Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.93 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1 Khái niệm
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan
trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung,
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là
hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng xuất phát từ gốc từ Lating : Gredittum
- tức là tin tưởng và tín nhiệm. Tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ Việt Nam là
quan hệ vay mượn gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ
thể nhất định như ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Theo
quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng thì cho vay được hiểu là một hình thức cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền vào mục
đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi. Việc xác định như thế này là rất cần thiết để định lượng tín dụng trong các hoạt
động kinh tế.
1.1.2 Phân loại cho vay của ngân hàng thương mại
Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng mà có những
cách phân loại tín dụng khác nhau.
_Phân loại theo thời gian
Tổ chức tín dụng xem xét quyết định cho khách hàng vay theo các thể loại
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống và các dự án đầu tư phát triển.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của
doanh nghiệp, thời hạn tối đa là 12 tháng và thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
dư nợ tín dụng của các ngân hàng. Các hình thức tín dụng ngắn hạn bao gồm :
chiết khấu và tín dụng ứng trước.
Cho vay trung hạn là loại cho vay mà ngân hàng cung cấp nhằm tài trợ cho
nhu cầu vốn thường xuyên của doanh nghiêp, đó là nhu cầu tài trợ cho tài sản cố


định và một phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Thời hạn của
khoản vay trung và dài hạn là trên 1 năm, từ 1 đến 5 năm là tín dụng trung hạn và
trên 5 năm là tín dụng dài hạn. Tín dụng trung dài hạn có các hình thức sau : Hình
thức cho vay theo dự án, tín dụng tuần hoàn và cho vay hợp vốn.
_ Phân loại theo hình thức: Nếu phân loại theo hình thức thì tín dụng ngân
hàng gồm có chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc khách hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn hoặc một giấy nợ. Về mặt pháp lý thì ngân
hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây là hình thức trao đổi
trái quyền. Tuy vậy, đối với ngân hàng thì việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một
khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động
tín dụng
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng và cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Tuy không phải xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã cho khách
hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc mà ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thoả thuận nhất định. Sau một khoảng thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
_ Phân loại theo tài sản đảm bảo : Tín dụng có thể được phân chia thành tín
dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, đảm bảo bằng thế chấp và cầm
cố tài sản.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có
uy tín, thường là khách hàng hoạt động có lãi, có tình hình tài chính vững mạnh, ít
xảy ra nợ nần. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn
hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám
sát việc bán hàng… cũng không cần phải có các tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng kí hợp

đồng bảo đảm. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm
bảo như quyền sở hữu của tài sản đảm bảo, giá trị, khả năng bán…
_Phân loại theo rủi ro: Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên
đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp
thời.
Tín dụng lành mạnh là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
việc tiêu thụ của khách hàng còn chậm, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…
_ Phân loại khác
Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp,…).
Theo đối tượng cho vay ( tài sản lưu động, tài sản cố định ).
Theo mục đích cho vay ( cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng,…).
Theo các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hay chuyên môn hoá
trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng các ngân hàng sẽ mở
rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi
thế.
1.1.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay của các ngân hàng thương mại nói chung có các bước sau
đây :
STT Các giai Nguồn và nơi Nghiệp vụ của Kết quả sau khi kết
đoạn của
quy trình
cung cấp thông
tin
ngân hàng ở
mỗi giai đoạn
thúc một giai đoạn
1 Lập hồ sơ
đề nghị

cấp vốn
Khách hàng đi
vay cung cấp
các thông tin
( báo cáo tài
chính, tình hình
sản xuất kinh
doanh…)
Ngân hàng tiếp
xúc, phổ biến và
hướng dẫn lập
hồ sơ khách
hàng
Hoàn thành bộ hồ
sơ để chuyển sang
bộ phận phân tích
( Bồ hồ sơ gồm có :
Giấy đề nghị vay
vốn; giấy phép
thành lập, giấy phép
kinh doanh do cơ
quan có đủ thẩm
quyền cấp; phương
án sản xuất kinh
doanh; các tài liệu
phải minh chứng
tính hợp pháp và giá
trị các tài sản đảm
bảo nợ vay )
2 Phân tích

tín dụng
- Hồ sơ đề nghị
vay từ giai đoạn
1 chuyển sang.
- Các thông tin
bổ sung từ
phỏng vấn trực
tiếp, hồ sơ lưu
trữ
Tổ chức thẩm
định về các mặt
tài chính và phi
tài chính do các
cá nhân hoặc bộ
phận thẩm định
thực hiện
Báo cáo kết quả tín
dụng để chuyển
sang bộ phận có
thẩm quyền và
quyết định cho vay
3 Quyết
định cho
vay của
ngân hàng
đối với
doanh
nghiệp
- Các số liệu
thông tin từ giai

đoạn 2 chuyển
sang và báo cáo
kết quả thẩm
định
- Các thông tin
bổ sung
Quyết định cho
vay hoặc từ chối
của cá nhân
hoặc bộ phận
được giao
quyền phán
quyết
- Quyết đinh cho
vay hoặc từ chối
- Tiến hành các thủ
tục pháp lý như hợp
đồng tín nhiệm và
các hợp đồng khác.
4 Tiến trình
giải ngân
- Quyết định
cho vay và các
hợp đồng liên
Thẩm định các
chứng từ theo
các điều kiện
Chuyển tiền vào tài
khoản tiền gửi của
khách hàng hoặc trả

quan
- Các chứng từ
làm cơ sở giải
ngân
của hợp đồng
tín dụng
cho đơn vị cung cấp
5 Giám sát,
thu nợ và
xử lý nợ
quá hạn
- Các thông tin
từ nội bộ ngân
hàng
- Các báo cáo
tài chính theo
định kỳ
- Các thông tin
khác
- Phân tích hoạt
động tài khoản
các báo cáo tài
chính, kiểm tra
cơ sở của khách
hàng
- Thu nợ
- Tái xét và xếp
hạng
- Xử lý nợ quá
hạn

Báo cáo kết quả
giám sát và đưa ra
các giải pháp xử lý
Lập các thủ tục để
xử lý các khoản nợ
quá hạn
1.1.4 Các nguyên tắc cho vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lợi cho ngân hàng. Các
nguyên tắc này được ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại quy định
cụ thể:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn ( gốc ) và lãi với thời gian xác định:
Khi ngân hàng nhận các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng
vay mượn thì điều đó có nghĩa là ngân hàng phải có trách nhiệm trả cả gốc và lãi
cho các khoản vay đó như đã cam kết. Vì vậy mà ngân hàng cũng phải yêu cầu
người nhận tín dụng cũng phải thực hiện đúng cam kết này đối với ngân hàng để
đảm bảo sự tồn tại và phát triển. Trên thực tế có một số khoản tài trợ mà ngân hàng
không thu lãi như tín dụng ưu đãi. Tuy nhiên điều đó chỉ phản ánh chính sách ưu
đãi của ngân hàng đối với khách hàng riêng biệt chứ không phản ánh bản chất của
hoạt động tín dụng.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định của ngân
hàng cấp trên. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân
hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó phù hợp với
cương lĩnh của ngân hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án ) có hiệu quả. Thực hiện
được nguyên tắc ngày là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.Người vay có
phương án hoạt động tốt thì ngân hàng sẽ có khả năng thu hồi vốn và lãi. Chính vì
vậy mà khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét phương án kinh doanh của doanh
nghiệp vay vốn đó.

1.2 THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm
Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại là rà soát, kiểm tra lại, đánh giá một cách khách quan, khoa học và
toàn diện mọi khía cạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trên giác độ của ngân
hàng nhằm đưa ra quyết định cho vay đối với doanh nghiệp, đảm bảo an toàn và
sinh lời cho ngân hàng. Doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan
trọng đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh
tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai.
Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng xem xét có cho vay hay không?
Mức cho vay là bao nhiêu?
Thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại là rất quan trọng, nó là nội dung không thể thiếu trong công tác thẩm
định khách hàng. Vậy công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp của
ngân hàng bao gồm những nội dung gì?
1.2.2 Nội dung thẩm định tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường và trở thành thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới – WTO thì vấn đề minh bạch hoá tình
hình tài chính trong các quan hệ kinh tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính nói
riêng trở thành một vấn đề bức xúc và có tầm quan trọng đặc biệt. Một báo cáo tài
chính sẽ trở nên vô nghĩa đối với ngân hàng khi nó được làm đẹp, các thông tin
trên báo cáo là không trung thực dẫn đến phản ánh không chính xác tình hình tài
chính thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trước khi tiến hành thẩm định tình hình tài
chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của
các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố quyết định đến chất
lượng thẩm định.
Các cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra và có các đánh giá sơ bộ về tình hình

tài chính doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp vay vốn
gửi lên. Trước khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần thẩm định mức độ tin
cậy của các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ,
hợp pháp của các báo cáo tài chính, ví dụ như các báo cáo tài chính gửi cho ngân
hàng có giá trị hợp lý hay không, các số liệu trong các báo cáo tài chính có đảm
bảo phù hợp không hay có mâu thuẫn với nhau không, chế độ kế toán và phương
pháp kế toán mà doanh nghiệp áp dụng có tuân thủ đúng quy định của pháp luật
hay không.
Sau khi đã hoàn tất công việc kiểm tra sơ bộ, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành
kiểm tra một cách cụ thể hơn các báo cáo tài chính. Bằng những kinh nghiệm làm
việc, sự hiểu biết về tình hình kinh tế xã hội và sự nhạy cảm của mình, cán bộ tín
dụng xem các báo cáo tài chính đó có gì mâu thuẫn và có gì bất thường không. Vì
giữa các báo cáo tài chính có mâu thuẫn, hỗ trợ và bổ sung cho nhau nên cán bộ
cần tiến hành so sánh đối chiếu các báo cáo đó với nhau. Nếu thấy có bất cứ chi
tiết nào khả nghi thì cán bộ tín dụng tiếp tục yêu cầu doanh nghiệp gửi các chứng
từ trong mua bán, hoạt động kinh doanh của mình…xem có khớp với các thông tin
trong báo cáo hay không.
Trên đây mới chỉ là quá trình kiểm tra về mặt sổ sách của các báo cáo tài
chính, cán bộ tín dụng cần phải liên hệ thực tế hoạt động của doanh nghiệp đang
diễn ra. Để xác minh xem các thông tin trên báo cáo có chính xác và đáng tin cậy
hay không, cán bộ tín dụng cần phải trực tiếp xuống cơ sở sản xuất để quan sát,
tiếp xúc với các lãnh đạo doanh nghiệp, với các công nhân trong nhà máy và thu
thập thêm thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh và cơ
quan thuế…Bên cạnh đó, các cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải kiểm tra xem số
liệu đã được kiểm toán độc lập chưa và có phải do một công ty kiểm toán có uy tín
thực hiện không…Các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập thường có tính
trung thực và độ chính xác cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tín dụng
trong quá trình thẩm định.
Như vậy, thông qua việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của các báo cáo tài
chính và các thông tin thu thập được khi kiểm tra khảo sát thực tế, cán bộ tín dụng

có thể đánh giá được mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, trong
thực tế không phải cái gì cũng hoàn hảo, việc kiểm tra này không phải lúc nào
cũng thuận lợi và thu được kết quả chính xác. Các cán bộ tín dụng cũng không phải
là các chuyên gia trong việc đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính. Vì
vậy, ngân hàng phải yêu cầu các doanh nghiệp vay vốn phải cam kết với ngân hàng
các báo cáo tài chính mà họ cung cấp cho ngân hàng là đúng sự thật và doanh
nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các báo cáo tài chính đó. Sau
khi xác minh, đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ
tiến hành thẩm định nội dung trong các báo cáo tài chính đó.
1.2.2.2 Thẩm định các báo cáo tài chính
Mỗi khoản mục trên báo cáo tài chính đều có cách tiếp cận phân tích, đặt câu
hỏi đánh giá khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu chung là làm rõ số liệu của
các khoản mục này và sự biến động của nó. Việc thẩm định sự biến đổi của các
khoản mục sẽ giúp ngân hàng xác định được các vấn đề đang phát sinh tại doanh
nghiệp để có cơ sở đưa ra các dự báo triển vọng về tình hình tài chính tương lai.
A, Thẩm định các khoản mục trong bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính ở một thời điểm nhất định. Nó
phản ánh tài sản và nguồn vốn của một doanh nghiệp ở một thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán cho người sử dụng biết những tài sản doanh nghiệp sở hữu và
cách thức tài trợ chúng. Nhìn vào bảng cân đối kế toán, cán bộ tín dụng có thể
nhận biết được các loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của
doanh nghiệp.
Thẩm định bảng cân đối kế toán là việc cán bộ tín dụng sẽ đánh giá khái quát
các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn và sự biến động của chúng, đồng thời xem
mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn. Tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ
liên tục biến động cả về quy mô và cơ cấu trong quá trình hoạt động. Khi doanh
nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh thì tổng tài sản của doanh nghiệp
cũng tăng làm cho doanh thu lợi nhuận cũng tăng theo. Còn khi mà tổng tài sản
tăng mà doanh thu và lợi nhuận không tăng chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản kém
và cán bộ tín dụng phải tìm nguyên nhân và xu hướng thay đổi.

Bên cạnh việc so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong tổng tài
sản và xu hướng biến động về tỷ trọng, cán bộ tín dụng cần phải tìm hiểu xem sự
biến động giữa đầu kỳ và cuối kỳ của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản. Cán
bộ tín dụng sẽ căn cứ vào tình hình phân bổ tài sản, tính chất kinh doanh và tình
hình biến động của từng bộ phận tài sản để đánh giá tính hợp lý của cơ cấu tài sản
và xu hướng biến động của tài sản. Khi phân tích đến các khoản mục nguồn vốn,
thì cán bộ tín dụng quan tâm đến việc doanh nghiệp dùng nguồn nào để tài trợ
cho các loại tài sản, việc phân bổ nguồn vốn có hợp lý hay không và mức độ tự
chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp như thế nào.
Toàn bộ công tác trên là cái nhìn tổng quan khi thẩm định bảng cân đối kế
toán. Sau khi đã có cái nhìn tổng quan rồi, các cán bộ tín dụng sẽ thẩm định chi tiết
từng khoản mục trong bảng cân đối kế toán.
A.1 Thẩm định chi tiết các khoản mục tài sản
Tài sản của doanh nghiệp nằm ở bên trái của bảng cân đối kế toán, bao gồm
giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đến khi lập báo cáo thuộc
quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Đứng trên góc độ của ngân hàng,
trong thẩm định tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá các khoản
mục chủ yếu sau:
- Tiền mặt: Dường như tiền mặt luôn là một cái gì đó mà ai cũng thích sở
hữu, doanh nghiệp cũng vậy, nhưng việc doanh nghiệp có quá nhiều tiền mặt liệu
có phải là một điều tốt ? Vị thế tiền mặt của doanh nghiệp thì sao, quá nhiều nợ
chắc chắn là một điều không tốt, liệu điều đó có đúng với tiền mặt ? Tiền mặt của
doanh nghiệp bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền mặt trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp tại ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu,
trả nợ, mua tài sản cố định…Tiền mặt là tài sản không sinh lãi nhưng nó giúp
doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán trong
các trường hợp cần thiết. Các lý thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng, mỗi doanh
nghiệp nên có một mức tiền mặt thích hợp cho doanh nghiệp của mình, một lượng
đủ để thanh toán lãi vay, các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm
một ít nữa để doanh nghiệp kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Nhà đầu tư

không phải là người bên trong doanh nghiệp nên thông thường nếu nhìn thấy
khoản mục tiền mặt trên bảng cân đối kế toán nhiều bao giờ cũng yên tâm hơn so
với các doanh nghiệp có lượng tiền mặt ít hơn. Nhất là khi qua các quý, hoặc qua
các năm, lượng tiền mặt tăng lên đều đặn và ổn định, nó là một tín hiệu cho thấy
doanh nghiệp đang hoạt động rất tốt, đang phát triển rất mạnh. Tiền mặt tích lũy
quá nhanh đến mức các nhà quản trị không kịp có thời gian để lên kế hoạch sử
dụng chúng sao cho có hiệu quả nhất. Nói như thế không có nghĩa là bao giờ có
nhiều tiền mặt hơn mức lý thuyết đưa ra cũng tốt. Một mức tiền mặt cao thể hiện
trong bảng cân đối kế toán có thể khiến cho nhà đầu tư đặt câu hỏi, nhất là khi
lượng tiền mặt đột nhiên cao hơn mức bình thường. Tại sao các nhà quản trị lại để
tiền mặt ở đó mà không đem đi sử dụng? Nhà đầu tư có quyền nghi ngờ vì doanh
nghiệp đã mất các cơ hội đầu tư hoặc là ban quản trị doanh nghiệp quá yếu kém
nên đã không thể biết làm gì với lượng tiền mặt đó. Việc để tiền mặt trong doanh
nghiệp quá nhiều luôn có chi phí cơ hội. Tuy nhiên xét cho đến cùng thì các khoản
vay ngân hàng sẽ được trả bằng tiền mặt, vì vậy, cán bộ tín dụng cần đánh giá được
nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp.
- Các khoản phải thu: Là một loại tài sản của doanh nghiệp tính dựa trên tất
cả các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc bất cứ nghĩa vụ tiền tệ nào mà
các con nợ hay khách hàng chưa thanh toán cho công ty. Phải thu được kế toán của
công ty ghi lại và phản ánh trên bảng cân đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ
công ty chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán. Các khoản
phải thu là nguồn chủ yếu để doanh nghiệp chi trả các khoản vay đến hạn nên nó
phải được xem xét một cách cẩn thận. Khi thẩm định khoản mục các khoản phải
thu này, cán bộ tín dụng cần đưa ra được những nhận xét về khả năng thu hồi được
các khoản phải thu của doanh nghiệp, loại trừ các khoản bán chịu không thu được
hoặc khó thu hoặc đã bán cho người khác. Cán bộ tín dụng cần phải tính toán xác
định vòng quay các khoản phải thu. Khi đánh giá các khoản phải thu cán bộ tín
dụng cần phải xem xét mối quan hệ của nó với các khoản phải trả và các khoản nợ
khác của doanh nghiệp.
- Chứng khoán có giá: Là tài sản tài chính của doanh nghiệp, các tài sản này

tăng nguồn thu cho doanh nghiệp và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
- Dự trữ: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị thực các loại hàng tồn kho dự
trữ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Một phần hàng hoá trong
kho được hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Vì vậy mà các cán bộ tín dụng cần
xem xét tình hình biến động của hàng tồn kho ( số lượng tăng, giảm hay không
thay đổi ), sau đó cán bộ tín dụng kiểm tra đến chất lượng hàng tồn kho ( dễ bán
hay khó bán ).
- Tài sản cố định : Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh và có giá trị lớn. Đối với các khoản vay ngắn hạn thì ngân hàng thường
không quan tâm nhiều đến tài sản cố định, họ không quan tâm đến việc bán tài sản
cố định như một nguồn dùng để trả nợ. Còn đối với các khoản nợ dài hạn thì ngân
hàng đặc biệt quan tâm đến tài sản cố định. Có hai lý do chính khiến ngân hàng
quan tâm đến khoản mục này. Thứ nhất, tài sản cố định được dùng như tài sản thế
chấp tại ngân hàng. Doanh nghiệp muốn vay vốn tại ngân hàng thì cần phải có tài
sản đảm bảo cho khoản vay đó. Và cán bộ tín dụng tiến hành đánh giá giá trị hiện
tại của chúng theo sổ sách và tiến hành so sánh với giá trị thị trường, giá trị thực tế
để có thể đánh giá được chính xác giá trị của nó. Một lý do nữa mà các cán bộ tín
dụng cần đặc biệt quan tâm đó là trích khấu hao hàng năm của các tài sản cố định.
Khoản trích khấu hao này có thể được dùng để trả các khoản mà doanh nghiệp vay
để tài trợ cho các tài sản cố định đó
Tài sản và nguồn vốn là hai phần không thể tách rời nhau trong bảng cân đối
kế toán. Việc thẩm định các khoản mục tài sản không thể tách rời thẩm định các
khoản mục nguồn vốn bởi vì nguồn vốn là nguồn hình thành nên tài sản của doanh
nghiệp. Sau khi đã thẩm định các khoản mục bên tài sản thì cán bộ tín dụng thẩm
định các khoản mục bên nguồn vốn.
A.2 Thẩm định các khoản mục bên nguồn vốn
Bên nguồn vốn thì có hai khoản mục chính : Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu
- Nợ phải trả: là một khoản mục trong bảng cân đối kế toán, nó phản ánh
toàn bộ số nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả tại thời điểm lập báo cáo.
Nợ phải trả là nguồn vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng của đối tác. Nhìn vào bảng

×