Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.56 KB, 23 trang )

MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH KHÁCH HÀNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH
1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty tài chính
Từ thế kỷ XV đã có những ngân hàng đầu tiên được thành lập. Có thể thấy rất
rõ lợi ích mà hệ thống các ngân hàng mang lại. Tuy nhiên ngân hàng không phải
chiếm vị trí duy nhất trong hệ thống các tổ chức tài chính trung gian mà còn có rất
nhiều các loại hình tổ chức khác: Các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, công
ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán… Các hoạt động dịch vụ tài chính của
các công ty tài chính mới chỉ xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Có nhiều lý do cho sự xuất hiện của các công ty tài chính:
- Sự hạn chế của luật ngân hàng, nhiều dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng
không được phép mở rộng sang các địa hạt khác. Cần có những tổ chức thích hợp
đáp ứng nhu cầu đó.
- Hệ thống ngân hàng lúc đó không thể đáp ứng cho nhu cầu to lớn và đa dạng
vốn đầu tư.
Công ty tài chính làm một số nghiệp vụ như ngân hàng, nhưng không phải là
ngân hàng thương mại, nên hầu hết các nước đều xếp các công ty tài chính vào loại
hình các tổ c hức tín dụng phi ngân hàng.
1.1.1.1. Khái niệm về công ty tài chính
Theo Điều 2 - Nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty
tài chính. Công ty tài chính được hiểu là: "LOại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng với chức năng chủ yếu là sử dụng
vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các
dịch vụ tư vấn về tài chính - tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác liên quan đến
hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật. Công ty tài chính không được
làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm".
Ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế, bối cảnh và điều kiện mà công
ty tài chính thực hiện những chức năng khác nhau. Có thể chỉ ra đây một vài loại
hình về công ty tài chính:
- Loại thứ nhất: Các tổ chức tài chính chuyên môn do nhà nước thành lập


hoặc nhà nước cho phép thành lập. Loại hình này thường là các tổ chức công, bán
công hoặc cổ phần hoạt động trong lĩnh vực chuyên trách, tài trợ trung hạn và dài
hạn, với nguồn vốn từ ngân sách hoặc quỹ kinh doanh của nhà nước cấp, hoặc từ
phát hành các công cụ nợ: trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ….
- Loại thứ hai: Các công ty tài chính do các ngân hàng hoặc tập đoàn ngân
hàng lập ra, để thực hiện một số nghiệp vụ chuyên biệt của ngân hàng, như chuyên
về cấp bảo lãnh, đầu tư bất động sản, hoặc thuê mua thiết bị…
- Loại thứ ba: Các công ty tài chính do công ty sản xuất, thương mại lập để tài
trợ cho người mua hàng hóa của công ty mẹ (công ty tài chính bán hàng).
1.1.1.2. Đặc điểm của Công ty tài chính
Thông qua việc tìm hiểu về các công ty tài chính ở một số nước: Pháp,
Malaixia, Hoa Kỳ, Singapore, Thái Lan…. có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
tuy hình thành sau hệ thống các ngân hàng nhưng đã phát triển khá nhanh, rất đa
dạng về loại hình và đa dạng về dịch vụ tài chính.
Thứ hai: Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian vì thế cũng
đóng vai trò là cầu nối luân chuyển vốn giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư (nghĩa
là vai trò của một nhà cung cấp tín dụng).
Sự khác nhau giữa Công ty tài chính với các tổ chức tín dụng khác là ở chỗ:
Các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép tiền gửi không hạn chế về loại
tiền, thời hạn. NHTM được mở tài khoản cho khách hàng đây là cơ sở để ngân
hàng tiến hành nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối các nghiệp vụ khác.
Công ty tài chính lại không được phép thực hiện các nghiệp vụ trên. Luật pháp chỉ
cho phép các công ty tài chính được huy động vốn trung và dài hạn, không được
phép huy động vốn ngắn hạn dưới 1 năm… Đó chính là hạn chế lớn nhất ngăn cản
sự lớn mạnh của các công ty tài chính.
Bên cạnh đó hành lang pháp lý cũng tạo điều kiện mở cho các công ty tài
chính phát triển các dịch vụ không bị hạn chế trong quy định về mở chi nhánh, quy
định cách thức huy động vốn… nhằm đáp ứng các nhu cầu dịch vụ tài chính cho
công chúng, mà các NHTM không đáp ứng được, hoặc cạnh tranh với các ngân

hàng thương mại ở các lĩnh vực cần chuyên sâu: đầu tư, thuê mua, trả góp, bán
hàng hóa…
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính
Một là: công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước;
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định
của pháp luật hiện hành;
- Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài
chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước.
Hai là: Công ty tài chính được cho vay dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.
- Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy quy định hiện hành của Luật Tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác.
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
Ba là: Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác.
- Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác với các tổ chức tín dụng khác.
Bốn là: Bảo lãnh, công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của công ty tài chính
phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật các Tổ chức
tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Năm là: Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới các hình thức khác theo

quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Sáu là: Công ty tài chính được thực hiện các hoạt động khác sau đây:
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác;
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng;
- Tham gia thị trường tiền tệ;
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng;
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các
doanh nghiệp;
- Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của
các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng;
- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho
khách hàng;
- Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm
đồ và các dịch vụ khác.
Bảy là: Công ty tài chính được thực hiện các nghiệp vụ dưới đây sau khi được
Ngân hàng Nhà nước hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan cho phép:
- Hoạt động ngoại hối;
- Hoạt động bao thanh toán;
- Các hoạt động khác.
1.1.3. Vai trò hoạt động phân tích tài chính khách hàng của Công ty Tài
chính.
Phân tích tài chính là một nguồn tài liệu quan trọng để các doanh nghiệp đưa
ra các quyết định trong từng thời kỳ hoạt động của bản thân công ty. Do đó mức độ
chính xác của các thông tin từ công tác phân tích tài chính đưa ra có ý nghĩa quyết
định đối với hiệu quả hoạt động của công ty. Phân tích tài chính không chỉ quan
trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn cho các nhà đầu tư, các chủ nợ có cái
nhìn tổng quan về tình hình tài chính của doanh nghiệp họ đang quan tâm. Từ đó
đưa ra các quyết định đúng đắn nhất nhằm đạt mục tiêu hiệu quả trong kinh doanh.
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm phương pháp và công cụ cho

phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý
doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh
nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính, quyết định
quản lý phù hợp.
Trong quá trình kinh doanh trên thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp
đều có quyền bình đẳng như nhau, có quyền lựa chọn ngành nghề mà mình kinh
doanh và trong sự lựa chọn tự do đó bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ phải tiếp xúc
với nhiều đối tượng khác nhau: nhà đầu tư, người cho vay, nhà quản lý, người lao
động, ngân hàng… Mỗi đối tượng sẽ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp ở những giác độ khác nhau. Đối với công ty tài chính hoạt động phân tích
tài chính đóng vai trò quyết định về sự tồn tại và hiệu quả trong công việc của công
ty. Công ty tài chính:
Với tư cách là một nhà đầu tư:
Mối quan tâm mà họ hướng đến chính là sự rủi ro, mức sinh lãi, thời gian
hoàn vốn… Vì ở giác độ này họ là người bỏ vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cái mà
họ mong muốn sẽ là lợi nhuận mà họ thu được là bao nhiêu? Hay tỷ suất sinh lời
trên một suất đầu tư là bao nhiêu? Vì vậy nhà đầu tư sẽ chú ý đến thông tin về tình
hình tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng
trưởng của doanh nghiệp. Để từ đó đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế
hay giảm thiểu những rủi ro.
Với tư cách là nhà cung cấp tín dụng:
Công ty sẽ quan tâm đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích tài
chính là một khâu quan trọng trong quá trình thẩm định cho vay của công ty. Cách
phân tích này sẽ giúp công ty nhìn nhận một cách logic tình hình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng vận động của doanh
nghiệp trong tương lai. Phân tích tài chính giúp công ty trả lời những câu hỏi:
doanh nghiệp có khả năng trả nợ hay không? Khả năng tự chủ về tài chính và sử
dụng nợ vay ở mức độ nào?... Và nếu doanh nghiệp gặp khó khăn thì công ty có
thể tư vấn cho doanh nghiệp về quyết định tài chính, tháo gỡ những khó khăn

vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như thế bớt được nỗi lo
đối với bản thân công ty tài chính vì có thể theo dõi được khoản tiền cho doanh
nghiệp vay. Công ty tài chính có thể đánh giá rủi ro của doanh nghiệp đặc biệt là
rủi ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, có thể cho doanh nghiệp vay
được hay không, mức độ rủi ro mà doanh nghiệp gánh chịu khi chấp nhận cung cấp
tín dụng. Không những thế trong quá trình sử dụng khoản vay doanh nghiệp vẫn
phải cung cấp những báo cáo về tài chính cho công ty và như vậy công ty có thể có
thể có những can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có những dấu hiệu xấu.
Ngoài ra phân tích tài chính giúp công ty tài chính xây dựng kế hoạch cho vay
trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính mỗi
doanh nghiệp. Xây dựng tín dụng phù hợp sẽ giúp cho công ty tài chính nâng cao
hiệu quả cho vay, thu được lợi nhuận cao.
1.2. HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Quy trình phân tích tài chính khách hàng của công ty tài chính.
1.2.1.1. Thu thập thông tin
Trong phân tích tài chính các cán bộ thẩm định phải thu thập sử dụng mọi
nguồn thông tin phản ánh thực trạng hoạt động tài chính của khách hàng những
nguồn thông tin đó sẽ giúp cho người phân tích đưa ra những kết luận, nhận xét
chính xác. Công ty tài chính có thể thu thập thông tin từ các nguồn sau:
- Hồ sơ khách hàng: Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng được
cung cấp thông tin qua báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, kế
hoạch về tài chính trong tương lai của doanh nghiệp.
- Phỏng vấn trực tiếp khách hàng: Các thông tin này góp phần bổ xung thêm,
xác minh lại tính chính xác, trung thực của các thông tin thu được từ nguồn khác.
- Từ các ngân hàng hay các tổ chức tín dụng có quan hệ tín dụng, thanh toán
với khách hàng. Xem xét mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng xem
tổng dư nợ của khách hàng tại các tổ chức này, có bị nợ quá hạn hay không? Và
doanh nghiệp dã có cách giải quyết như thế nào đối với những khoản nợ quá hạn

này.
- Thông tin lưu trữ trong công ty tài chính: là những thông tin của doanh
nghiệp đã có quan hệ kinh tế đối với công ty.
- Thông tin từ các chủ nợ, các con nợ có mối quan hệ kinh tế đối với khách
hàng đánh giá mối quan hệ về thanh toán giữa khách hàng với các chủ nợ.
- Người phân tích tài chính có thể đến trực tiếp công ty cần phân tích để xem
xét tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra tính trung thực, chính
xác của những thông tin được đưa ra trong các bản báo cáo tài chính…
- Các nguồn thông tin khác: Trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà
nước CIC, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, từ các cơ quan thuế, kiểm toán, hải
quan, cơ quan quản lý thị trường… Các thông tin từ các phương tiện thông tin đại
chúng, các cơ quan báo chí…
Như vậy đối với việc thu thập thông tin sẽ có rất nhiều nguồn khác nhau để
nhà phân tích có đủ dữ liệu trong hoạt động của minh. Tuy nhiên các thông tin này
là nhiều chiều và có những cách hiểu khác nhau về cùng một thông tin do đó đòi
hỏi nhà phân tích cần phải biết sàng lọc kỹ lưỡng các nguồn dữ liệu để đưa ra kết
luận chính xác về doanh nghiệp.
Cán bộ thẩm định phải đưa ra kết quả một cách chĩnh xác. Thông qua các dữ
liệu mà mình thu thập được nhờ vào việc:
- Áp dụng chế độ kế toán, nguyên tắc hạch toán
- Nguồn số liệu có được cơ quan thuế chấp thuận hay chưa? Đã được kiểm
toán độc lập? Nguồn dữ liệu do công ty tự lập?...
- Thông qua trung tâm thông tin tín dụng
- Phải xem xét số liệu có khớp với các báo cáo tài chính hay không?
1.2.1.3. Quy trình phân tích
Hoạt động phân tích tài chính diễn ra không mang tính chất thời điểm mà
mang ý nghĩa lâu dài và vì thế việc phân tích phải được tiến hành trước và sau khi
có quan hệ kinh tế đối với công ty.
Phân tích trước khi cho vay: Dựa vào nguồn dữ liệu đã qua xử lý, công ty tài
chính sẽ tiến hành phân tích tài chính khách hàng, đánh giá thực trạng sản xuất

kinh doanh và năng lực của doanh nghiệp trong tương lai đồng thời dự báo nhu cầu
tài trợ vốn, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, từ đó có những quyết định tài trợ
hay không tài trợ đối với doanh nghiệp ở mức độ bao nhiêu? Và trong bao lâu?
Phân tích sau khi giải ngân: Sau khi giải ngân, công ty sẽ tiếp tục theo dõi
xem doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích hay không, kiểm soát các khoản tín
dụng bằng cách theo dõi các báo cáo tài chính định kỳ, kiểm tra các tài sản thế
chấp, phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
nguồn trả nợ, xem xét thực trạng về sản xuất kinh doanh để từ đó theo dõi các
khoản tín dụng hay sự suy giảm chất lượng tín dụng, dự báo nhu cầu tài chính của
doanh nghiệp trong các kỳ tiếp theo. Xếp hạng các khoản vay xem là tốt, bình
thường, hay là có vấn đề đưa ra quyết định có nên cung cấp tiếp vốn hay không
cho doanh nghiệp. Nếu có nợ quá hạn hay nợ có vấn đề cần tìm hiểu rõ nguyên
nhân và có biện pháp xử lý kịp thời.
1.2.1.4. Chấm điểm và xếp loại doanh nghiệp
Công ty tài chính cũng giống như các NHTM, cùng với hoạt động phân tích
thì chấm điểm khách hàng cũng rất quan trọng. Công việc này sẽ hỗ trợ đắc lực khi
công ty tài chính đưa ra quyết định kinh tế. Bởi đây là những chỉ tiêu được chuẩn
hóa cho phù hợp với bản thân công ty tài chính cũng như môi trường tài chính tại
Việt Nam.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính khách hàng
Hoạt động phân tích tín dụng khi tiến hành cần chia làm hai lĩnh vực: phân
tích tài chính và phân tích phi tài chính đối với khách hàng. Với phân tích tài chính
là phân tích những vấn đề ít hoặc không liên quan đến vấn đề tài chính của khách
hàng một cách trực tiếp: uy tín của doanh nghiệp, tính cách của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính là phân tích thực trạng tài chính và dự báo tài chính doanh
nghiệp trong tương lai nhằm tiên lượng những tình huống xấu có thể xảy ra làm
ảnh hưởng khoản vay.
Khi phân tích tài chính khách hàng các công ty tài chính quan tâm lớn nhất
đến khả năng trả nợ của khách hàng và vì thế công ty thường chú ý đến các khoản
tiền, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền rồi đem so sánh với khoản nợ

ngắn hạn để biết khả năng chi trả của doanh nghiệp và khả năng sinh lời từ hoạt

×