Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Kiểm soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.43 MB, 82 trang )


B ộ T ư PHÁP

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGƠ THỊ BÍCH PHƯƠNG

KIỂM SỐT CÁC GIAO DỊCH CÓ NGUY
C ơ PHÁT SINH T ư LỢI THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2005

NGƯỜI HƯỚNG DÂN: TS. ĐỒNG NGỌC BA

THƯ VIỆN
t r ư ờ n g đ a i h ọ c luật ha n ộ i
phong

^

HÀ NỘI - 2007


MUC LUC
Nội dung

Trang

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ V Á N ĐỀ LÝ LUẬ N VỀ KIÉM SỐT

1



LỜI NĨI ĐẦU

GIAO DỊCH CĨ N G U Y c ơ PHÁT SINH T ư LỢI TRONG
CỒNG TY BẰNG PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong

1

cơng ty
1.2. Nội dung kiểm soát bằng pháp luật đối với các giao dịch có

10

nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP

19

NĂM 2005 VỀ KIỂM SỐT CÁC GIAO DỊCH CĨ N G U Y
C ơ PHÁT SINH TƯ LỢI TRONG CÔNG TY
2.1. Căn cứ pháp lý xác định giao dịch có nguy cơ phát sinh tư

19

lợi trong cơng ty
2.2. nội dung kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi

23


trong cơng ty
2.3. Đánh giá các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về

47

kiểm sốt giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM N Â N G CAO HIỆU

60

QUẢ KIỂM SOÁT CÁC GIAO DỊCH CÓ N G U Y c ơ PHÁT
SINH TƯ LỢI TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP N Ă M 2005
3.1. Hồn thiện các quy định về kiểm sốt giao dịch có nguy cơ

60

phát sinh tư lợi trong cơng ty
3.2. Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm sốt các
giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty
KÉT LUẬN

66


DANH MUC NHỮNG CHỮ VIÉT TẤT

(1990)

: Năm 1990


(1995)

: Năm 1995

(1999)

: Năm 1999

(2005)

: Năm 2005

BKS

: Ban Kiểm soát

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

GĐ/TGĐ

: Giám đốc hoặc Tổng giám đốc

HĐQT

: Hội đồng quản trị

HĐTV


: Hội đồng thành viên

KSV

: Kiểm soát viên

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của viềc nghiên cứu đề tài
Trong xã hội, khi nền sản xuất hàng hoá phát triển thì nhu cầu về vốn

và phân tán rủi ro là động cơ thúc đẩy các nhà kinh doanh liên kết nhau lại
dưới một hãng chung để tiến hành hoạt động kinh doanh, tạo thế đứng vững
chắc trên thị trường. Mơ hình liên kết này tỏ ra phù họp với nền kinh tế thị
trường và hấp dẫn cho những nhà kinh doanh. Công ty ra đời là kết quả của
việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội.
Công ty vốn là một mơ hình kinh tế cơng bằng và bình đẳng cho những
người tham gia. Khi góp vốn vào cơng ty, các thành viên đã tự nguyện cam
kết vào một khế ước chung (Hợp đồng thành lập hoặc Điều lệ công ty) là
cùng hưởng lợi và cùng chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp của mình trong cơng ty.
Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào người ta cũng thực hiện theo đúng
những gì đã cam kết, để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh công ty
không thể tự mình ra các quyết định, tự mình tiến hành các giao dịch mà phải
tiến hành thông qua người đại diện (người được trao quyền). Nhưng do không

phải là chủ sở hữu đích thực hoặc là chủ sở hữu chung nên người trực tiếp
tiến hành các giao dịch này nhiều khi khơng có lợi ích kinh tế cụ thể từ giao
dịch mà mình tiến hành, hoặc được hưởng một phần nhỏ so với điều kiện họ
có thể tìm kiếm những cơ hội, thông đồng với đối tác để mang lại lợi ích
riêng.
Hình thức tiêu cực này càng dễ xuất hiện khi tiến hành những giao dịch
có sự xung đột về lợi ích, như giao dịch giữa cơng ty với người quản lý, điều
hành và những người có liên quan khác mà họ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp
dùng ảnh hưởng hoặc địa vị của mình chi phối các giao dịch nhân danh công
ty để tư lợi.


Một khi những giao dịch tư lợi này xảy ra sẽ gây ảnh hưởng nghiêm
:rọng đến sự tồn tại của cơng ty, đến những thành viên khác góp vốn nhỏ hơn
( thường chiếm đa số) trong cơng ty, cịn kéo theo sự thiệt hại quyền lợi của
các chủ nợ của công ty và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh. Vì vậy
kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi là cần thiết nhằm bảo vệ
quyền bình đẳng về lợi ích cho tất cả những người góp vốn vào công ty, đảm
bảo quyền lợi cho các chủ nợ là mối quan tâm chung của Nhà nước, của xã
hội.
Pháp luật nước ta không cấm giao dịch giữa công ty và thành viên, cổ
đơng và những người có liên quan khác nhưng nó phải được kiểm sốt chặt
chẽ. Luật Doanh nghiệp (1999) lần đầu tiên xác lập cơ chế kiểm sốt các giao
dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi. Kế thừa các quy định đó, Luật Doanh nghiệp
(2005) đã hoàn thiện thêm cơ chế giám sát các giao dịch có nguy cơ phát sinh
tư lợi, tuy nhiên vẫn có một số hạn chế nhất định trong quy trình lập pháp.
Bên cạnh đó là việc thực hiện quy định của pháp luật trên thực tế chưa triệt
để, trong nhiều trường hợp phát sinh giao dịch tư lợi gây thiện hại không nhỏ
cho công ty, cho Nhà nước và xã hội. Hàng loạt các vụ án xâm phạm tài sản
của Nhà nước, của các nhà đầu tư xảy ra gần đây đều chứa đựng yếu tố tư lợi

này. Có thể kể đến vụ án PMU 18 với sự tha hóa và thoán đoạt quyền lực của
Tổng giám đốc Bùi Tiến Dũng, bằng vị thế của mình vị Tổng giám đốc này
đã tiếp ứng cho các công ty “sân sau” tham gia các gói cơng trình lớn, nhỏ
của Bộ Giao thơng vận tải. Với các dự án lớn, ngoài các nhà thầu chính, các
nhà thầu phụ đều do Dũng chỉ định. Dũng cịn u cầu các nhà thầu chính
phải tiếp nhận các cơng ty “sân sau” của mình. Hơn nữa, các cơng ty này cịn
được nhận số tiền thi cơng cơng trình gần gấp đơi so với các cơng ty của Bộ
Giao thông vận tải. Ở mức độ cao hơn đã xuất hiện việc lập các công ty đa
quốc gia để thực hiện các chuyển dịch lợi ích, như trong vụ Petro VN (VSP),


Giám đốc PTSC là Trần Văn Quang đã liên kết với doanh nghiệp nước ngoài
để khai thác thị trường dầu khí Việt Nam. Quang lập ba cơng ty là Talika,
Laverton và InterPet ở nước ngoài để cung cấp thiết bị dầu khí cho VSP. Các
cơng ty này đều là các công ty ảo phục vụ việc mua bán thầu. Hàng năm, các
công ty này đã cung cấp vật tư thiết bị cho VSP với trị giá 200.000 đến
2.000.000

USD ... Từ vấn đề đáng quan tâm này tôi đã lựa chọn: “Kiểm sốt

các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005” làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình.

2.

Tình hình nghiền cứu đề tài
Dưới góc độ nghiên cứu về hành vi trục lợi, chuyển dịch bất hợp pháp

lợi ích giữa các chủ thể trong kinh doanh, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã


có những phân tích làm rõ các dạng thức giao kết trục lợi và những biểu hiện
của nó. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về giao kết trục lợi được đặt ra khá
muộn, việc nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam được quan tâm nhiều hơn vào

các năm 2004, 2005, khi mà Luật Doanh nghiệp mới thay thế Luật Doanh
nghiệp (1999) đang được soạn thảo và lấy ý kiến. Và gần đây, khi tình trạng
trục lợi xảy ra khá trầm trọng với mức độ tinh vi, nguy hiểm đã có nhiều bài
viết về vấn đề này, trong đó phải kể đến bài nghiên cứu bảo vệ Luận văn Thạc
sĩ của tác giả Vũ Thị Thanh Tâm: Một số vấn đề pháp lý về giao dịch trục lợi.
Hầu hết các bài viết, cơng trình nghiên cứu này chỉ đề cập đến các hình thức
giao kết trục lợi trong nền kinh tế thị trường m ột cách chung nhất, v ề vấn đề

giao dịch tư lợi trong cơng ty có bài viết của ThS. Lê Đình Vinh trên tạp chí
Luật học số 1/2004 với tựa đề: “Kiểm sốt các giao dịch tư lợi trong cơng ty
theo Luật Doanh nghiệp”, tuy nhiên bài viết này nghiên cứu khi Luật Doanh
nghiệp (1999) đang còn hiệu lực. Từ khi Luật Doanh nghiệp (2005) ra đời
chưa có thêm bài viết hay cơng trình nghiên cứu nào về giao dịch tư lợi trong
công ty.


3.

Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ của pháp luật Kinh tế vấn đề kiểm

sốt giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi theo Luật Doanh nghiệp (2005).
Phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp (2005) về kiểm sốt giao dịch

có nguy cơ phát sinh tư lợi, những ưu và khuyết điểm trong quy định hiện
hành và đề ra các biện pháp pháp lý nhằm hoàn thiện các quy định này.


4.

Phươns pháp nshiên cứu đề tài
Phương pháp luận khoa học được sử dụng trong cả quá trình nghiên

cứu luận văn là biện chứng duy vật, thể hiện qua việc đảm bảo tính khách
quan, chính xác, hiện thực của những vấn đề được nêu ra. Bên cạnh đó, để
hồn thiện thêm bài nghiên cứu, luận văn cịn sử dụng các phương pháp phân

tích và tổng hợp, phương pháp so sánh.

5.

Mục đích của viêc nghiên cứu đề tài
V iệc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ:

- Khái niệm và bản chất của giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi
- Những quy định của Luật Doanh nghiệp (2005) về kiểm sốt giao
dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi

- Một số bất cập, hạn chế trong quy định của Luật Doanh nghiệp (2005)
về vấn đề này, và

- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sốt giao dịch
có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty.

6.

Nhữns kết quả nghiên cứu mới của luận văn

- Đưa ra một cách nhìn tổng quát về giao dịch có nguy cơ phát sinh tư

lợi trong công ty.


- Phân tích, đánh giá một cách đầy đủ về các quy định của Luật Doanh
nghiệp (2005) về kiểm soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi. Chỉ ra
những mặt còn hạn chế trong các quy định của Luật Doanh nghiệp (2005) đối
với mục tiêu phòng chống các giao dịch tư lợi.
- Đề xuất giải pháp pháp lý phù họp để thực hiện tốt hơn mục tiêu này.
Với phương pháp nghiên cứu khách quan, toàn diện đây là cơng trình
nghiên cứu ở cấp học Thạc sĩ đầu tiên đề cập tương đối tồn diện, có hệ thống
về vấn đề kiểm sốt giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty.
7.

Cơ cấu của luân văn
Luận văn gồm Lời nói đầu và ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm soát giao dịch có nguy cơ

phát sinh tư lợi trong cơng ty bằng pháp luật.
Chương 2: Nội dung của Luật Doanh nghiệp năm 2005 về kiểm sốt
các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty
Chương 3: Một so giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát các
giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty theo Luật Doanh nghiệp
năm 2005.


1

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VẺ KIỂM SOÁT GIAO DỊCH CĨ NGUY






C ơ PHÁT SINH T ư L Ợ I TRONG CÔNG TY BẰNG PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI QUÁT VỀ GIAO DỊCH CÓ NGUY cơ PHÁT SINH Tư LỢI
TRONG CƠNG TY

1.1.1. Bản chất của giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty
Cơng ty được hình thành thông qua việc bỏ vốn đầu tư của chủ sở hữu
hoặc góp vốn của các thành viên để cùng nhau tiến hành hoạt động kinh
doanh chung, và khi đó các thành viên trở thành chủ sở hữu của công ty tương

ứng với phần vốn góp của mình.
Đe tồn tại và phát triển, công ty phải tham gia các giao dịch với các chủ
thể khác nhau trong xã hội, đó có thể là các giao dịch trong lĩnh vực kinh tế,

cũng có thể là các giao dịch trong lĩnh vực dân sự, lao động ... Nhưng vì
Cơng ty được hình thành là một pháp nhân (là một hư cấu pháp lý, hay là
người được pháp luật tạo ra, chứ không phải con người thực sinh ra một cách
tự nhiên), nó không thể tự thiết lập các giao dịch mà phải thiết lập thông qua
người đại diện - những người được trao quyền quản lý, điều hành hoạt động

của công ty. Thông thường, cá nhân được trao quyền quản lý, điều hành chính
là chủ sở hữu hoặc được lựa chọn ra trong số những chủ sở hữu chung của
công ty, nhưng nhiều khi chủ sở hữu công ty chỉ đơn thuần góp vốn đầu tư,

kinh doanh mà chưa có kinh nghiệm cũng như trình độ và năng lực quản lý
nên họ phải thuê người khác đảm nhiệm vị trí này. Dù người quản lý có phải
là chủ sở hữu của cơng ty, hay chỉ là người được thuê thì khi họ đảm nhiệm vị

trí này cũng đồng nghĩa với việc họ được trao các quyền năng tương ứng. Họ
là người đại diện của công ty khi tham gia các giao dịch làm phát sinh, thay


2

đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của công ty với những chủ thể khác.
Trong khi các giao dịch đều có điểm chung nhất tạo thành bản chất của
giao dịch, đó là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham
gia giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong, ý chí đó
được thể hiện ra bên ngồi dưới một hình thức nhất định. Có nghĩa là, trong
giao dịch của cơng ty, ý chí về cơ bản phải là ý chí của cơng ty, nhưng người
đứng ra bày tỏ ý chí lại là người đại diện, người được ủy quyền. Mặc dù họ
tham gia giao dịch với tư cách là người đại diện cho cơng ty, nhưng khó có
thể tách bạch một cách tuyệt đối cá nhân đó với tư cách là một chủ thể độc lập
trong xã hội hay với tư cách là người đại diện cho cơng ty. Do đó, khơng
tránh khỏi việc “cái tơi cá nhân” của họ có thể chi phối đến các quyết định
nhân danh cơng ty. Nếu cá nhân đó trung thành với lợi ích của cơng ty, hay
quyền và lợi ích của họ tỷ lệ thuận với lợi ích của cơng ty, hoặc được củng cố
thông qua việc thực hiện giao dịch thì giao dịch mới phản ánh chính xác ý chí
của cơng ty, đó là giao dịch theo đúng nghĩa. Trường hợp ngược lại, khi
người đại diện khơng có chung lợi ích với cơng ty hoặc lợi ích của họ tỷ lệ
nghịch vói lợi ích của cơng ty thì giao dịch đó rất dễ bị biến đổi về mặt bản
chất: Người đại diện khơng thể hiện đúng ý chí của cơng ty mà sẽ dùng quyền
năng của mình làm méo mó đi giao dịch đích thực, biến ý chí của mình thành
ý chí của cơng ty để tìm kiếm lợi nhuận cho bản thân, gây thiệt hại cho cơng

ty. Đó là những giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty.
Lợi ích về kinh tế vừa là mục đích vừa là động lực thúc đẩy các chủ thể
trong hoạt động kinh doanh. Lợi ích khơng phải là một cái gì trìu tượng và có
tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan của con người.
Con người có nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hố, ...) và do đó, có
nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hố, tinh thần,
...). Khi người trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh không phải là chủ thể


3

thực sự của lợi ích kinh tế, thì rất dễ xảy ra mâu thuẫn, chia rẽ về lợi ích và
hình thành việc tìm kiếm những lợi ích riêng.
Hãy tưởng tượng, tổng lợi ích mà các bên nhận được khi tham gia giao
dịch là một chiếc bánh (chiếc bánh lợi ích). Một giao dịch đích thực là giao
dịch mà trong đó các bên đã chia nhau chiếc bánh một cách công bằng, mỗi
người được một phần hai chiếc bánh. Mà ai là người trực tiếp chia chiếc bánh
này? Chính là người đại diện của các bên. v ề phía cơng ty khi tham gia giao
dịch với các chủ thể khác, một cách lý tưởng công ty sẽ được một phần hai
chiếc bánh lợi ích. Nhưng điều này khó đạt được nếu người đại diện cắt bánh
cho công ty lại được một phần rất nhỏ trong phần bánh mà công ty được
hưởng, trong khi phần bánh mà họ được hưởng hoặc có thể được hưởng ở nửa
còn lại lại lớn hơn rất nhiều. Và chỉ cần một động tác rất khéo léo “người cắt
bánh” đã có thể dành phần hơn về phía mình và sẵn sàng gây thiệt hại cho
cơng ty mà mình đại diện.
Dạng tiêu cực này càng dễ xảy ra khi tiến hành các giao dịch có sự
xung đột về lợi ích, một người vừa có quyền lợi ở bên này vừa có liên quan
với bên kia, như giao dịch giữa công ty và người quản lý công ty hoặc với
cơng ty mà người này có phần vốn góp hay cổ phần chi phối, hay giao dịch
giữa công ty mẹ với công ty con ... Khi tham gia vào những giao dịch như

thế, những người trực tiếp quyết định hoặc có ảnh hưởng đến việc ra quyết
định đều có thể trực tiếp hay gián tiếp thu lợi cá nhân bằng cách san sẻ bớt lợi
ích của cơng ty mà mình đang đại diện cho công ty hay chủ thể khác mà mình
có mối quan hệ hay lợi ích liên quan.
Sự san sẻ lợi ích của cơng ty để thu lợi cá nhân có thể thực hiện thơng
qua nhiều phương cách như gửi giá vào hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư
cho công ty với mức giá cao hơn thị trường, hoặc bán hàng của công ty với


4

mức giá thấp hơn giá thị trường ... Giao dịch tư lợi cũng có thể xảy ra trên tất
cả các lĩnh vực như dân sự, lao động, kinh tế, . . .đơn giản như việc Giám đốc

công ty ký kết hợp đồng lao động với người thân của mình (cha, mẹ, vợ, con,

anh, chị, em ruột, ...) với mức lương cao hơn hẳn mức lương mà người khác
có thể nhận được ở một vị trí và cơng việc tương đương, với trình độ tương
đương cũng là một dạng giao dịch tư lợi.
Tsíhư vậy, giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty là những
giao dịch có nhiều khả năng sẽ gây thiệt hại về tài sản cho cơng ty do người
đại diện của cơng ty có thể dùng vị thế của mình để tiến hành giao dịch thu lợi
cho cá nhân bằng cách san sẻ lợi ích của công ty. Đây là các giao dịch chứa
đựng khả năng "xung đột" về quyền lợi mà trong khoa học pháp lý thường gọi

là "giao dịch tư lợi". Ở những giao dịch này, quyền lợi của công ty, của cổ
đông và của chủ nợ của cơng ty có nguy cơ bị xâm hại do các chủ thể thiết lập

giao dịch với công ty là "người liên quan" của công ty. Những người liên
quan này hoặc trực tiếp có quyền quyết định thiết lập giao dịch hoặc có ảnh

hưởng trực tiếp đến việc quyết định đó, nên họ có khả năng trục lợi từ việc
thực hiện các giao dịch đã thiết lập nếu khơng có sự kiểm sốt cần thiết.
Bản chất của các "giao dịch tư lợi" là sự có thể lạm dụng quyền lực
được trao của những người đại diện cho công ty trong các giao dịch để tư lợi
cho bản thân, là sự kết hợp giữa quyền quản lý kinh doanh với quan hệ thị
trường. Quan hệ thị trường mở ra cho các chủ thể trong nền kinh tế những cơ

hội giao kết rộng mở, người được uỷ quyền trong phạm vi quyền lực của
mình được phép thực hiện những giao dịch nhất định. Nếu quyền được trao
không đúng mức hoặc khơng có cơ chế kiểm sốt chặt chẽ sẽ là nguyên nhân
dẫn đến hành vi lạm quyền, chuyên quyền để tư lợi cá nhân của những người
được trao quyền. Sẽ khơng bao giờ có giao dịch tư lợi nếu một người tự thực
hiện giao dịch cho chính mình, đã có sự trao quyền trong quản lý, kinh doanh


5

ắt tồn tại nguy cơ tư lợi. Giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi vì thế là một
thực tế khách quan trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế là
pháp nhân và là một hiện tượng tất yếu phát sinh trong nền kinh tế thị trường
tự do rộng mở như hiện nay.

1.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực của giao dịch tư lợi trong công ty
Như trên đã phân tích, những giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi
trong công ty là những giao dịch có nhiều khả năng sẽ gây thiệt hại về tài sản
cho cơng ty, và qua đó chính người đại diện cho cơng ty và/hoặc những người
có liên quan của họ thu được lợi ích riêng từ việc rút ruột cơng ty. Vậy khi
nguy cơ này xảy ra, tức là giao dịch đã trở thành giao dịch tư lợi thì sẽ ảnh
hưởng như thế nào đến công ty, đến những người tham gia góp vốn vào cơng
ty và nền kinh tế- xã hội nói chung. Có thể thấy những nguy cơ sau đây:


1.1.2.1. Nguy cơ xăm phạm đến lợi ích của công ty
Giao dịch tư lợi là việc chuyển dịch ngầm lợi ích của cơng ty cho các
cá nhân. Do vậy, công ty là đối tượng bị ảnh hưởng trực diện và sự xâm phạm
đến lợi ích cơng ty thể hiện rõ nhất bản chất tiêu cực của các giao dịch loại
này. Giao dịch tư lợi xâm phạm đến lợi ích của công ty trên nhiều mặt, cả vật
chất cũng như phi vật chất.

Thứ nhất, nó gây thiệt hại về tài sản cho cơng ty và do đó nó làm hạn
chế, thậm chí triệt tiêu nguồn vốn dùng để tái đầu tư của công ty, ngăn cản sự
phát triển của công ty. Thông qua giao dịch tư lợi, những người tham gia giao

dịch đã chia nhau hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Nhiều hợp đồng
mua bạn của công ty có mức giá hợp đồng chênh lệch với giá thực gấp hàng
chục lần. Nó làm cho nhiều cơng ty càng kinh doanh càng thua lỗ, càng hoạt
động càng bị thiệt hại.

Thứ hai, do tài sản của công ty bị thất thốt, uy tín của cơng ty cũng vì


6

thế mà giảm sút. Nếu nhìn vào thực trạng quản lý lỏng lẻo, kinh doanh yếu
kém như vậy của công ty cũng khiến nhiều nhà đầu tư không muốn bỏ vốn
đầu tư. Hơn thế nữa, nếu thực hiện giao dịch tư lợi được một lần thì khi có cơ
hội sẽ tái diễn và xu hướng là tìm đến chính đối tác ấy để thực hiện những
“phi vụ làm ăn”, đây cũng chính là một nguyên nhân làm thu hẹp các kênh
đầu tư của công ty, và công ty bị cô lập trong sự thoán đoạt quyền lực của
những người được uỷ quyền đại diện.
Công ty tuy là một thực thể nhân tạo nhưng nó cũng cần “thức ăn” và

“khơng khí” để sống, thức ăn của cơng ty chính là vốn của cơng ty và khơng
khí chính là mơi trường và điều kiện kinh doanh lành mạnh. Nhưng nếu giao
dịch tư lợi xảy ra thì cả hai nguồn cung cấp sự sống của công ty đều bị cạn
kiệt và mất dần, cơng ty vì thế sẽ chết dần.

1.1.2.2. Nguy cơ xâm phạm đến những người góp vốn vào cơng ty
Chủ sở hữu, hoặc các chủ sở hữu chung của công ty khi góp vốn để
thành lập cơng ty đều với mục đích là thơng qua hoạt động kinh doanh của
cơng ty họ sẽ sử dụng một cách hiệu quả nhất sổ vốn của mình. Họ sở hữu
cơng ty tương ứng với phần vốn góp của mình trong cơng ty, và được phân
chia lợi nhuận cũng như chịu nghĩa vụ về tài sản tương ứng với phần vốn đó.
Thế nhưng, nếu xảy ra giao dịch tư lợi, tài sản của công ty bị chảy dần vào túi
của một hoặc một nhóm thành viên hoặc cổ đơng có vốn góp chi phối, thậm
chí chảy vào túi của người khơng góp vốn vào cơng ty thì những người góp
vốn khác trong cơng ty (thường chiếm đa số) bị chia sẻ về mặt lợi ích, họ góp
vốn đầu tư mà để người khác chiếm hưởng. Do vậy, về hình thức thì cơng ty
bị xâm phạm quyền sở hữu nhưng thực chất chính những thành viên trong
công ty mới là người bị xâm phạm quyền sở hữu đối với tài sản của công ty
tương ứng với phần vốn góp của mình.


7

1.1.2.3. Nguy cơ tác động xấu về mặt kinh íế - xã hội
Tình trạng giao kết trục lợi xẩy ra phổ biến trong hoạt động của các
doanh nghiệp sẽ đe doạ m ôi trường kinh doanh lành mạnh, tác động đến sự

phát triển bền vững của nền kinh tế. Xét tình trạng các DNN N của ta hiện này
đang là nơi có mơi trường và điều kiện thuận lợi nhất để cho các giao dịch tư
lợi xảy ra mới thấy được sự ảnh hưởng nghiêm trọng của các giao dịch tư lợi

đến nền kinh tế của đất nước. DNN N được coi là xương sống của nền kinh tế,
lập ra doanh nghiệp để làm giàu cho đất nước nhưng nhiều doanh nghiệp lại
làm cho ngân sách khánh kiệt.
V iệc ngân hàng cho vay bừa bãi do hậu quả của các giao dịch tư lợi
không những làm Nhà nước mất tiền, mà sau khi cho vay bằng các giao dịch
tư lợi dẫn đến các doanh nghiệp mất khả năng chi trả thì cả ngân hàng và
doanh nghiệp để cứu vãn tình thế sẽ tiếp tục vi phạm, với việc tạo ra giao dịch

giả tạo, vay hợp đồng sau để trả cho hợp đồng trước, ... tiếp tục làm thâm hụt
thêm nguồn vốn nhà nước.
Giao dịch tư lợi dẫn đến một hệ quả nghiêm trọng, đó là tình trạng lẽ ra
phải chăm lo tìm kiếm lợi nhuận cho doanh nghiệp thì nhiều Giám đốc lại tìm
cách rút ruột doanh nghiệp để tìm kiếm lợi nhuận cho bản thân. Khi nhà đầu
tư gặp rủi ro cao, nhất là những nhà đầu tư nước ngồi là những người có khả
năng phân tích thị trường và môi trường đầu tư họ sẽ ngần ngại khi đầu tư vào
Việt Nam. Do đó, thị trường đầu tư có nguy cơ khơng phát triển, trong nước
khơng khuyến khích được sáng tạo, không động viên, phát huy được nội lực,
khơng thực hiện được cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Rõ ràng là giao dịch tư lợi không những làm thất thoát tài sản của
doanh nghiệp, tài sản Nhà nước mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển
của nền kinh tế, đe doạ môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong điều kiện


8

đó, sản xt sẽ đình trệ, kinh tê sẽ khơng thê phát triên, trí tụê sẽ khơng được
phát huy.
Tiêu cực kinh tế gây tổn thất tài chính lớn cho ngân sách quốc gia, làm
hạn chế nguồn kinh phí để thực hiện các chương trình nhân đạo xã hội, gây
thiệt hại cho những người nghèo khổ, vì họ là những người phải chịu hậu quả

nặng nề nhất của một nền kinh tế đình trệ.
Giao dịch tư lợi làm cho một lớp người giàu lên một cách dễ dàng và
nhanh chóng mà không phải nhờ khả năng thực sự, chỉ nhờ vào các mối quan
hệ để làm ăn phi pháp và bao che được cho sự phi pháp đó. Kiểu kinh doanh
phi pháp đó khơng những khơng động viên được sự sáng tạo, tài năng được sử
dụng khơng đúng chỗ mà cịn làm sai lệch cả cách nhìn nhận, đánh giá năng
lực nhà kinh doanh. Giao dịch tư lợi đi ngược lại với quy luật thị trường và
giá cả vì khuyến khích sự cạnh tranh trong hối lộ và những giao dịch ngầm,
chứ không phải trong chất lượng và giá cả của hàng hoá, dịch vụ, trong sự
năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của nhà kinh doanh. Điều đó tác động
xấu đến văn hoá kinh doanh và dẫn đến tồn tại một nền kinh tế phi thị trường.
Một nền kinh tế thị trường chỉ phát triển lành mạnh khi có các doanh nghiệp
lành mạnh, phát triển.
Tóm lại, giao dịch tư lợi với bản chất là một dạng thức tiêu cực kinh tế
đã xâm phạm khơng chỉ lợi ích của cơng ty, lợi ích của những người góp vốn,
đầu tư vào cơng ty mà cịn tác động rất xấu đến nền kinh tế và xã hội. Việt
Nam đã và đang trên con đường hội nhập với thế giới, nên rất cần cải thiện
nền kinh tế thị trường kém phát triển hiện nay, và đẩy lùi các dạng thức tiêu
cực kinh tế để gây dựng uy tín và thương hiệu trong nền kinh tế quốc tế.


9

1.1.3. u cầu kiểm sốt bằng pháp luật đối vói các giao dịch có nguy cơ
phát sinh tư lọi trong công ty

Lịch sử chỉ ra rằng quyền lực nếu không được kiểm soát sẽ là nguyên
nhân dẫn đến lạm quyền. Giao dịch tư lợi có điều kiện phát sinh từ nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu và trước hết là do vấn đề trao quyền trong kinh
doanh và khả năng lạm dụng quyền lực được giao, v ấn đề tư lợi nảy sinh

trong hoạt động của các doanh nghiệp khi quyền quản lý kinh doanh và quyền
sở hữu tách rời và các điều kiện về tự do giao kết trong quan hệ thị trường
rộng mở.
Nếu một người tự đứng ra thực hiện lợi ích cho chính mình thì sẽ
khơng bao giờ có thể nảy sinh các giao dịch tư lợi. Chính vì vậy, giao dịch tư
lợi chủ yếu được diễn ra ở khu vực DNNN và các công ty cổ phần, nơi mà
chủ sở hữu khơng thể tự mình đứng ra thực hiện hay giám sát mọi hoạt động
và sự uỷ thác là điều khơng thể tránh.
Giao dịch tư lợi hình thành từ cả hai nguyên nhân khách quan và chủ
quan, v ề nguyên nhân khách quan trước hết là sự tác động của các quan hệ

gắn với vấn đề sở hữu, quan hệ kinh tế, quan hệ thị trường ... Nguyên nhân
chủ quan là ý chí của người được trao quyền, là động cơ vụ lợi cá nhân.
Với nguồn gốc như vậy, cần phải khẳng định giao dịch có nguy cơ phát
sinh tư lợi tồn tại khách quan ở mọi nền kinh tế. Như trên đã phân tích về
những ảnh hưởng tiêu cực của các giao dịch tư lợi, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để hạn chế, ngăn ngừa tình trạng giao dịch này, làm cho nó ít có điều kiện
xảy ra, khó có cơ hội thực hiện.
Tự do kinh doanh là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp hoạt động
và cạnh tranh trên thương trường. Nhưng nếu thiếu những quy định rạch rịi
của pháp luật thì rất dễ có sự lẫn lộn giữa quyền tự do kinh doanh của doanh


10

nghiệp với quyền tự do của Giám đốc, biến tự chủ của pháp nhân thành tự chủ
của cá nhân. Người được trao quyền ln có xu thế muốn tự gia tăng quyền
lực cho mình. Nếu khơng xác lập được cơ chế điều chỉnh quyền lực hữu hiệu
sẽ dẫn đến sự tuỳ tiện, lạm dụng, tạo nên sự vượt quyền và được dùng để xâm
phạm quyền và lợi ích của chủ sở hữu, của đơn vị và của người lao động. Một

khi quyền lực không được xác định đầy đủ, không thiết lập được hệ thống
giám sát bằng quy phạm pháp luật thích ứng, nó ln có thể vượt q giới hạn
để sử dụng vào mục đích vụ lợi cá nhân.
Do đó, Nhà nước, bằng pháp luật, khơng chỉ tạo ra khung pháp lý cho
sự tồn tại của các công ty mà còn cần đảm bảo cho sự phát triển của các loại
hình cơng ty trước nguy cơ bị thất thốt tài sản, mất uy tín và bảo vệ mơi
trường kinh doanh lành mạnh bằng cơ chế kiểm soát các giao dịch có nguy cơ
phát sinh tư lợi trong cơng ty.
1.2. NỘI DƯNG KIÊM SOÁT BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC GIAO
DỊCH CÓ NGUY c ơ PHÁT SINH TƯ LỢI TRONG CƠNG TY
1.2.1. Pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lọi
trong cơng ty

Những quy phạm pháp luật về xác định các giao dịch có nguy cơ gây
thiệt hại về tài sản cho công ty và những quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế
những giao dịch đó tạo thành hệ thống pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có
nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty.
Trong hệ thống pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát
sinh tư lợi trong cơng ty thì luật về cơng ty giữ vai trị chủ đạo. Vì chỉ có pháp
luật chun ngành mới đưa ra được những quy định cụ thể về điều chỉnh hành
vi của chính những chủ thể trong các giao dịch đó. Ớ nước ta, luật về doanh
nghiệp quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại


11

hình doanh nghiệp, do đó đê kiêm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư
lợi trong cơng ty (doanh nghiệp) thì luật này chính là căn cứ để thực thi việc
kiểm soát trên thực tế. Pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát
sinh tư lợi trong công ty trước hết và chủ yếu nhàm đáp ứng những mục tiêu

cơ bản sau:
- Bảo vệ quyền về tài sản của cơng ty, qua đó bảo vệ quyền về tài sản
của các nhà đầu tư vào công ty, của các chủ nợ và bảo vệ lợi ích của người lao
động.
- Bảo đảm môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng.
Việc kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty
bằng pháp luật là hết sức cần thiết, tuy nhiên tìm ra cách thức kiểm sốt vừa
hợp lý, vừa hiệu quả lại khơng làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp, động viên các nguồn lực trong xã hội lại không phải là vấn đề đơn
giản. Kinh nghiệm cho thấy vấn đề kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát
sinh tư lợi trong cơng ty ln là bài tốn khó đối với các nhà quản lí cũng như
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
—5> Qua thực tiễn pháp luật của các nước cho thấy có các phương thức để

kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty như sau:
Thứ nhất, pháp luật cấm những người quản lý cơng ty và những người
có liên quan của họ thiết lập giao dịch với công ty và cấm công ty giao dịch
với các công ty khác mà ở đó người quản lý cơng ty, thành viên hoặc cổ đơng
có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp.
Giải pháp này xem ra có thể loại trừ hồn tồn khả năng phát sinh các
hành vi trục lợi, nhưng nó cũng có nhược điểm là hạn chế quyền tài sản của
thành viên hay cổ đông là người quản lý công ty. Cơng ty một mặt được đảm
bảo an tồn về tài sản, nhưng mặt khác lại mất đi một sự lựa chọn nhiều khi


12

rất phù hợp với mục tiêu và điều kiện kinh doanh của cơng ty. Do đó sự cấm
đốn này xem ra lại trở thành rào cản, hạn chế quyền tự do kinh doanh của
công ty. Trên thực tế, không phải lúc nào các giao dịch giữa công ty và người

quản lý hay những người liên quan của họ đều có mục đích tư lợi. Hơn nữa,
cấm đốn chưa hẳn là giải pháp tốt, khi càng cấm đốn thì hành vi trục lợi
càng diễn ra một cách tinh vi và Nhà nước càng khó kiểm sốt, khi đó hậu
quả sẽ cịn tệ hại hơn.
Thứ hai, pháp luật cho phép các chủ thể tiến hành các giao dịch đó nếu
hợp đồng thành lập hoặc Điều lệ công ty không cấm, tuy nhiên nó phải được
giám sát một cách chặt chẽ.
Giải pháp này vừa loại trừ được yếu tố trục lợi vừa không ngăn cản
những giao dịch giữa công ty với người quản lý và những người có liên quan
của họ khi những giao dịch này đem lại lợi ích cho cơng ty.
Theo đó thì pháp luật về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh
tư lợi trong cơng ty xây dựng những quy phạm tương ứng để xác định những
đối tượng bị giám sát, cơ chế giám sát các đối tượng đó và kiểm sốt giao
dịch giữa các đối tượng đó với cơng ty.
1.2.2. Pháp luật của một số nước về kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ
phát sinh tư lọi trong công ty

Giao dịch tư lợi với bản chất là một dạng thức tiêu cực kinh tế thường
được pháp luật kinh tế làm rõ dưới hai góc độ: giao dịch tư lợi trong các
DNNN, giao dịch nhằm phục vụ lợi ích cơng mà khách thể bị xâm phạm là tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước; và giao dịch tư lợi trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà khách thể bị xâm phạm là tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia góp vốn. Đối với các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, hình thức giao dịch tư lợi ở dạng thứ


13

hai diễn ra nhiều hơn, còn với các nước mới chuyển sang nền kinh tế thị
trường thì hình thức giao dịch tư lợi ở dạng thứ nhất phổ biến hơn.

Với hai cách để tiếp cận và xử lý các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư
lợi trong cơng ty như trên đã nêu: một là cấm thiết lập các giao dịch đó, hai là
cho phép thiết lập nhưng phải bị kiểm soát, kinh nghiệm cho thấy phần đa các
nước thường dùng phương án thứ hai, tuy nhiên cũng có sự đan xen giữa hai
phương án, tuỳ từng trường hợp mà người ta lựa chọn những cách giải quyết
sao cho hiệu quả nhất.
Ví dụ, theo Luật cơng ty của Pháp, một số khế ước giữa công ty và
người quản lý hay các hội viên của công ty liên quan đến vay mượn, ký
khống, bảo lãnh ... đều bị nghiêm cấm, trừ khi người quản lý hay hội viên
này có tư cách pháp nhân. Pháp luật của Pháp cũng yêu cầu các quan chức
cao cấp, các nghị sỹ, chuyên viên quản lý của các DNNN (Chủ tịch HĐQT,
thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, Giám đốc) khi mới nhậm chức và khi hết
nhiệm kỳ, phải công khai cho công chúng và khai báo với các đơn vị hữu
quan tình trạng tài sản của mình.
Hay ở Niu Zi Lân được xếp là nước mà nhà đầu tư được bảo vệ nhiều
nhất trước các hành vi thông đồng, xếp thứ hai là Singapore. Họ đã quy định
rõ việc công bố thông tin về các giao dịch và sự xung đột lợi ích. Ở những
nước này, Giám đốc cơng ty phải có trách nhiệm với các cổ đông và không
được thực hiện những giao dịch có điều khoản khơng cơng bằng, c ổ đơng có
quyền kiện Giám đốc công ty nếu họ không được cung cấp tất cả các tài liệu
phù họp. Tây Ban Nha quy định Giám đốc phải đặt lợi ích của cơng ty lên
trên bất kỳ lợi ích cá nhân nào có thể có được từ hoạt động của cơng ty. Họ
cịn yêu cầu các công ty niêm yết phải báo cáo về bất kỳ giao dịch nào và việc
chấp hành các hướng dẫn mới về quản trị công ty.


14

Luật công ty của Thuỵ Điển quy định: Hội đồng giám đốc và các đại
diện khác của công ty không được phép tiến hành các giao dịch pháp lý hoặc

các biện pháp khác có thể tạo ra lợi thế khơng chính đáng cho một cổ đơng
hoặc cổ đơng khác. Ở một số nước khác như Đức cho phép các giao dịch với
Giám đốc, nhưng không cho phép giao dịch với một tổ chức khác cũng do
người Giám đốc quản lý.
Chính phủ Trung Quốc thì lại xây dựng cơ chế ngăn ngừa nạn tham
nhũng trong giao dịch thương mại như cấm các cán bộ lãnh đạo Đảng, chính
quyền các cấp: khơng cho phép lập xí nghiệp, bn bán kinh doanh; khơng
cho phép tạo điều kiện ưu đãi để phục vụ vợ, chồng, con cái, bạn thân trong
kinh doanh buôn bán; không cho phép kiêm chức (kể cả chức vụ danh dự)
trong các thực thể kinh tế. Cá biệt nếu được phép kiêm chức không được nhận
bất kỳ thù lao nào... Những giải pháp đó đã giúp hạn chế được nhiều tình
trạng giao dịch tư lợi, tham nhũng kinh tế ở nước này.
Quy chế về cơng chức của Malaysia khắc phục tình trạng giao dịch tư
lợi bằng việc quy định khá cụ thể việc công chức không được đem nghĩa vụ
chung phục vụ lợi ích riêng, coi nghĩa vụ chung thấp hơn lợi ích cá nhân;
khơng được xử sự làm cho lợi ích cá nhân xung đột với nghĩa vụ chung ...
Nhìn chung, pháp luật các nước trên thế giới đều đã đưa ra các quy
định để ngăn ngừa các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty
nhằm bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể trong giao dịch kinh
doanh.
1.2.3. Lược sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về kiểm
soát các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong công ty ở Việt Nam

Nước ta mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường. Trước đây, chúng ta chỉ có các DNNN, các hợp


15

đồng kinh tế được ký kết lúc đó mang tính chỉ tiêu pháp lệnh. Tính tự do

trong giao dịch kinh doanh rất hạn chế nên các hình thức giao dịch tư lợi cũng
ít có điều kiện xuất hiện. Các quy định của pháp luật thời kỳ này cũng vì thế
mà gần như chưa phải đề cập trực tiếp đến vấn đề giao dịch tư lợi.
Mặc dù giao dịch tư lợi có thể xuất hiện ở mọi nền kinh tế trong xã hội
có giai cấp, nhưng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường nó càng có điều
kiện thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển. Bởi vì, kinh tế thị trường là hướng
tới lợi nhuận, và có xu hướng tuyệt đối hoá lợi nhuận, coi cạnh tranh là động
lực của sự phát triển, gắn liền với sự tác động mạnh mẽ của quy luật về lợi
ích. Do đó, từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các giao dịch tư lợi
trở thành một vấn đề nhức nhối của nền kinh tế non kém của nước ta. Cũng vì
thế pháp luật kinh tế nước ta đang dần hồn thiện các quy chế để kiểm sốt
các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong cơng ty. Nhìn lại lịch sử pháp

kiểm sốt các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi như sau:

1.2.4.L Những quy định của pháp luật về kiểm soát các giao dịch có
nguy cơ phát sinh tư lợi trong Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật
công ty (1990)
Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật Công ty (1990) là công cụ
pháp lý quan trọng để mở ra nhiều loại hình, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh
hoạt động trên thương trường. Tuy nhiên, vì các văn bản này ra đời trong thời
kỳ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp nên các văn bản này gần như chưa có sự
quan tâm đến việc ngăn ngừa các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi. Có thể
nói các quy định về phịng, chống giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi trong
cơng ty gần như vắng bóng trong các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
kinh tế trong thời kỳ này.


16


1.2.4.2.

Những quy định của pháp luật về kiểm soát các giao dịch có

nguy cơ phát sinh tư lợi trong Luật Doanh nghiệp Nhà nước
Đe tổ chức quản lý hoạt động của các DNNN, năm 1995 Luật Doanh
nghiệp Nhà nước được ban hành. Theo đó, DNNN được chia thành hai loại là
DNNN hoạt động cơng ích và DNNN hoạt động kinh doanh. Cơ chế quản lý
hoạt động DNNN trong luật này được quy định khá rộng rãi và vẫn cịn mang
tính kế hoạch, tính bao cấp, như: quy định doanh nghiệp được hưởng các chế
độ trợ cấp, trợ giá hoặc các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước khi thực hiện
các nhiệm vụ sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước; được hưởng các chế độ
ưu đãi đầu tư hoặc tái đầu tư; được cấp kinh phí theo dự tốn hàng năm hoặc
theo đơn đặt hàng ... v ề cơ chế quản lý, GĐ/TGĐ DNNN do Thủ tướng
Chính phủ hoặc người được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền, quyết định bổ

nhiệm, miễn nhiệm, theo đề nghị của HĐQT, là đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, có quyền điều hành cao nhất trong doanh nghiệp. Cơ chế này
đã trao quá nhiều quyền hạn cho Giám đốc, làm giảm vai trò của HĐQT, tạo
cho GĐ/TGĐ dễ dàng thực hiện các giao dịch tư lợi. Chính vì vậy, quy định
này sau đó đã được sửa đổi, bổ sung. Theo đó, chức danh GĐ/TGĐ trong
DNNN có thể được thuê, kể cả thuê người nước ngồi.
Đối với việc tránh xung đột lợi ích, Luật doanh nghiệp Nhà nước
(1995) đã quy định Chủ tịch HĐQT, GĐ/TGĐ không được thành lập hoặc giữ
các chức danh quản lý, điều hành các doanh nghiệp khác mà không được sự
cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Khơng được có các quan hệ hợp đồng
kinh tế với các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần do vợ
hoặc chồng, bố, mẹ, con giữ các chức danh quản lý điều hành. Vợ hoặc
chồng, bổ, mẹ, con, anh, chị, em ruột của người giữ các chức danh trên,
không được giữ chức danh kế toán trưởng, thủ quỹ tại cùng doanh nghiệp và

doanh nghiệp thành viên (nếu có).

'


×