản lý, đầu tư và phát triển công
nghệ sản xuất hiện đại, đào tạo nhân công/ nhân viên để nâng cao năng suất lao
động, xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp và linh hoạt cho từng giai
đoạn kinh doanh, mở rộng mạng lưới phân phối của mình. Doanh nghiệp sẽ sử dụng
một phần lợi nhuận thu được phục vụ cho mục đích cá nhân đồng thời sử dụng một
phần lợi nhuận để tiếp tục đầu tư và phát triển. Như vậy, quá trình vận động và tận
dụng các nguồn lực nội tại của mình để tồn tại này góp phần tạo nên sự phát triển
bền vững của xã hội và bản thân doanh nghiệp có thể ngày càng nâng cao sức mạnh
của mình đối với thị trường. Thực tế đây là quá trình kéo dài nên sẽ mất nhiều thời
gian.
Trong khi đó, nếu các doanh nghiệp liên kết lại với nhau để tận dụng các lợi
8


Hoàng Xuân Bắc, Lê Danh Vĩnh, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà
Nội, trang 409.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 9/73 -

thế so sánh của mình đối với các đối thủ như năng lực vốn, lao động, công nghệ
cũng như mạng lưới phân phối thơng qua các hình thức phổ biến như mua bán
(nghĩa rộng “acquisitions” gồm mua bán tài sản và mua bán một phần hoặc toàn bộ
doanh nghiệp), sáp nhập (theo nghĩa rộng “mergers” gồm hợp nhất và sáp nhập),
liên doanh hay việc một cá nhân/ tổ chức cùng sở hữu nhiều doanh nghiệp ở một tỷ
lệ nhất định để chi phối các doanh nghiệp này thì thời gian nâng cao năng lực cạnh
tranh ngắn hơn rất nhiều. Theo mguyên lý kinh tế - con người phản ứng lại với các
kích thích nói rằng “mọi người sẽ ra quyết định dựa trên sự so sánh chi phí và lợi
ích, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi ích lợi và chi phí thay đổi”9. Xét về hiệu
quả kinh tế thì tập trung, liên kết là phương thức tiết kiệm nhất cả về thời gian lẫn
chi phí, vì vậy, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng liên kết vốn như là một lựa chọn
tối ưu cho việc gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chính điều này đã dẫn
tới sự ra đời của tập trung tư bản.
Sau khi các doanh nghiệp liên kết lại với nhau, số lượng doanh nghiệp trên
thị trường sẽ giảm, các doanh nghiệp còn lại sau khi liên kết sẽ được gia tăng đáng
kể về sức mạnh cạnh tranh và việc rút khỏi thị trường cũng như gia nhập thị trường
của các doanh nghiệp khác ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng. Tập trung tư bản đạt đến một
mức độ nhất định thì sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp sau khi liên kết này
có thể tác động ngược trở lại thị trường khi nó làm thay đổi cơ cấu thị trường, và khi
đó hiện tượng TTKT xuất hiện. Trong nền kinh tế thị trường tồn cầu, càng có
nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường thì sức ép cạnh tranh ngày càng lớn và

tất yếu hiện tượng TTKT sẽ có xu hướng gia tăng và tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau.
Về bản chất, TTKT hình thành, tồn tại và phát triển dựa trên những cơ sở
kinh tế và pháp lý nhất định.



Cơ sở kinh tế:

Là một hình thức TTKT, chính vì thế, TTKT trong lĩnh vực viễn thơng cũng
mang những đặc trưng kinh tế của TTKT nói chung đó là:
Một là, do nhu cầu đầu tư và mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Giống
như các lĩnh vực khác, để đầu tư vào lĩnh vực viễn thông, nhà đầu tư có thể thực
9

N. Gregony Mankiu (2003), Nguyên lý kinh tế học (tập I), Nxb Thống Kê, Hà Nội, trang 19.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 10/73 -

hiện một trong các hình thức đầu tư như thành lập mới, mua lại, sáp nhập, hợp nhất
hoặc liên doanh. Trong đó xu hướng mua bán và sáp nhập trở nên phổ biến bởi nhà
đầu tư có thể tận dụng được những cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mạng lưới phân phối sẵn
có của các doanh nghiệp viễn thông hiện hữu. Theo dự báo tại Diễn đàn mua bán và
sáp nhập Việt Nam (diễn đàn M&A 2014) với chủ đề “Mua bán và sáp nhập trước
làn sóng thứ hai” do báo đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, “mua bán và
sáp nhập đang trở thành một hình thức đầu tư, kênh tham gia thị trường ngày càng
hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường mua bán và sáp nhập

doanh nghiệp Việt Nam hứa hẹn sẽ có cuộc thay đổi lớn từ nay đến 2018. Trong đó,
thương vụ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lớn sẽ được quan tâm đặc biệt”10.
Đối với nhà nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực viễn thông, do rào
cản về tỷ lệ vốn của nhà đầu tư trong liên doanh giới hạn không quá 65% vốn pháp
định của liên doanh đối với dịch vụ khơng có hạ tầng mạng và không quá 49% vốn
pháp định của liên doanh đối với dịch vụ có hạ tầng mạng, nên các hình thức đầu tư
như mua lại vốn góp/cổ phần hoặc liên doanh là phương án khả dĩ.
Theo quyết định 888/QĐ-Ttg ngày 10/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đề án tái cơ cấu tập đồn bưu chính viễn thơng Việt Nam giai đoạn 20142015, Nhà nước sẽ tiến hành phương án cổ phần hóa MobiFone. Do đó, đây cũng là
một là một kênh đầu tư, mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngồi
nước, trong đó có cả doanh nghiệp viễn thông trong thời gian sắp tới.
Hai là, do sức ép cạnh tranh của đời sống kinh doanh. Xét từ xu hướng của
nền kinh tế vĩ mơ tồn cầu, điều kiện kinh tế thịnh vượng là yếu tố quan trọng liên
quan đến mua bán sáp nhập nói riêng và TTKT nói chung. Nhiều sự liên kết và tích
tụ tư bản diễn ra khi kinh tế đang phát triển và đạt đến đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế.
Lịch sử phát triển các thương vụ mua bán và sáp nhập của Mỹ trong các giai đoạn
trùng khớp với sự phát triển như vũ bão của cách mạng công nghiệp những năm
1890, sự phát triển của nền kinh tế sau thế chiến thứ II những năm 1920, sự phát
triển của khoa học và kỹ thuật những năm 1990 đã chứng minh điều này11.

10

Bích Huyền (2014), “Thị trường mua bán và sáp nhập cịn nhiều tiềm năng”, Đài tiếng nói Việt Nam – VOV TP.
HCM, bài đăng Thứ Năm, ngày 7/8/2014 - 17:32 tại website truy cập ngày 30/8/2014 lúc 14 giờ 00 phút.
11
Robert B. Thompson (2010), Mergers and acquisitions: Law and finance, Aspen Publishers, New York, trang 1-3.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông



- 11/73 -

Tương tự như các lĩnh vực kinh tế khác, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực
viễn thông chịu sự tác động của năm nhân tố chính là sự cạnh tranh đối đầu giữa các
công ty đang hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, mối đe dọa từ những cơng ty có
khả năng gia nhập thị trường, mối đe dọa từ sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế, sức
mạnh mặc cả của nhà cung ứng và sức mạnh mặc cả của người mua12. Trong đó,
mỗi yếu tố đều có những tác động mang tính chất quyết định đến mức lợi nhuận
cuối cùng tiềm năng, trong đó mức lợi nhuận cuối cùng tiềm năng của nhà đầu tư.
Ngoại trừ mối đe dọa từ các sản phẩm và dịch vụ thay thế, các nhân tố còn lại
thường xuyên tác động làm giảm mức lợi nhuận trên một lượng vốn đầu tư xuống
đến mức sàn. Các nhà đầu tư sẽ không chấp nhận nếu mức lợi nhuận dưới mức sàn
vì họ có thể chọn kênh đầu tư khác hoặc sớm muộn cũng sẽ rơi vào tình trạng phá
sản. Để giảm áp lực cạnh tranh dưới tác động của năm nhân tố nói trên, các cơng ty
có tiềm lực mạnh sẽ có xu hướng liên kết hoặc thâu tóm các cơng ty khác yếu hơn
để gia tăng sức ảnh hưởng của mình đối với thị trường loại bỏ bớt đối thủ cạnh
tranh; đồng thời các cơng ty yếu kém cũng có xu hướng liên kết lại với nhau để
cạnh tranh lại các công ty có sức mạnh chi phối thị trường.
Ba là, do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Hiện nay còn nhiều tranh
cãi về nguyên nhân thực sự của các cuộc khủng hoảng kinh tế có phải xuất phát từ
nguồn gốc sâu xa là tự do thị trường không. Tuy nhiên, lịch sử phát triển kinh tế thị
trường đã cho thấy khi kinh tế thị trường phát triển đến một giai đoạn cực thịnh thì
sẽ chuyển sang giai đoạn khủng hoảng kinh tế mà các nhà kinh tế học gọi nó là “chu
kỳ kinh tế”. Khủng hoảng kinh tế xuất hiện sẽ dẫn đến việc sức mua sụt giảm, thị
trường thu hẹp, sản xuất bị đình đốn, việc làm bị mất, thu nhập giảm sút, nền kinh tế
trì trệ, ảm đạm.
Các doanh nghiệp trong giai đoạn kinh tế này phải trải qua giai đoạn sàng lọc
khắt nghiệt. Kết quả của sự sàng lọc này là các doanh nghiệp yếu kém về năng lực
tài chính đứng trước nguy cơ giải thể hoặc phá sản. Trước sức ép này, các doanh
nghiệp có khuynh hướng liên kết lại với nhau để gia tăng sức mạnh của mình để

vượt qua khủng hoảng kinh tế. Cịn các doanh nghiệp có thể vượt qua sự thử thách
12

Dương Ngọc Dũng (2009), Chiến lược cạnh tranh theo lý thuyết Michael E. Porter, Nxb Tổng Hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, trang 19.

Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 12/73 -

của cuộc khủng hoảng có thể khẳng định được vị trí của mình trên thị trường và có
khuynh hướng mua lại hay sáp nhập những doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ
phá sản hoặc giải thể để tận dụng những cơ sở vật chất, hệ thống phân phối cũng
như thị phần sẵn có của các doanh nghiệp này với chi phí rẻ hơn trong điều kiện
bình thường.
Từ ba luận điểm trên cho thấy rằng TTKT xuất phát do ba nguyên nhân
chính là (i) đáp ứng nhu cầu đầu tư và mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp, (ii)
sức ép cạnh tranh của đời sống kinh doanh và (iii) sức ép của các cuộc khủng hoảng
kinh tế.



Cơ sở pháp lý:

Kế đến, xét cơ sở pháp lý thì hiện tượng TTKT tồn tại dựa trên quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của doanh nghiệp, hiểu
theo nghĩa rộng, nó bao gồm tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, thực hiện các
hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận; tổ chức quản lý điều hành doanh

nghiệp để giảm thiểu chi phí, tối ưu hóa ưu thế của mình; tự do hợp tác với các
doanh nghiệp khác, tự do tận dụng lợi thế của mình để ganh đua với các doanh
nghiệp khác; tự do sử dụng vốn, lợi nhuận có được để tiến hành các hoạt động đầu
tư như mua lại, sở hữu vốn vào các doanh nghiệp khác để gia tăng sức mạnh cạnh
tranh trên thị trường.
Một số nội dung cụ thể thuộc nội hàm của quyền tự do kinh doanh được
khẳng định trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về
viễn thơng nói riêng, cụ thể như sau:
-

Điều 33 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm”;

-

Các Điều 7, 46 và 395 Bộ Luật dân sự năm 2005; Điều 11 Luật Thương mại;
Điều 4 Luật Cạnh Tranh quy định “quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ
của pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh
doanh”; và

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 13/73 -

-

Khoản 3 Điều 4 Luật Viễn Thông 2009 quy định “bảo đảm môi trường cạnh
tranh lành lạnh trong hoạt động viễn thông”.

Tuy nhiên cũng như tất cả các quyền tự do khác, quyền tự do kinh doanh

không phải là tự do tuyệt đối, khơng có giới hạn. Khi vượt quá một giới hạn nhất
định quyền tự do này có thể ảnh hưởng đến quyền tự do của doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ viễn thông khác. Như vậy, việc hạn chế quyền của doanh nghiệp này
là nhằm đảm bảo và thúc đẩy cho quyền tự do của doanh nghiệp khác.
Pháp luật cạnh tranh về bản chất là một trong những công cụ can thiệp của
nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể ảnh hưởng đến quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của sự can thiệp này là nhằm thiết lập
và duy trì thị trường có tính cạnh tranh nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh và
quyền tự do cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp.
Tương tự như pháp luật các nước, ví dụ Cộng đồng Châu Âu, pháp luật Việt
Nam khẳng định sự can thiệp hợp pháp của pháp luật cạnh tranh vào quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng.
Thêm vào đó, TTKT cũng được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật Việt Nam
theo Luật Cạnh Tranh và các luật khác.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng trong nền kinh tế thị
trường, quyền tự do kinh doanh và quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực viễn thông giống với quyền tự do kinh doanh và quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung là phải được tơn trọng. Các doanh nghiệp
thường có xu hướng sử dụng các hành vi TTKT để tăng cường sức mạnh cạnh tranh
của mình trên thị trường nhằm hạn chế áp lực cạnh tranh và ngăn cản sự tham gia
thị trường của các doanh nghiệp khác. Để đảm bảo trật tự và lợi ích chung của nền
kinh tế và của xã hội, các quyền tự do cạnh tranh và quyền tự do kinh doanh này
phải hướng đến đảm bảo sự cân đối, hài hịa lợi ích chung, lợi ích người tiêu dùng
và lợi ích của các doanh nghiệp khác. Pháp luật cạnh tranh có quyền can thiệp, giới
hạn quyền tự do này để đảm bảo cho quyền tự do và cạnh tranh của doanh nghiệp
khác, đảm bảo lợi ích chung của xã hội và lợi ích của người tiêu dùng. Nhưng trong
quá trình can thiệp này, nhà nước cần phải cân nhắc để sự can thiệp này không ảnh

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 14/73 -

hưởng đến quyền hiến định của các doanh nghiệp.
1.1.1.2. Khái niệm tập trung kinh tế
Thực tiễn cho thấy, TTKT là một hiện tượng kinh tế đang có xu hướng gia
tăng. Điều này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của rất nhiều các nhà khoa học
thuộc các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế học và khoa học pháp lý.
Trong kinh tế học, có hai góc nhìn về TTKT. Theo đó, TTKT được nhìn
nhận như một quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị
trường, “TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các doanh
nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp
nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên
cơ sở mở rộng năng lực sản xuất”13. Khái niệm này chưa chỉ ra được bản chất của
TTKT nhưng lại làm rõ nguyên nhân và hậu quả của hành vi TTKT.
Ngồi ra, TTKT cũng có thể được nhìn nhận như là hành vi của doanh
nghiệp thì TTKT (cịn gọi là tập trung tư bản) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp
nhất từ nhiều tư bản lại hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác”14. Khái niệm
này chỉ ra được bản chất của hành vi TTKT.
Trong khoa học pháp lý, TTKT là một hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị
trường và đã được kiểm soát bằng pháp luật tại các nước phát triển như Mỹ, Pháp,
Đức,… từ cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX. Điển hình như pháp luật của
Pháp và Châu Âu như sau:
-

Điều L.430-1 và Điều L.430-2 Bộ Luật thương mại của Pháp quy định: TTKT là
kết quả của bất kỳ hành vi nào như góp vốn mua cổ phần, giao kết hợp đồng,
thành lập một doanh nghiệp hoặc bất kỳ hình thức nào nhằm chuyển quyền sở

hữu hoặc quyền sử dụng đối với toàn bộ hoặc một phần tài sản của một doanh
nghiệp hoặc chuyển các quyền, hợp đồng có khả năng tạo ra tác động tương đối
đối với tổ chức, việc thảo luận và ra quyết định của

các cơ quan trong một doanh nghiệp15. Có thể thấy khái niệm này mơ tả
hành vi và mục đích của TTKT.
13

Hoàng Xuân Bắc, Lê Danh Vĩnh, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà
Nội, trang 410.
14
Hoàng Xuân Bắc, Lê Danh Vĩnh, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà
Nội, trang 411.
15
Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên Minh Châu Âu, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, trang 80-83.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 15/73 -

-

Theo định nghĩa do Ủy ban Châu Âu đưa ra trong bản ghi nhớ năm 1965,
TTKT là “sự kết hợp của nhiều doanh nghiệp độc lập thành một thực thể lớn
hơn”16. Trong khi đó, khái niệm này lại chỉ rõ mục đích của TTKT.
Ở Việt Nam khái niệm TTKT còn chưa thống nhất. Pháp luật cạnh tranh hiện

hành không đưa ra khái niệm TTKT mà chỉ mô tả các hành vi được xem là TTKT.
Điều 16 Luật Cạnh Tranh Việt Nam quy định:

“TTKT là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
1.

Sáp nhập doanh nghiệp;

2.

Hợp nhất doanh nghiệp;

3.

Mua lại doanh nghiệp;

4.

Liên doanh giữa các doanh nghiệp;

5.

Các hành vi khác theo quy định của pháp luật.”

Các Điều 17 và 18 của Luật Cạnh tranh cũng quy định nội hàm của các hành
vi TTKT trên như sau:
Thứ nhất, sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một
doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Thứ hai, hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Thứ ba, mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc

một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một
ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Trong đó, kiểm sốt hoặc chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp khác là trường hợp một doanh nghiệp (sau
đây gọi là doanh nghiệp kiểm soát) giành được quyền sở hữu tài sản của doanh
nghiệp khác (sau đây gọi là doanh nghiệp bị kiểm soát) đủ chiếm được trên 50%
quyền bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ, HĐQT hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật
hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm sốt chi phối
các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được
16

Nguyễn Hữu Huyên (2004), Luật cạnh tranh của Pháp và Liên Minh Châu Âu, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, trang170.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 16/73 -

lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát.
Như vậy, mặc dù việc mua lại doanh nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng
tức bao gồm cả mua tài sản của doanh nghiệp khác (như một nhà máy hoặc dự án
của doanh nghiệp khác) đủ để kiểm sốt, chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại, nhưng pháp luật cạnh tranh chỉ dừng lại ở việc giải thích
thế nào là đủ để kiểm sốt doanh nghiệp khác khi giành được quyền sở hữu tài sản
của doanh nghiệp khác đủ chiếm được trên 50% hoặc tỷ lệ nhất định theo quy định
của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp quyền bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ, HĐQT chưa làm
rõ nội dung thế nào là kiểm soát, chi phối doanh nghiệp khác khi mua một phần tài
sản của doanh nghiệp khác.
Ngoài ra, đối với doanh nghiệp viễn thông bị mua lại có hình thức hoạt động
là doanh nghiệp cổ phần thì tỷ lệ 50% quyền bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ cũng không đủ
để doanh nghiệp mua lại kiểm soát hoặc chi phối các quyết định của doanh nghiệp

bị mua lại. Theo quy định của pháp Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp mua lại phải
chiếm tỷ lệ trên 65% vốn điều lệ của doanh nghiệp bị mua lại thì mới có đủ khả
năng biểu quyết thông qua các quyết định của ĐHĐCĐ đối với các vấn đề của
doanh nghiệp bị mua lại. Thêm vào đó, pháp luật cạnh tranh vẫn cịn bỏ ngỏ thế nào
được xem là kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại khi doanh nghiệp bị
mua lại có hình thức hoạt động là công ty trách nhiệm hữu hạn.
Thứ tư, liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh
nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình để hình thành một doanh nghiệp mới. Trong đó, các doanh nghiệp tham gia
liên doanh có thể là có vốn của nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong nước. Các doanh
nghiệp viễn thơng có thể liên doanh với nhau theo các hình thức khác nhau phù hợp
với pháp luật viễn thơng, pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp, nhưng chỉ có
hình thức liên doanh để hình thành một doanh nghiệp mới thì mới được xem là hành
vi TTKT theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Từ việc đưa ra các khái niệm TTKT khác nhau từ các góc độ khác nhau cho
ta cái nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về bản chất bên trong, hình thức thể hiện ra bên
ngồi, phương thức thực hiện, ngun nhân hình thành và hậu quả của TTKT. Tuy
nhiên, dù có xem xét TTKT từ nhiều góc độ khác nhau đi chăng nữa thì theo nghĩa
Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 17/73 -

khái quát nhất TTKT là kết quả của q trình tích tụ, tập trung tư bản và thường
diễn ra bằng cách có sự liên kết ở những mức độ khác nhau giữa các chủ thể với
nhau nhằm tăng thêm sức mạnh cạnh tranh của các chủ thể này.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng TTKT tất yếu tồn tại và
xảy ra trong nền kinh tế thị trường trước sức ép của cạnh tranh. Bản thân TTKT tồn
tại những ưu điểm và khuyết điểm. Do đó, vấn đề kiểm sốt TTKT cần được xem
xét một cách thận trọng để hạn chế những khuyết điểm này và để doanh nghiệp tự

do khai thác các ưu điểm của hiện tượng này.
1.1.1.3. Các hình thức của tập trung kinh tế17
Về lý thuyết, căn cứ vào tính chất của các chủ thể tham gia liên kết lại để
hình thành một vụ TTKT, có thể chia TTKT thành ba hình thức sau:
(a)

Tập trung kinh tế theo chiều ngang
Xét về mặt chủ thể, TTKT theo chiều ngang là sự liên kết của các doanh

nghiệp cùng hoạt động trên cùng một thị trường liên quan, tức tham gia cung ứng
cùng loại sản phẩm hoặc các sản phẩm có khả năng thay thế nhau và trên cùng thị
trường địa lý liên quan.
Đặc điểm nổi bật của hình thức TTKT này là trước khi thực hiện TTKT, các
doanh nghiệp này thường là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc đối thủ cạnh
tranh tiềm năng.
Ví dụ: Tập Đồn Bưu Chính Viễn Thơng và Tập Đồn Viễn Thơng Qn
Đội là hai doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đối với thị trường cung cấp
dịch vụ điện thoại nội hạt18. Nếu hai doanh nghiệp này liên kết lại với nhau thì
được xem là TTKT theo chiều ngang.
Doanh nghiệp TTKT theo chiều ngang gia tăng quy mơ hoạt động của mình
thơng qua việc khống chế thị trường và tạo rào cản gia nhập thị trường của các
doanh nghiệp khác. Hậu quả là số lượng đối thủ cạnh tranh độc lập trên thị trường
giảm và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh gia tăng một cách đáng kể. Trong khi đó,
doanh nghiệp TTKT lại có sức mạnh về tài chính trên thị trường và doanh nghiệp
17
18

Trường Đại Học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội, trang 252.
Tham khảo Phụ lục doanh nghiệp viễn thơng, nhóm doanh nghiệp viễn thơng có vị trí thống lĩnh thị trường đối với
các dịch vụ viễn thơng quan trọng đính kèm Thơng Tư 18/2012/TT-BTTTT.


Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 18/73 -

đó lạm dụng quyền lực thị trường nhằm hạn chế cạnh tranh.
Hình thức TTKT này được coi là có khả năng gây quan ngại đến cạnh tranh
trên thị trường nhất do việc TTKT làm suy giảm số lượng đối thủ cạnh tranh độc
lập trên thị trường.
(b)

Tập trung kinh tế theo chiều dọc
Hình thức này là sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng một chuỗi sản

xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ.
Đặc điểm nổi bật của hình thức này là trước khi tham gia TTKT, doanh
nghiệp thực tế hoặc có tiềm năng có mối quan hệ trong chuỗi cung ứng hàng hóa/
dịch vụ.
Ví dụ: doanh nghiệp cung ứng thiết bị viễn thông và doanh nghiệp cung ứng
dịch vụ viễn thông liên kết lại với nhau; hoặc doanh nghiệp cung cấp cơ sở hạ tầng
mạng viễn thông liên kết với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ viễn thông.
Doanh nghiệp TTKT theo chiều dọc hòng chi phối các giao dịch với các
doanh nghiệp khác, đảm bảo nguồn cung ứng hoặc tiêu thụ hàng hóa dịch vụ ngăn
cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản gia nhập thị trường.
Từ đó sẽ hình thành các tập đồn dồi dào về tiềm lực tài chính. Các tập đoàn
này sẽ cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
TTKT theo chiều dọc sẽ dễ dàng gây ức ép đối với người cung ứng và người tiêu
thụ hơn. Đặc biệt là việc gây sức ép này dần dần dẫn đến tình trạng thu nhận, chi
phối doanh nghiệp bán lẻ ở đầu ra. Thông qua đó các hình thức này hạn chế các

doanh nghiệp mới gia nhập thị trường bởi nhu cầu tài chính và bí quyết kỹ thuật cao
hơn của họ.
Hình thức này không trực tiếp làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh nhưng
thường dễ dàng gây sức ép đối với người cung ứng và tiêu thụ hàng hóa/dịch vụ
thơng qua việc ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản
gia nhập thị trường. Vì vậy hình thức này cũng đáng lo ngại không kém cho cạnh
tranh.
(c)

Tập trung kinh tế hỗn hợp hay tập trung kinh tế theo đường chéo
(conglomerate)

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 19/73 -

Hình thức TTKT này là sự liên kết của các doanh nghiệp không cùng hoạt
động trên một thị trường sản phẩm.
Đặc điểm nổi bật của hình thức này là trước khi tham gia TTKT, doanh
nghiệp không phải là đối thủ cạnh tranh, cũng khơng có mối quan hệ mua bán thực
tế hoặc có tiềm năng.
Ví dụ như doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông liên kết với một
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản để cung cấp các dịch vụ viễn thông cho các
dự án bất động sản do doanh nghiệp kinh doanh bất động sản này tạo lập hoặc khai
thác.
Các chủ thể tham gia hình thức TTKT này nhằm phân bổ rủi ro vào những
thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị trường của những doanh
nghiệp này. Cụ thể là doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí khi có nhu cầu tín
dụng, bảo hiểm, quảng cáo hoặc có thể hạn chế rủi ro về chi phí và thị trường. Như

vậy, việc liên kết này trở thành lợi thế cho các doanh nghiệp tham gia mà các đối
thủ cạnh tranh nhỏ hơn khơng thể có được. Tuy nhiên, bản thân các lợi thế này
không tạo nên động lực cho sự phát triển của thị trường như việc tạo ra các sản
phẩm mới, kỹ thuật mới, nguồn cung ứng mới hoặc cách thức tổ chức mới, hay nói
cách khác nó khơng tạo nên sự đổi mới. Hiện tượng này làm vơ hiệu hóa nguyên lý
hiệu quả với tư cách là nguyên lý chọn lọc của nền kinh tế thị trường.
Hình thức này tạo nên những tập đoàn kinh doanh đa ngành nghề và đa sản
phẩm, từ đó có thể tạo ra hoặc tăng cường vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trên
một số thị trường.
Như vậy, mỗi hình thức TTKT đều có những tác động nhất định đến thị
trường cạnh tranh nhưng lại mang lại những lợi ích đáng kể cho các doanh nghiệp
tham gia TTKT. Do đó, một số quốc gia như Mỹ, Châu Âu đã kiểm sốt tất cả các
hình thức tập trung này. Trong khi đó, một số quốc gia khác chỉ kiểm sốt một trong
số các hình thức tập trung này, cịn Việt Nam hiện tại chỉ kiểm sốt đối với TTKT
theo chiều ngang, khơng kiểm sốt hai hình thức cịn lại.

Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 20/73 -

1.1.2. Tác động của tập trung kinh tế đối với thị trường viễn thơng19
Ở Việt Nam có nhiều quan điểm cho rằng TTKT đang có tác động tiêu cực
đáng kể đến thị trường dịch vụ viễn thông. Điều này được lập luận như sau:
Thứ nhất, TTKT làm thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
tham gia TTKT với doanh nghiệp khác thông qua việc làm giảm số lượng doanh
nghiệp cạnh tranh và sâu xa hơn là thay đổi cấu trúc thị trường.
TTKT làm giảm số lượng doanh nghiệp trong thị trường viễn thông. Trong
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ln tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất
nhằm tối ưu hóa lợi nhuận. Sự ganh đua này trở nên gay gắt hơn nếu số lượng

doanh nghiệp càng nhiều. Tuy nhiên, các hình thức liên kết lại với nhau của các
doanh nghiệp ngay lập tức làm giảm số lượng doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh
này. Hiện thị trường có tám doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thơng chính tại
Việt Nam là VNPT, Viettel, EVN Teclecom, SPT, Hanoi Telecom, Vishipel, VTC
và FPT; riêng với thị trường dịch vụ di động hiện có sáu doanh nghiệp nhưng trong
đó Mobifone, Vinaphone và Viettel Mobile, ba mạng GSM mỗi mạng chiếm trên
dưới 30%, còn lại là mạng CDMA. Nếu như các doanh nghiệp này liên kết lại với
nhau thì số lượng doanh nghiệp vốn dĩ khơng nhiều sẽ càng ít hơn.
Thứ hai, TTKT làm thay đổi cấu trúc thị trường. Thị trường viễn thông cũng
như thị trường của các lĩnh vực khác gồm sự cạnh tranh của năm yếu tố là các
doanh nghiệp viễn thông cung cấp cùng dịch vụ, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có
khả năng thay thế, nhà cung cấp, người tiêu dùng. Nếu các doanh nghiệp viễn thông
cung cấp cùng dịch vụ, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có khả năng thay thế, nhà
cung cấp có sự liên kết lại với nhau thì cấu trúc thị trường cạnh tranh thay đổi.
Về bản chất hai sự thay đổi trên không làm thay đổi năng lực cạnh tranh của
những doanh nghiệp không tham gia TTKT, nhưng sự thay đổi đột ngột này sẽ làm
thay đổi mối tương quan cạnh tranh (về sức mạnh vốn, thị trường, mạng lưới phân
phối, công nghệ, nhân lực…) giữa các doanh nghiệp tham gia TTKT so với các
doanh nghiệp khác. Như vậy, không những các doanh nghiệp không tham gia TTKT
bị thiệt hại mà thị trường cạnh tranh nói chung và người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại.

19

Trường Đại Học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb Cơng An Nhân Dân, Hà Nội, trang 256.

Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


- 21/73 -


Thứ ba, TTKT theo chiều dọc, chiều ngang và hỗn hợp còn mang lại sức
mạnh thị trường lớn hơn cho một đối thủ cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh
khác. Nó giúp đưa đối thủ cạnh tranh này đạt đến vị trí thống lĩnh thị trường và điều
này tiềm tàng nguy cơ lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để gây ra hành vi hạn
chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh, phương hại đến sự tồn tại của đối
thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Cụ thể là tạo sức mạnh về quy mô nhằm loại bỏ
đối thủ cạnh tranh đối với TTKT theo chiều ngang; tạo sự chi phối và điều tiết đối
với chuỗi cung ứng sản phẩm để dễ dàng gây sức ép cho người cung ứng và người
tiêu thụ nhằm ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào cản gia
nhập thị trường cho các doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập thị trường đối với TTKT
theo chiều dọc; và tạo được lợi thế nhất định khi các tập đoàn kinh doanh đa ngành
nghề tiết kiệm về chi phí và hạn chế rủi ro trong hình thức TTKT theo đường chéo.
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều khía cạnh cho thấy TTKT tuy có tác động
đến thị trường dịch vụ viễn thông, nhưng những tác động này là rất nhỏ so với
những gì mà TTKT đã mang lại cho thị trường viễn thơng nói riêng và nền kinh tế
nước ta nói chung. Điều này thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Một là, TTKT giúp làm gia tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp viễn
thông. Xuất phát từ đặc trưng của ngành viễn thông so với các ngành nghề khác,
đây là một ngành nghề kinh doanh đòi hỏi chủ đầu tư phải đáp ứng nhiều điều kiện
nhất định như tiềm lực về vốn, công nghệ và kỹ thuật chuyên dùng, gia nhập vào hệ
thống cơ sở hạ tầng mạng trên tất cả thị trường về mặt địa lý…. Mặc dù tất cả các
doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện này nhưng thực tế trên thị trường mỗi
doanh nghiệp có những thế mạnh riêng. Đơn cử như trường hợp của VNPT và
Viettel là hai nhà mạng độc quyền kênh truyền dẫn, VNPT và MobiFone độc quyền
cơ sở hạ tầng mạng truyền dẫn dữ liệu, doanh nghiệp nào dù có nguồn tài chính
mạnh nhưng nếu khơng được các doanh nghiệp này cho phép gia nhập cơ sở hạ
tầng này cũng khó có thể xâm nhập vào thị trường viễn thơng Việt Nam. Do đó việc
các doanh nghiệp trong lĩnh vực này liên kết lại với nhau có thể tận dụng được ưu
thế của nhau, mở rộng thị trường kinh doanh, giảm chi phí đầu tư, tăng năng suất
lao động và năng lực cạnh tranh. Đặc biệt đối với thị trường của những nước đang

phát triển như Việt Nam thì việc liên kết này sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong
ngành viễn thông phát triển nhanh, bền vững, khơng manh mún, nhỏ lẻ.
Pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế trong lĩnh vực viễn thông


×