Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.91 KB, 20 trang )

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là “quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả
cả gốc lẫn lãi theo một thời gian nhất định giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức
chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã
hội, và dân cư trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay ”.
Ra đời từ thế kỷ XVI, tín dụng được xem là hoạt động truyền thống chủ yếu
và quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Thống kê cho thấy tỷ trọng các
khoản cho vay chiếm tới 60% tài sản của ngân hàng và đem lại 55 - 70% lợi nhuận
cho ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập chung
qua Ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá
nhân. Tín dụng Ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho
đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất. Ngoài ra tín
dụng Ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị
trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời.
1.1.2. Các loại hình tín dụng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý
của Ngân hàng Thương mại mà có cách phân loại tín dụng như sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn
Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành các loại sau đây:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: có thời gian từ 1 năm đến 5 năm (có nơi quy định là 7 năm).
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm trở nên (có nơi quy định là 7 năm).
Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng
một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hay thời hạn tín dụng còn được
hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng


vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ sung vào tài
sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do
vậy trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được số tiền vay ở Ngân hàng.
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi
... các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 năm đến 5 năm.
Ngược lại, những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô như: máy móc
thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường... có nhu cầu nguồn vốn từ 5 năm đến 10 năm có
khi tới 20 năm.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có thời hạn dài
gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có thể tính được hết khó khăn
sẽ gặp trong tương lai. Do vậy mức độ rủi ro của các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với Ngân
hàng sẽ tăng nên. Điều này một phần lý giải tại sao lãi suất các khoản cho vay dài hạn thường cao
hơn các khoản các khoản cho vay ngắn hạn.
Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng Thương mại.
Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và sinh
lợi của một Ngân hàng Thương mại.
1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức cho vay
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu là việc Ngân hàng Thương mại ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với
giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải là nhà cho vay với chủ sở hữu
thương phiếu và chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, việc bỏ tiền ở
thời điểm hiện tại để thu về một khoản tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất ấn định trước được
coi như là hoạt động tín dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của Ngân hàng hơn là
một hoạt động tín dụng.
- Cho vay được hiểu là việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng với sự cam kết khách
hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định với mức lãi suất cam kết. Cho vay
được gọi là một trong các nghiệp truyền thống của Ngân hàng Thương mại, nó được hình thành
ngay từ buổi sơ khai của các Ngân hàng, và được đánh giá là hoạt động sinh lời cao nhất cho các

Ngân hàng Thương mại.
- Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của
mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song
Ngân hàng vẫn thu được lợi từ khách hàng nhờ uy tín của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài
khoản ngoại bảng của Ngân hàng. Tuy nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là Ngân hàng đứng ra
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội
bảng.
- Cho thuê đó là việc Ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng.
Đây là hoạt động khá mới mẻ với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá cao, nhưng nó
cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng
không những phải có chuyên môn về nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công
nghệ.
1.1.2.3. Căn cứ vào tài sản bảo đảm
Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây:
- Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản đảm bảo
thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng trong trường hợp không
trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng không trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục
đích nguồn vốn vay dẫn đến không thanh toán được thì Ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi
nguồn vốn. Tín dụng đảm bảo được áp dụng đối với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách
hàng mới hay những khách hàng có tình hình tài chính không tốt...
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình tín dụng mà khách hàng có nhu cầu vay
vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại tín dụng này thường được cấp
cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có mối quan hệ tốt và lâu dàI đối với Ngân
hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có
thể là các khoản vay thực hiên theo chỉ thị của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không cần tài
sản đảm bảo.
1.1.2.4. Căn cứ vào mức độ rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các
căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo

các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và
ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân lại này giúp ngân hàng
thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng
tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,..
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,...
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ỳ trong việc trả nợ,...
Cũng có thể phân loại hình thức tín dụng theo những tiêu chí khác như theo
ngành kinh tế ( tín dụng nông nghiệp, tín dụng công nghiệp,...) hay theo đối tượng
tín dụng như tài sản lưu động, tài sản cố định,...hoặc theo mục đích ví dụ như tín
dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng.
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng và chuyên môn hóa trong cấp
tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi
tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ, ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam bên cạnh việc đa dạng hóa
các ngành tài trợ, vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với
những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách
mở rộng phù hợp.
1.1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1. Đối với ngân hàng
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian tài chính với hoạt động chuyển tiết kiệm thành
đầu tư chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng. Tín dụng Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi chưa sử dụng từ các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức là thu nhập hiện
tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm để cung

cấp cho các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu bổ sung vốn, góp phần mở rộng sản xuất kinh
doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nhờ hoạt động tín dụng, vị thế của ngân hàng đối với
các tổ chức, cá nhân trong xã hội ngày càng được nâng cao, trở thành quỹ tập trung tích tụ và phân
bổ vốn lớn nhất trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động, Ngân hàng thu được lợi
nhuận từ các khoản vay,cho thuê là doanh thu chính duy trì và phát triển hoạt động của chính Ngân
hàng (chiếm từ 55-70% lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh)
1.1.3.2. Đối với khách hàng
Khách hàng của hoạt động tín dụng ngân hàng là các cá nhân và tổ chức tạm
thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập, do
đó họ là những người cần bổ sung vốn. Đối với những đối tượng này, tín dụng
ngân hàng là cách tốt nhất để họ tiếp cận được với nguồn vốn một cách nhanh
chóng, hiệu quả, kịp thời với chi phí hợp lý. Quan hệ tín dụng gián tiếp (thông qua
ngân hàng là trung gian tài chính) khắc phục được những nhược điểm của tín dụng
trực tiếp như sự không phù hợp về quy mô khoản tiền giữa người cho vay và người
đi vay, khoảng cách về địa lý, thời gian và cả chi phí giao dịch. Như vậy, tín dụng
ngân hàng có thể làm giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, đồng nghĩa với việc
tăng thu nhập cho người đầu tư từ đó mà khuyến khích đầu tư.
Có thể nói hiện nay, các khoản tín dụng từ ngân hàng được xem là những
khoản vay an toàn, chất lượng, chi phí sử dụng vốn hợp lý. Cùng với sự đa dạng
hóa các hình thức cho vay, tín dụng ngân hàng không chỉ mang lại cho doanh
nghiệp và cá nhân những cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận
mà còn đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho mọi mặt đời sống của xã hội thông qua những
sản phẩm cho vay tiêu dùng cá nhân.
1.1.3.3. Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của
nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội và góp phần thúc đẩy quá trình tăng
trưởng của nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại trong đó tỷ trọng ngành dịch vụ ngày càng cao. Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và
dịch vụ tái mở rộng hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu từ tiền và kết thúc bằng tiền. Để tăng
nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải

tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới. Tất cả những công việc đó đòi hỏi phải có nhiều vốn và
phải kịp thời. Tín dụng Ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó.
Tín dụng góp phần làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển ngày một cao. Vốn Ngân hàng
cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo
thời hạn quy định. Do đó, các nhà doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu
quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Thực hiện việc này trong
nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, vì thế làm cho nền kinh tế hàng hóa
phát triển mạnh mẽ hơn.
Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc
tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một quốc gia luôn phải gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế thế giới. Sự hợp tác hoá bình đẳng cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và
trong khu vực đang được phát triển mạnh mẽ. Trong đó, đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh
xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế thông dụng và phổ biến nhất giữa
các nước. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này.
Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào
cũng có đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Tuy vậy trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được
hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, thu hồi vốn có đúng hạn không là vấn đề được
đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Bởi vì nếu đầu tư tín dụng không có
hiệu quả, không thu hồi được nợ thì Ngân hàng sẽ lỗ và đi đến phá sản. Do vậy, mỗi Ngân hàng
trong môi trường cạnh tranh phải có chiến lược mang tính dài hạn trong kinh doanh, sử dụng mọi
biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn tiềm tàng với chi phí rẻ trong nền kinh tế để kinh
doanh tín dụng có hiệu quả.
Tín dụng ngân hàng góp phần vào sự phát triển của các thị trường tài chính khác như thị
trường vàng, chứng khoán, bất động sản...Hiện nay, cùng với sự ra đời và phát triển của nhiều loại
hình thị trường tài chính như thị trường vàng, thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại đã
và đang triển khai những dịch vụ như cho vay đầu tư chứng khoán, đầu tư vàng...với điều kiện cho
vay

Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà
còn với cả xã hội. Tuy nhiên để tín dụng Ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà
quản lý Ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như
các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và người cho vay.
1.2. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trên thị trường, những
khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá cả và chất lượng như những hàng hoá khác.
Chất lượng của một khoản tín dụng là : "Mức độ đáp ứng yêu cầu vốn vay của khách hàng
(cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện đặc
thù của bản thân ngân hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng “
Chất lượng tín dụng được xem xét trên những góc độ:
- Đối với khách hàng: Một khoản tín dụng có chất lượng tốt phải phù hợp với mục đích sử
dụng của khách hàng với lãi suất kỳ, hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thu hút được nhiều khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp
phần giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trởng kinh tế.
- Đối với Ngân hàng thương mại: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực
lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị tr ường với nguyên tắc hoàn
trả đúng hạn và có lãi.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán
được như tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn...) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách
hàng, tác động đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan
(khả năng quản lý, trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài).
Khuynh hướng phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị tưrờng cũng như môi trường
pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lợng tín dụng.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của
NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một Ngân hàng trong
quá trình cạnh tranh để tồn tại.

Chất lượng tín dụng tốt được xác định qua nhiều yếu tố : thu hút được nhiều khách hàng tốt,
thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng, chi phí về tổng thể lãi suất, chi phí
nghiệp vụ. Để có chất lượng tín dụng tốt cần có sự tổ chức và quản lý đồng bộ trong một Ngân
hàng, vì điều đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng, mà còn nhằm cải tiến tính hiệu quả
và linh hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh nhằm thoả mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách
hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng nh bên ngoài. Để làm được điều đó mỗi thành viên trong
một tổ chức Ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất lượng.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một khái niệm rộng lớn. Để có được chất lượng tín dụng
thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy
và uy tín trong hoạt động. Hay nói một cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và
độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế
Lịch sử hình thành và phát triển quan hệ tín dụng cho ta thấy vai trò quan trọng của nó trong
nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển. Cùng với sự sản xuất và lưu
thông hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để
đáp ứng nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó, nâng cao chất lượng tín dụng là vấn
đề ngày càng được quan tâm vì:
- Nâng cao chất lượng tín dụng để đa hoạt động tín dụng thích nghi với điều kiện kinh tế thị
trường, phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường.
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian

×