Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ THU HẰNG

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
GIA CÔNG MAY MẶC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Học Viện Khoa
học xã hội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CƠNG MAY MẶC .................................................................. 7
1.1. Hợp đồng gia cơng may mặc ..................................................................................... 7
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc. ............................... 15
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................... 33
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ............................................................................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may
mặc ở Việt Nam hiện nay................................................................................................ 34
2.2. Thực tiễn về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay ......................... 46

2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................... 60
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TRONG THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG GIA
CÔNG MAY MẶC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................. 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia
công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................................................... 62
3.2. Các giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 67
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gia công may mặc ở Việt Nam hiện nay ............................................... 69
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................... 73
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 76


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng Dân sự

LTM

Luật Thương Mại


HĐGC

Hợp đồng gia công

HĐGCMM

Hợp đồng gia công may mặc

BTTH

Bồi thường thiệt hại
United Nations Convention on Contracts for the

CISG

International Sale of Goods ( Vienna Convention 1980)
Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực gia công ở nước ta không ngừng tăng lên. Các doanh nghiệp này hoạt
động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực chính như dệt may, da giày, điện
tử, đồ gỗ…, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố như Hà Nam, Hưng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh, … ở phía Bắc và Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh,
Long An, TP.HCM… ở phía Nam.
Thực tế cho thấy rằng, các doanh nghiệp gia cơng đóng vai trị quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là ở lĩnh vực gia công hàng may
mặc, đã giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Nhằm đề
cao vai trò của các doanh nghiệp gia công đối với nền kinh tế, trong bối cảnh
của việc tiến hành cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho hoạt động
của giới doanh nghiệp, trong đó có lĩnh vực gia cơng may mặc, chính phủ
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
HĐGC nói chung là cơng cụ để phản ánh ý chí, u cầu của bên đặt gia cơng
và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai bên.
Mối quan hệ kiểu này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội và thuật ngữ
“gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Vì thế, khái niệm “gia
cơng” trong quan hệ dân sự có thể được hiểu thơng qua khái niệm gia cơng
trong hoạt động thương mại khi xác định các yếu tố đặc trưng và bản chất của
hoạt động này.
Gia công may mặc là hành vi thương mại, theo đó bên nhận gia cơng thực
hiện việc gia cơng hàng hố theo u cầu, bằng nguyên liệu, vật liệu của bên đặt
gia công để hưởng tiền gia công; bên đặt gia công nhận hàng hố đã gia cơng để
kinh doanh thương mại và phải trả tiền gia công cho bên nhận gia công.

1


BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp pháp lý quan trọng có vai trị bù
đắp cho bên bị thiệt hại (bên có quyền) những tổn thất là hậu quả của hành vi
vi phạm HĐGC. Trong các hệ thống pháp luật, về nguyên tắc BTTH là biện
pháp khắc phục những thiệt hại xảy ra để đưa bên bị thiệt hại vào vị trí mà
đáng lẽ bên này sẽ có được nếu HĐGC được hồn thành đúng trình tự. Tuy
vậy, các hệ thống pháp luật khác nhau cũng có những điểm khác biệt trong
biện pháp này như: thiệt hại được bồi thường, căn cứ áp dụng biện pháp
BTTH, cách thức xác định mức BTTH, các trường hợp được miễn trách

nhiệm BTTH, …
Việc BTTH do vi phạm HĐGCMM vốn không phải là vấn đề pháp lý
mới trong các hệ thống pháp luật hiện đại, tuy nhiên nó lại chưa có được sự
chú trọng cần thiết và cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ví dụ như
những thiệt hại nào có thể được bồi thường? Các căn cứ nào để áp dụng biện
pháp BTTH? Trong trường hợp nào bên vi phạm HĐGC được miễn trách
nhiệm BTTH? Đây chỉ là một vài trong vô số vấn đề vẫn chưa thực sự được
giải quyết triệt để trong pháp luật HĐGC tại Việt Nam. Trên thực tế, BTTH
do vi phạm HĐGCMM diễn ra nhiều và có các tình huống phức tạp. Số lượng
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực gia công may mặc ngày càng nhiều,
đòi hỏi sự cần thiết để nghiên cứu về đề tài liên quan đến lĩnh vực này. Bên
cạnh đó, nhằm trình bày rõ hơn các thiếu sót và đề xuất một số ý kiến của cá
nhân về BTTH trong vi phạm HĐGCMM, tác giả đã chọn chủ đề “BTTH do
vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
BTTH do vi phạm hợp đồng đã được một số học giả nghiên cứu. Ở khía
cạnh BTTH do vi phạm hợp đồng thì ở Việt Nam đã có một số cơng trình
nghiên cứu như: Nguyễn Thị Hồng Anh (2019), BTTH do vi phạm hợp đồng
dịch vụ vận tải bằng đường không theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận

2


văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội [1]; Hoàng Thị Thu Thủy
(2017), Chế tài phạt vi phạm và BTTH trong hợp đồng mua bán hàng hóa
theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội [13]; Trần Đăng Thành (2017), Trách nhiệm BTTH do vi
phạm hợp đồng viễn thông ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội [12]; Bùi Thị Thanh Hằng (2018), BTTH do vi phạm hợp

đồng, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội [7].
Trong các cơng trình nghiên cứu nêu trên, có cơng trình đã đề cập khái
qt về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại, một số cơng trình nghiên
cứu sâu về BTTH trong một số lĩnh vực việc làm cụ thể, nhưng chưa có cơng
trình nào nghiên cứu sâu về BTTH do vi phạm HĐGCMM. Đây là luận văn
thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu về BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Học viện
khoa học xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là thơng qua việc nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn về việc BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật
Việt Nam hiện nay để làm rõ và làm phong phú thêm cơ sở lý luận, thực tiễn
và pháp lý của vấn đề BTTH do vi phạm HĐGC. Từ đó, luận văn đưa ra một
số kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, thiếu sót
trong pháp luật hiện hành, hồn thiện cơ chế pháp lý để điều chỉnh BTTH do
vi phạm HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay theo xu hướng hiện
đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng
Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM
theo pháp luật Việt Nam hiện nay: làm rõ khái niệm và đặc điểm của

3


HĐGCMM, BTTH do vi phạm HĐGCMM; làm rõ những vấn đề lý
luận về các căn cứ để áp dụng biện pháp BTTH do vi phạm HĐGC,
các trường hợp miễn trách nhiệm BTTH, xác định mức BTTH, v.v...
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định và chi tiết

cụ thể của Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015), Luật Thương mại 2005
(LTM 2005) và một số luật liên quan về biện pháp BTTH do vi phạm
HĐGCMM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là BLDS năm 2015, BLDS năm
2005 và các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp BTTH do vi phạm hợp
đồng như LTM 2005, Luật Đầu tư năm 2016 (LĐT 2016).
Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định trong các văn bản pháp lý trên đây, luận văn tập
trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, dựa trên các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm hợp
đồng nói chung, luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận về HĐGCMM, BTTH
do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, dựa trên việc so sánh các quy định về BTTH do vi phạm hợp
đồng của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và một số văn
bản pháp luật có liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ những
thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005.
Thứ ba, dựa trên so sánh cơ sở lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, luận văn sẽ đưa ra những ý kiến đánh giá và những kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
Trong thực tế, BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay là một vấn đề chưa thống nhất, có mối liên hệ biện chứng với nhiều

4


vấn đề pháp lý quan trọng khác của luật hợp đồng, các biện pháp pháp lý để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó, luận văn khơng đặt vấn đề

giải quyết mọi vấn đề liên quan tới BTTH do vi phạm HĐGC nói chung và
HĐGCMM nói riêng mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu thực trạng và
các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong thực hiện BTTH do vi
phạm HĐGCMM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là kim chỉ
nam định hướng cho các phương pháp nghiên cứu cụ thể của học viên trong
quá trình thực hiện luận văn này.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, học viên sẽ sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ hơn những vấn đề lý
luận và quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do vi phạm
HĐGCMM trong pháp luật Việt Nam hiện nay;
- Phương pháp tổng hợp nhằm trình bày và khái quát hóa thực trạng
pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay nhằm đưa ra những kiến nghị chỉnh sửa và bổ sung phù hợp;
Trên cơ sở áp dụng các phương pháp nghiên cứu kể trên, tác giả đưa ra
những đánh giá về cơ chế BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam
hiện nay, rút ra các nhận xét và đề xuất các kiến nghị nhằm đưa pháp luật hợp
đồng kinh doanh Việt Nam nói chung và quy chế BTTH do vi phạm HĐGCMM
theo pháp luật Việt Nam hiện nay nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

5


Về phương diện lý luận, thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận về

BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay, luận văn
góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện những vấn đề cịn chưa hồn chỉnh
về hợp đồng nói chung trong khoa học pháp lý Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về BTTH do vi phạm HĐGCMM được đề xuất
trong luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi
pháp luật, trọng tài kinh tế trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
BTTH do vi phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời,
luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các cá nhân và doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình giải quyết tranh chấp biện pháp BTTH do vi
phạm HĐGCMM theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài luận văn,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về BTTH do vi phạm HĐGCMM
Chương 2. Thực trạng pháp luật về BTTH do vi phạm HĐGC và thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong
thực hiện BTTH do vi phạm HĐGCMM ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI
PHẠM HỢP ĐỒNG GIA CÔNG MAY MẶC
1.1. Hợp đồng gia công may mặc
Hoạt động gia công mang lại hiệu quả kinh tế không cao song đem lại
hiệu quả về mặt xã hội, đó là giải quyết việc làm cho người lao động, góp

phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người dân. Bên cạnh đó, hoạt
động gia cơng cịn có vai trị rất lớn đối với các doanh nghiệp trong việc học
hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất tiên tiến của các nước phát triển, tăng
cường khả năng quản lý doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả hơn [17].
Những nước có nguồn lực về tài chính và trình độ khoa học cơng nghệ cao
thường dễ dàng thu hút đầu tư cho việc phát triển các ngành sản xuất cơng nghệ
cao, trong khi đó các nước đang phát triển với nguồn lao động dồi dào và rẻ có
lợi thế trong việc thu hút đầu tư cho các hoạt động gia công, lắp ráp. Việt Nam,
với nguồn lao động dồi dào và rẻ, đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư tham gia
vào lĩnh vực này trong thời gian gần đây [17]. Vì thế, hoạt động gia cơng, lắp ráp
hàng hóa của Việt Nam cũng diễn ra khá sôi động và ngày càng phát triển, đặc
biệt là trong lĩnh vực gia công may mặc.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng gia cơng may mặc
HĐGC có thể hiểu là công cụ để phản ánh mong muốn của bên đặt gia
công và bên nhận gia công trong việc thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa hai
bên. Mối quan hệ này hết sức phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay, đồng
thời thuật ngữ “gia công” cũng được sử dụng nhiều trong thực tế. Tuy nhiên,
trong các văn bản pháp luật điều chỉnh đối với HĐGC trong đời sống dân sự
là BLDS các năm 1995, 2005, 2015 và cũng như các văn bản hướng dẫn thực
hiện BLDS đều khơng đề cập đến khái niệm “gia cơng”. Vì thế, khái niệm

7


“gia công” trong quan hệ dân sự phải hiểu thông qua khái niệm gia công trong
hoạt động thương mại, từ đó xác định được các đặc trưng và bản chất của hoạt
động này.
Theo LTM năm 1997, gia công là hành vi thương mại, theo đó bên nhận
gia cơng thực hiện việc gia cơng hàng hóa theo u cầu, bằng ngun liệu, vật

liệu của bên đặt gia công để hưởng tiền gia cơng; bên đặt gia cơng nhận hàng
hố đã gia công để kinh doanh thương mại và phải trả tiền phí gia cơng cho
bên nhận gia cơng. Đến LTM năm 2005, khái niệm này đã được đưa ra ngắn
gọn hơn cụ thể: Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó
bên nhận gia cơng sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của
bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản
xuất theo yêu cầu của bên đặt gia cơng để hưởng thù lao gọi là phí gia cơng.
Từ các quy định trên đây có thể hiểu rằng gia công là việc mà một bên (gọi là
bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu của một bên khác (gọi là bên đặt gia
công) để thực hiện những hành vi cụ thể theo yêu cầu và chỉ dẫn của bên đặt
gia công đồng thời được nhận thù lao tương ứng gọi là phí gia cơng.
Tuy nhiên, BLDS Việt Nam các năm 1995, 2005 hay 2015 đều không
đưa ra khái niệm “gia công” mà chỉ đưa ra khái niệm “HĐGC”. HĐGC là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công thực hiện công việc để tạo
ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản
phẩm và trả tiền công. Bên cạnh yếu tố thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các
bên, khái niệm này nhấn mạnh đến yếu tố chủ thể, đến quyền và nghĩa vụ cơ
bản của các chủ thể. Chủ thể bao gồm bên đặt gia công và bên nhận gia công.
Bên đặt gia công là bên mong muốn thu được các sản phẩm theo những yêu
cầu riêng của mình, họ có thể cung cấp một phần hoặc toàn bộ nguyên vật
liệu và sẵn sàng trả tiền để nhận được sản phẩm đó. Bên nhận gia cơng là bên
có trình độ, kỹ năng để tạo ra những sản phẩm theo u cầu của bên gia cơng
để từ đó được nhận tiền cơng. Kết quả của q trình gia công là sản phẩm vật

8


chất hữu hình, vật được xác định theo mẫu. Trong dân sự, sản phẩm này
thường có hình thái tồn tại hoàn chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng nào đó
của người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong kinh doanh thương mại, có nhiều khi

hoạt động gia cơng có thể được tách thành nhiều khâu liên tiếp, hình thành hệ
thống gia cơng phân đoạn; do đó sản phẩm gia cơng của một phân đoạn có thể
chưa hồn chỉnh mà mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu nhất định cũng
được coi là hồn thành.
Mặc dù khơng có một khái niệm cụ thể nào cho “HĐGCMM” nhưng có
thể hiểu rằng: HĐGCMM là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia
công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm là quần, áo, mũ, găng tay các
loại theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả
tiền công. Bên đặt gia công sẽ giao cho bên nhận gia công các nguyên liệu
may mặc như vải, da, lông thú các loại; phụ liệu như chỉ, cúc, khuy kéo, dây
chun, trang trí…; cơng cụ dụng cụ để thực hiện như máy may, bàn là, máy
dập, ép… và các tài liệu, sơ đồ, giác mẫu để giúp bên nhận gia công thực hiện
được sản phẩm theo đúng yêu cầu về kiểu dáng, chất lượng, quy cách do bên
đặt gia cơng đề ra. Khi hồn thành và giao sản phẩm gia cơng thì bên nhận gia
cơng sẽ nhận được tiền phí gia cơng từ phía bên đặt gia công theo thỏa thuận
của hợp đồng.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng gia cơng may mặc
HĐGCMM có những đặc điểm tương tự như các hợp đồng dân sự. Bởi
vậy, HĐGC cũng có những đặc điểm chính sau:
- Là hợp đồng song vụ: Cả hai chủ thể - bên đặt gia cơng và bên nhận gia
cơng đều có những quyền và nghĩa vụ được xác định theo hợp đồng,
trong đó quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
- Là hợp đồng ưng thuận: HĐGCMM có hiệu lực ngay từ thời điểm các
bên đã thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản của hợp đồng. HĐGC
không bao giờ có thể được thực hiện và chấm dứt ngay tại thời điểm giao

9


kết, mà ln địi hỏi một khoảng thời gian đủ để bên nhận gia cơng có

thể thực hiện được việc gia cơng của mình. Nếu các bên khơng có thỏa
thuận cụ thể hơn thì thời hạn được tính là khoảng thời gian hợp lý để
thực hiện việc gia cơng đó.
- Là hợp đồng có đền bù: Bên đặt gia cơng có nghĩa vụ thanh tốn tiền
cơng cho bên nhận gia cơng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Việc khơng
có thỏa thuận khơng được hiểu là khơng có đền bù.
Bên cạnh việc mang đầy đủ những đặc điểm chung của hợp đồng thông
thường, với ý nghĩa là một loại hợp đồng dân sự và thương mại thơng dụng,
HĐGCMM cũng có những đặc điểm riêng:
 Về mặt bản chất của HĐGCMM
Về mặt bản chất, HĐGCMM không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Mặc dù trong q trình thực hiện hợp đồng cũng có thể xảy ra trao đổi sản
phẩm, nguyên vật liệu cấu thành nhưng đó khơng phải là giao dịch cốt lõi của
HĐGCMM. Việc bên đặt gia công nhận sản phẩm sau q trình gia cơng cũng
khơng được coi là giao dịch mua bán khi sản phẩm chuyển giao không phải
hồn tồn là sở hữu của bên nhận gia cơng. Quyền sở hữu sản phẩm gia công
của mỗi bên được quyết định tùy vào mức độ đóng góp nguyên vật liệu cấu
thành và giá trị gia tăng trong sản phẩm được làm ra, từ đó quyết định được
chi phí gia công là cao hay là thấp. Nếu như bên nhận gia cơng đóng góp càng
nhiều ngun vật liệu và thực hiện nhiều hoạt động hơn để tạo ra nhiều giá trị
gia tăng của sản phẩm thì phí gia cơng sẽ càng cao và ngược lại. Thơng
thường, phí gia cơng được chi trả chủ yếu cho việc bên nhận gia công thực
hiện những hoạt động cụ thể theo chỉ dẫn, yêu cầu của bên đặt gia cơng từ đó
làm gia tăng giá trị của sản phẩm; do đó về mặt bản chất, hoạt động gia công
gần với hoạt động cung ứng dịch vụ.
 Về tính chất của HĐGCMM
HĐGCMM có bản chất là hợp đồng song vụ và có đền bù. Tính song vụ
được thể hiện rõ ràng trong việc phân chia quyền và nghĩa vụ giữa bên đặt gia

10



công và bên nhận gia công. Mỗi bên chủ thể đều vừa có quyền lại vừa có
nghĩa vụ dân sự đối ứng. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ đối ứng của các chủ
thể trong HĐGCMM cũng có những điểm khác biệt so với các loại hợp đồng
khác. Cụ thể, bên nhận gia cơng vừa có thể có quyền u cầu bên đặt gia cơng
phải chuyển cho mình các ngun vật liệu đạt tiêu chuẩn về số lượng, chất
lượng, chủng loại, tính đồng bộ, vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp nguyên vật
liệu phù hợp. Ngược lại, bên đặt gia cơng vừa có thể có nghĩa vụ cung cấp
ngun vật liệu, vừa có thể có quyền yêu cầu bên nhận gia công cung cấp
nguyên vật liệu cần thiết cho quá trình gia cơng. Cả quyền và nghĩa vụ của
các bên đối với việc cung cấp nguyên vật liệu phụ thuộc vào mức độ đóng
góp của các bên theo hợp đồng quy định.
Bên nhận gia cơng có nghĩa vụ bàn giao sản phẩm đã hồn thành cho
bên đặt gia cơng, bên đặt gia cơng có nghĩa vụ thanh tốn chi phí cần thiết cho
bên nhận gia công nhưng không phải là thanh tốn cho tồn bộ giá trị sản
phẩm hồn chỉnh mà chỉ thanh tốn chi phí cho phần ngun vật liệu mà bên
nhận gia cơng cung cấp và chi phí cho chuỗi hành vi tạo ra giá trị gia tăng kết
tinh trong sản phẩm cuối cùng. Vì vậy, phí gia công không phải là giá thành
sản phẩm mà chỉ là một phần trong trong đó.
Về tính đền bù, bên đặt gia công phải trả một khoản tiền công cho bên
nhận gia công khi họ làm ra một sản phẩm đạt yêu cầu. Cần lưu ý rằng, khoản
đền bù này có thể bao gồm hoặc khơng bao gồm chi phí ngun vật liệu trong
đó, tùy thuộc vào việc bên đặt gia cơng cung cấp một phần hay tồn bộ
ngun vật liệu gia cơng. Như vậy, có thể bóc tách tiền cơng thành hai phần:
một phần là tiền nguyên vật liệu mà chính bên nhận gia cơng bỏ ra và một
phần khác là tiền gia công sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.
 Về đối tượng của HĐGCMM
Đối tượng của HĐGCMM là vật được xác định theo yêu cầu, xác định
theo mẫu, theo tiêu chuẩn do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp


11


luật. Vật mẫu hay tiêu chuẩn của vật gia công chỉ được hiện thực hóa (vật chất
hóa) sau khi bên nhận gia cơng đã hồn thành cơng việc gia cơng. Sản phẩm
được gia cơng có thể là hồn chỉnh hay chưa hồn chỉnh phụ thuộc vào hình
thức gia cơng là gia cơng chi tiết hay gia cơng sản phẩm hồn chỉnh. Thông
thường, sản phẩm được gia công theo mẫu sản phẩm cho trước. Nhiều trường
hợp, sản phẩm được tạo ra theo sự mô tả, chỉ dẫn của bên đặt gia cơng. Khi đó,
sản phẩm gia cơng thường được định hình thơng qua các tiêu chí về số lượng,
chất lượng, kích thước, màu sắc, quy cách đóng gói… và vì thế địi hỏi bên
nhận gia cơng phải có những kỹ năng chun mơn chun biệt đối với từng loại
sản phẩm. Tóm lại, đối tượng của HĐGCMM là vật hoàn thành theo yêu cầu,
chỉ dẫn của bên đặt gia công. Đối tượng này có thể là sản phẩm hồn chỉnh
hoặc sản phẩm chưa hồn chỉnh.
1.1.3. Đặc trưng của hợp đồng gia cơng may mặc
Nói chung, HĐGCMM có đầy đủ những đặc điểm của một HĐGC nói
chung, ngồi ra nó cịn có các đặc trưng riêng:
- Chủ thể: Chủ thể của HĐGCMM là các cá nhân hoặc pháp nhân có trụ
sở kinh doanh trong nước hoặc ở các nước khác nhau vì vậy mà các bên tham
gia hợp đồng phải chịu sự điều chỉnh của các pháp luật khác nhau căn cứ vào
nơi đăng ký kinh doanh.
- Đối tượng: Đối tượng của HĐGCMM là việc thực hiện một hoặc nhiều
công đoạn trong quá trình sản xuất ra sản phẩm mới là quần áo. Sản phẩm
mới được sản xuất ra theo HĐGC được gọi là hàng hóa gia cơng. Hàng hóa có
thể được gia cơng cho thương nhân nước ngồi hoặc các thương nhân trong
nước. Hàng hóa gia cơng mang tính chất thời trang, theo mùa do vậy gắn với
từng giai đoạn nhất định trong các thời điểm tiêu thụ trên thị trường. Nguyên
liệu, vật tư sử dụng cho gia công là vải, da thuộc, lơng thú và các phụ liệu như

cúc, chỉ, khóa …

12


- Nội dung: HĐGCMM có thể bao gồm những điều khoản quy định về:
Hàng hóa gia cơng; Ngun liệu, vật tư; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Thời
gian sản xuất, thời gian giao hàng; Số lượng và phí gia cơng; Phương thức
thanh tốn; Trách nhiệm vi phạm hợp đồng; Thủ tục giải quyết tranh chấp;
Hiệu lực. Trong đó: Điều khoản về hàng hóa gia cơng đề cập đến sản phẩm là
quần áo, quy cách chủng loại quần áo; Điều khoản về nguyên liệu, vật tư cụ
thể hóa số lượng, chất lượng cũng như thời điểm chuyển giao các nguyên liệu
như vải, da thuộc, lông thú. Ở một số trường hợp, các bên có thể thỏa thuận
nhờ bên nhận gia công mua hộ một số nguyên liệu, phụ liệu cần thiết. Bên đặt
gia công và bên nhận gia công cũng có những thỏa thuận về việc hỗ trợ kỹ
thuật, máy móc, cơng cụ dụng cụ để bên nhận gia cơng có thể hồn thành sản
phẩm theo những u cầu của bên đặt gia công. Điều khoản về thời gian sản
xuất, thời gian giao hàng và số lượng, phí gia cơng là một trong những điều
khoản quan trọng trong hợp đồng. Đối với hàng hóa gia cơng may mặc là
quần áo thì thời điểm sản phẩm được tung ra thị trường là rất quan trọng,
quyết định sự thành công trong kinh doanh của đối tác th gia cơng trong
mùa vụ/năm đó. Điều khoản về trách nhiệm vi phạm hợp đồng sẽ là sự thỏa
thuận giữa các bên nhằm để đảm bảo mỗi bên phải có trách nhiệm thực hiện
tốt những nội dung đã nêu trong hợp đồng. Điều khoản này cũng có các quy
định cụ thể để trong trường hợp các bên vi phạm hợp đồng thì sẽ có hình thức
xử phạt, bồi thường tương ứng. Trong trường hợp không thỏa thuận được hình
thức xử phạt, bồi thường thì cần đến cơ quan nào để giải quyết tranh chấp.
- HĐGCMM cũng như các loại hợp đồng khác, quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên là rất quan trọng. Bên đặt gia cơng có nghĩa vụ đưa ra
những mong muốn cụ thể về sản phẩm gia công cả về chất lượng và số lượng

để bên nhận gia cơng có căn cứ mà thực hiện. Dĩ nhiên nghĩa vụ trả tiền công
đầy đủ và theo đúng thời gian là một điều bắt buộc đối với hợp đồng này.
Ngay từ khi nhận nguyên liệu, vật tư ban đầu, bên nhận gia công đã có nghĩa

13


vụ phải kiểm tra chất lượng, nếu chất lượng của những nguyên vật liệu này
không thể giúp cho bên nhận gia cơng có thể hồn thành được nghĩa vụ của
mình thì bên nhận gia cơng có quyền u cầu bổ sung hoặc đổi nguyên vật
liệu khác. Bên nhận gia công có nghĩa vụ phải hồn thành đúng tiến độ mà hai
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, chất lượng và số lượng sản phẩm cũng phải
đảm bảo theo như đã thỏa thuận ban đầu của các bên. Trong quá trình gia
cơng thì sẽ có một số trường hợp những quy trình gia cơng là do bên đặt gia
cơng cung cấp, trong trường hợp đó, bên nhận gia cơng phải đảm bảo giữ bí
mật về quy trình này. Bên nhận gia cơng cịn phải có trách nhiệm với xã hội
khi mà nếu như những ngun liệu gia cơng đó có thể làm nguy hại cho xã
hội. Ví dụ: Sử dụng chất nhuộm, nước thải giặt là,… rất nguy hại cho môi
trường và sức khỏe người dân, người lao động. Bên nhận đặt gia cơng cũng có
quyền u cầu bên đặt gia công cung cấp nguyên liệu và số lượng như đã thỏa
thuận với thời hạn và địa điểm cụ thể. Trong trường hợp khi các chỉ dẫn của
bên đặt gia công đối với bên nhận gia cơng gây ra các khó khăn trong q
trình thực hiện gia cơng thì bên nhận gia cơng thì có quyền thỏa thuận lại về
các chỉ dẫn. Đây là một yêu cầu rất cơ bản để q trình gia cơng có thể hồn
thành được. Trong một số trường hợp, có thể yêu cầu bên đặt gia công thỏa
thuận về việc bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản đặt cọc để có tiền
trả cho nhân viên.
Như vậy, khi các bên tham gia giao kết hợp đồng thì cần xem những
quy định của BLDS 2015 trước khi giao kết hợp đồng. Bên đặt gia công cần
phải cung cấp đầy đủ các nguyên liệu để bên nhận gia cơng có thể tiến hành

gia cơng, phải thanh tốn đầy đủ và đúng hạn cho bên nhận gia công. Bên
cạnh đó, bên đặt gia cơng có thể hủy hợp đồng hay u cầu địi BTTH nếu
bên nhận gia cơng gây ra thiệt hại. Đối với bên nhận gia công, phải hồn
thành đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với việc gia công sản phẩm, được

14


hưởng tiền công như đã thỏa thuận và phải chịu BTTH nếu gây thiệt hại hoặc
vi phạm hợp đồng.
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công may mặc
1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia công
may mặc
Trong mọi hệ thống pháp luật, khi có hành vi vi phạm hợp đồng (khi một
bên chậm thực hiện, không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ đã
cam kết) thì một trong những biện pháp có thể được áp dụng nhằm khắc phục
hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là BTTH. Theo đó, bên có hành vi vi
phạm hợp đồng phải BTTH cho bên bị vi phạm.
HĐGCMM là một phần của hợp đồng thương mại và BTTH do vi phạm
HĐGCMM cũng tương tự như trên. Trong các biện pháp khắc phục hậu quả
của hành vi vi phạm HĐGCMM, BTTH là biện pháp khắc phục mà việc áp
dụng biện pháp này đòi hỏi phải đáp ứng các căn cứ chặt chẽ hơn cả. Điều
này xuất phát từ nhận thức rằng hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây ra
thiệt hại cho bên kia trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích vật chất của bên bị vi phạm. Do đó, bên có hành vi vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại cho bên kia có trách nhiệm phải bù đắp những lợi ích vật chất
phù hợp nhằm khơi phục lại tình trạng của bên bị vi phạm trở về như trước
khi hành vi vi phạm xảy ra, nhằm thỏa mãn những lợi ích chính đáng mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu HĐGCMM được thực hiện đúng.
Định nghĩa BTTH do vi phạm HĐGCMM không được đưa ra trong

BLDS, LTM. Thay vào đó, BLDS chỉ quy định các trường hợp vi phạm hợp
đồng cụ thể như chậm thực hiện nghĩa vụ, không thực hiện nghĩa vụ giao vật,
không thực hiện một công việc hay thực hiện một công việc không được phép
thực hiện hoặc chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và buộc bên vi phạm
hợp đồng phải bồi thường cho bên bị vi phạm khi thiệt hại xảy ra.

15


BLDS năm 2015 cũng như BLDS năm 2005 không đưa ra định nghĩa
cụ thể cho BTTH do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, khác với BLDS năm
2005, ngoài việc ghi nhận các trường hợp có thể dẫn tới trách nhiệm BTTH
tương tự BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định rằng trường
hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác, BLDS năm 2015 đã ghi nhận khái quát trách nhiệm BTTH do vi
phạm nghĩa vụ bao gồm trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng và trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi hợp đồng là căn
cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn chỉ rõ
nguyên tắc của BTTH và căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH. Theo đó,
để làm phát sinh trách nhiệm BTTH địi hỏi phải có 3 căn cứ: có hành vi vi
phạm nghĩa vụ; có thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
nghĩa vụ và thiệt hại xảy ra [7,tr.30].
Khác với BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015, LTM năm 2005 đưa ra
cách hiểu về BTTH là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Như vậy, có thể nhận thấy LTM
năm 2005 đã tiếp cận BTTH do vi phạm hợp đồng dưới góc độ là quyền yêu
cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với bên vi phạm, theo đó bên vi
phạm phải trả tiền BTTH do vi phạm hợp đồng gây ra.
Trên cơ sở những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm BTTH do vi

phạm HĐGCMM như sau:
BTTH do vi phạm HĐGCMM là biện pháp khắc phục hậu quả của hành
vi vi phạm HĐGCMM, nhằm bảo đảm cho trách nhiệm dân sự theo
HĐGCMM được thực hiện bằng cách bù đắp những tổn thất là hậu quả của
hành vi vi phạm HĐGCMM do bên vi phạm HĐGCMM gây ra cho bên bị vi
phạm.

16


1.2.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gia cơng
may mặc
- Các đặc điểm chính của BTTH
Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì họ phải thực hiện BTTH. Ở đây, BTTH chính là một loại quan
hệ về mặt tài sản, do luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong BLDS
năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS.
Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTH chỉ được đặt ra khi thỏa mãn
các điều kiện nhất định, đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa
vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngồi hợp đồng), có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây
thiệt hại (khơng phải là điều kiện bắt buộc).
Về hậu quả: Trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về
tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính tốn được bằng tiền hoặc phải được pháp
luật quy định là một lượng vật chất nhất định nếu không sẽ khơng thể thực
hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù khơng
thể tính toán được nhưng cũng cần được xác định theo quy định của pháp luật
để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Chính vì vậy, việc thực hiện trách

nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngồi người trực tiếp có hành vi gây
ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH cịn được áp dụng cho cả những chủ thể
khác; đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, …
Từ những đặc điểm chung của BTTH, có thể đưa ra một số đặc điểm của
BTTH do vi phạm HĐGCMM như sau:

17


Về cơ sở pháp lý: BTTH do vi phạm HĐGCMM chịu sự điều chỉnh của
pháp luật dân sự và được quy định trong các văn bản pháp luật như BLDS
2015, LTM 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan đến việc BTTH do vi
phạm HĐGC. Nếu là HĐGC cho các thương nhân nước ngồi thì cịn phải
chịu sự điều chỉnh của các văn bản luật của quốc gia khác.
Về điều kiện phát sinh: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi vi phạm các nghĩa
vụ, quy định trong HĐGC, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt
hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Về hậu quả: Mang đến những bất lợi về tài sản (nguyên liệu, vật tư, máy
móc, thiết bị, sản phẩm, các khoản phí thanh tốn,…) cho người gây ra thiệt
hại. Việc BTTH được thực hiện theo thỏa thuận trong HĐGCMM hoặc theo
quy định của pháp luật trong và ngoài nước.
Về chủ thể: Người trực tiếp gây ra thiệt hại (chủ thể trong nước, chủ thể
ngoài nước, …).
- Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cơ bản và là tiền đề làm phát sinh
trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp đồng. Theo đó, khi một hợp đồng được
xác lập hợp pháp thì hợp đồng đó sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đã

tự nguyện xác lập hợp đồng, hay nói cách khác là khi hợp đồng được xác lập
hợp pháp, hợp đồng đó sẽ áp đặt nghĩa vụ lên một hoặc các bên. Do vậy, khi
có hành vi khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hay có hành vi không tôn
trọng cam kết (hành vi vi phạm hợp đồng) của một bên trong quan hệ hợp
đồng thì mọi hệ thống pháp luật đều buộc bên có hành vi vi phạm hợp đồng
phải chịu trách nhiệm dân sự.
Khái niệm vi phạm hợp đồng để chỉ đến mọi hành vi không thực hiện
đúng hợp đồng, cho dù là không thực hiện một phần, khơng thực hiện tồn
bộ, chậm thực hiện hay có khiếm khuyết trong việc thực hiện hợp đồng. Dựa

18


trên nguyên tắc nền tảng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 3, BLDS năm 2015
xem việc bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng những điều mà họ đã cam kết
hợp pháp (bao gồm thỏa thuận giữa các bên, các quy định của pháp luật về
hợp đồng) là hành vi vi phạm quy tắc xử sự trong lĩnh vực hợp đồng do các
bên tự nguyện tạo ra - hành vi vi phạm hợp đồng và do đó buộc bên có hành
vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Như vậy, có thể nhận thấy BLDS năm 2015 xem xét hành vi vi phạm
hợp đồng dưới góc độ các hành xử không đúng với nội dung của hợp đồng
như không đúng về đối tượng, không đúng về thời hạn, không đúng về địa
điểm…
Một nội dung của hợp đồng cũng thường bị vi phạm và dẫn đến tranh
chấp là thời hạn thực hiện hợp đồng. Thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng
thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Khoảng thời gian này được xác định dựa
trên sự thỏa thuận của các bên tham gia xác lập hợp đồng, hoặc được xác định
theo quy định của pháp luật hoặc được xác định theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền. Trong trường hợp khơng xác định được thời hạn thực hiện

nghĩa vụ theo sự thỏa thuận của các bên, theo quy định của pháp luật hoặc
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ
của mỗi bên được xác định là bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho bên
kia biết trước một thời gian hợp lý. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
của mình trong khoảng thời gian đó thì hành vi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
của bên có nghĩa vụ được xem là thực hiện đúng, nếu bên có nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ của mình ngồi khoảng thời gian đó thì hành vi của bên có
nghĩa vụ bị xem là hành vi vi phạm hợp đồng (bao gồm hành vi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng sớm hơn hoặc muộn hơn thời hạn thực hiện hợp đồng).
Địa điểm thực hiện hợp đồng hay địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
là nơi nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện hay là nơi các quyền hợp pháp của

19


bên có quyền được đáp ứng. Về nguyên tắc, địa điểm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng được pháp luật hợp đồng Việt Nam xác định dựa trên cơ sở sự thỏa
thuận hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp các
bên khơng có thỏa thuận về địa điểm thực hiện hợp đồng thì địa điểm này sẽ
được xác định tùy thuộc tính chất của đối tượng nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp
luật hiện hành trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện hợp đồng theo
địa điểm đã được xác định theo Điều 277 BLDS năm 2015, Điều 35 LTM năm
2005 thì điều đó có nghĩa là bên có nghĩa vụ đã khơng thực hiện hợp đồng đúng
địa điểm hay có hành vi vi phạm về địa điểm thực hiện hợp đồng.
Phương thức thực hiện hợp đồng cũng là một nội dung của hợp đồng.
Nội dung này cho phép xác định bên có nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng phải
thực hiện nghĩa vụ của mình theo thể thức nào để đáp ứng quyền và lợi ích
hợp pháp của bên có quyền. Như đã nêu trên, đối tượng của nghĩa vụ hợp
đồng có thể là quyền đối với một vật có giá trị tài sản (chuyển giao quyền)
hoặc cũng có thể là thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện một

công việc, do đó, phương thức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phải phù hợp với
đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng. Bởi vậy, vi phạm về phương thức thực hiện
hợp đồng là vi phạm về cách thức thực hiện hợp đồng mà các bên đã thỏa
thuận hoặc pháp luật đã quy định hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền đã chỉ rõ nhưng bên có nghĩa vụ đã không tuân thủ cách thức
thực hiện hợp đồng này. Với cách hiểu này, có thể nói mọi hành vi thực hiện
hợp đồng không đúng với các thể thức mà các bên đã thỏa thuận hoặc không
đúng quy định của pháp luật hoặc không đúng với quyết định của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đều bị xem là hành vi vi phạm về phương thức thực
hiện hợp đồng.
+ Có thiệt hại xảy ra
Khái niệm thiệt hại có thể được hiểu như sau: Thiệt hại là bất kỳ tổn thất
nào mà một người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp

20


×