Mục lục
Lời nói đầu
Chơng I: Tổng quan về văn hoá kinh doanh và đàm phán thơng mại quốc tế
1.1 Lý luận chung về văn hoá kinh doanh
1.1.1 Mối quan hệ về văn hoá và kinh doanh
1.1.2 Khái niệm văn hoá kinh doanh
1.1.3 Đặc điểm của văn hoá kinh doanh
1.1.4 Các yếu tố cấu thành nên văn hoá kinh doanh
1.2 Đàm phán trong thơng mại quốc tế
1.2.1 Khái niệm đàm phán thơng mại quốc tế
1.2.2 Đặc điểm của đàm phán thơng mại quốc tế
1.2.3 Phân loại đàm phán thơng mại quốc tế
1.2.4 Các giai đoạn đàm phán và các vấn đề cần chú ý
1.3 Vai trò của văn hoá kinh doanh đến đàm phán thơng mại quốc tế
Chơng II: Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thơng mại Việt
Nhật
2.1 Quá trình hình thành và phát triển quan hệ thơng mại Việt nam Nhật
bản
2.1.1 Sự hình thành và phát triển quan hệ thơng mại Việt nam Nhật bản
2.1.2 Lợi ích của Việt nam và Nhật bản trong việc phát triển quan hệ thơng
mại giữa hai nớc
2.1.3 Triển vọng phát triển quan hệ thơng mại hai nớc trong thời gian tới
2.2 Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thơng mại Việt Nhật
2.2.1 Sự tơng đồng và khác biệt về văn hoá kinh doanh Việt nam Nhật
bản
2.2.2 Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thơng mại Việt
Nhật
2.3 Những kinh nghiệm trong giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng với Nhật
Tr 1
Tr 4
Tr 4
Tr 4
Tr 14
Tr 16
Tr 19
Tr 23
Tr 23
Tr 29
Tr 33
Tr 36
Tr 40
Tr 46
Tr 46
Tr 46
Tr 50
Tr 53
Tr 54
Tr 54
- -
1
bản
Chơng III: Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh
doanh trong giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản thời gian tới
3.1 Các biện pháp có tính vĩ mô
3.2 Các biện pháp có tính vi mô
Kết luận
Danh mục các tài liệu tham khảo
Phụ lục tham khảo
Tr 79
Tr 88
Tr 104
Tr 104
Tr 108
Tr 112
Tr 114
Lời nói đầu
- -
2
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc, một trong
những biến đổi hết sức quan trọng đó là sự xích lại ngày một gần nhau của các
quốc gia trên thế giới hơn. Hơn lúc nào hết, các hoạt động giao lu trên mọi lĩnh
vực, đặc biệt là giao lu kinh tế đang trở nên sôi động nhằm hớng tới hình thành
ra một nền kinh tế thế giới thống nhất. Ngày nay, chẳng có gì là lạ khi các quốc
gia hăm hở tìm kiếm các cơ hội làm ăn với những nền kinh tế lớn, còn nóng
hổi dù cho họ chẳng biết gì về đất nớc đó, lịch sử của nó, trào lu t tởng, con
ngời hay các tập quán kinh doanh thông thờng. Trong trờng hợp này, trớc đây,
cũng đã có nhiều học giả đã từng đa ra những lý thuyết phát triển cho rằng
các yếu tố văn hoá kể trên không có vai trò gì đáng kể, rằng chúng chỉ là kết
quả, là sự thăng hoa của nền kinh tế. Song trong bối cảnh nền kinh tế thế giới
ngày nay đang diễn biến hết sức phức tạp, sự cạnh tranh để giành giật cơ hội thị
trờng, cơ hội kinh doanh ngày một gay gắt thì các yếu tố văn hoá thể hiện rõ
trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày một chứng tỏ vai trò hết sức quan
trọng của nó. Đặc biệt, sự thông hiểu văn hoá của nớc đối tác sẽ ảnh hởng trực
tiếp tới thành công của một cuộc giao dịch đàm phán thơng mại - vốn là giai
đoạn đầu tiên quyết định tới việc hợp đồng có đợc thành lập hay không.
Trong các nền kinh tế tại châu á, Nhật bản là một quốc gia đi đầu trên
mọi lĩnh vực. Việc có đợc cơ hội làm ăn với các đối tác Nhật bản sẽ tạo điều
kiện cho các quốc gia tận dụng đợc các thành tựu khoa học hiện đại, các nguồn
vốn để phát triển nền kinh tế quốc dân, và dần nâng cao vị thế của mình trên tr-
ờng quốc tế. Tuy vậy, đây cũng là một trong những đối tác có những nền văn
hoá kinh doanh rất đặc thù. Trong hoạt động giao dịch đàm phán, nhà kinh
doanh chuyên nghiệp cần tìm tòi để hiểu đợc những khác biệt cơ bản tiềm ẩn
trong sự nhận thức giữa các nền văn hoá khác nhau, từ đó gác lại các tiêu chuẩn
- -
3
giá trị của riêng mình mà có những c xử và hành vi phù hợp với nền văn hoá
Nhật bản.
Hoạt động giao lu kinh tế Việt nam - Nhật bản đã trải qua 4 thế kỷ phát
triển và ngày một đợc nâng cao cả về chất lẫn lợng. Rõ ràng Nhật bản - một nền
kinh tế lớn với trình độ khoa học kỹ thuật cao, dân số xấp xỉ 125 triệu ngời là
một đối tác hết sức quan trọng đối với Việt nam. Đây còn là một đối tác có nền
văn hoá kinh doanh tiên tiến; mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Là một sinh
viên hiện đang theo học tiếng Nhật, có cơ hội đợc gặp gỡ và làm việc với nhiều
doanh nghiệp Nhật bản, trong bài khoá luận tốt nghiệp của mình, tôi mong
muốn đợc đóng góp một vài ý kiến quanh vấn đề Vai trò của văn hoá kinh
doanh trong đàm phán thơng mại Việt - Nhật.
2- Kết cấu của khoá luận:
Bài khoá luận đợc chia làm 3 chơng:
Chơng I: Tổng quan về văn hoá kinh doanh và đàm phán thơng mại quốc
tế
Chơng II: Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thơng mại Việt
Nhật
Chơng III: Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh
doanh trong giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản thời gian tới.
3- Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Văn hoá kinh doanh là một đề tài rất rộng nên khoá luận chỉ tập trung
nghiên cứu những lý luận cơ bản về văn hoá kinh doanh, đàm phán thơng mại,
và đánh giá vai trò của văn hoá kinh doanh đến đàm phán thơng mại giữa các
nhà kinh doanh Việt nam Nhật bản. Trên cơ sở những kết luận rút ra trong
quá trình nghiên cứu, khoá luận xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp với hy
- -
4
vọng góp phần voà việc nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh doanh trong
giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản trong thời gian tới.
Có thể thấy đây là một đề tài khá phức tạp, cộng thêm những hạn chế nhất
định của ngời viết nên bài luận văn này chắc chắn không thể tránh khỏi đợc các
thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận đợc những lời nhận xét, góp ý từ phía thầy
cô, bè bạn để có cơ hội hoàn thiện những nhận thức về vấn đề này.
Cuối cùng, trớc khi bớc vào phần trọng tâm của bài luận văn, tôi xin gửi
lời cám ơn chân thành tới Tiến sỹ Phạm Duy Liên, ngời đã hết sức nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Hà nội, tháng 12 năm 2002
Trần Thị Bảo Ngọc
- -
5
chơng i
Tổng quan về văn hoá kinh doanh và đàm phán thơng mại
quốc tế
1.1 Lý luận chung về văn hoá kinh doanh
1.1.1 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm "văn hoá"
Thuật ngữ Văn hoá bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 (năm 1793). Đây
là một thuật ngữ hết sức quen thuộc với đời sống thờng nhật. Tuy vậy tới nay,
các nhà khoa học vẫn cha có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. Kể từ khi
xuất hiện cho tới nửa cuối thế kỷ 20, tức khoảng 2 thế kỷ, theo thống kê sơ bộ
của một học giả ngời Pháp, tên là A. Mô lô trong tác phẩm Tính xã hội của văn
hoá, đã có khoảng 250 định nghĩa về văn hoá [5,36]. Năm 1952, Kroeber và
Kluchohn đã thống kê đợc 164 định nghĩa về văn hoá [5,35]. Điều đáng chú ý
là giữa các định nghĩa này lại thiếu sự thống nhất. Sở dĩ có nhiều cách nhìn
nhận về cùng một vấn đề nh thế là do các tác giả xem xét vấn đề từ nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau. Cùng với thời gian những định nghĩa này ngày càng đợc
bổ sung và hoàn thiện, để từ đó chúng ta có thể hiểu đúng hơn về mối quan hệ
biện chứng giữa văn hoá và phát triển. Vậy cần phải hiểu khái niệm này nh thế
nào ?
Xét về mặt ngôn từ: Văn hoá xuất phát từ một thuật ngữ La tinh là
Cultus có nghĩa là trồng trọt. Đây là một khái niệm rộng, gồm có 2 mặt:
Văn hoá vật chất - tức là trồng nên cây trái để giúp cho con ngời tồn tại và Văn
hoá tinh thần - tức giáo dục, cải tạo con ngời sống tốt đẹp hơn.
- -
6
Theo quan điểm của các nhà nhân loại học: "Văn hoá hay Văn minh xét
theo nghĩa nhân loại học nói chung, là tổng thể bao gồm tri thức, tín ngỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng và thói quen nào
mà con ngời thu nhận đợc với t cách là thành viên của xã hội. Điều kiện Văn
hoá trong các xã hội loài ngời khác nhau, ở một chừng mực có thể kiểm soát đ-
ợc theo những nguyên tắc chung, là đối tợng thích hợp để nghiên cứu quy luật t
duy và hành động của con ngời" (Edward.B.Tylor) [12,23].
Định nghĩa trên liệt kê một cách khá đầy đủ các yếu tố cấu thành nên khái
niệm song lại ít quan tâm tới khái niệm văn hoá vật chất - vốn là một bộ phận
khá phong phú trong kho tàng văn hoá nhân loại.
Bách khoa toàn th Anh (trang 741) cho rằng có thể coi Văn hoá và Văn
minh là hai từ đồng nghĩa. Từ đó có thể nói tất cả những biến đổi do con ngời
tạo ra ở ngoài cơ thể đợc gọi là các thành tựu văn hoá, tập hợp các thành tựu
ấy ta gọi là văn hoá, các thời kỳ đỉnh cao của văn hoá ta gọi là văn minh
[5,20]. Khái niệm này đã nhấn mạnh đợc hàm ý: nói đến văn hoá là phải nói
đến con ngời, mà nói đến con ngời trớc hết phải nói đến t tởng, tâm lý, t duy,
tình cảm... Đó là cốt lõi của văn hoá. Lịch sử văn hoá là lịch sử con ngời và loài
ngời đã tạo nên văn hoá. Ngợc lại, văn hoá làm cho con ngời trở thành ngời.
Song định nghĩa này lại thiếu tính cụ thể với cách hiểu còn chung chung
Trong lĩnh vực tâm lý học, các học giả lại định nghĩa "Văn hoá là hành
vi, hành động, thái độ của con ngời" [5,20]. Vì vậy, bên cạnh giáo dục tri thức,
kỹ năng, phải đặc biệt coi trọng giáo dục các thái độ mà chúng ta gọi chung là
nhân cách văn hóa. Cách hiểu nh vậy mới chỉ đề cập đến văn hoá tinh thần, còn
thiếu tính cụ thể.
Đứng trên bình diện kinh tế, các nhà khoa học lại đánh giá Văn hoá theo
một cách khác. Czinkta cho rằng Văn hoá là một hệ thống những cách c xử
đặc trng cho các thành viên của bất kỳ một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm
- -
7
mọi vấn đề, từ cách nghĩ, nói, làm, thói quen, ngôn ngữ, sản phẩm vật chất, và
những tình cảm, quan điểm chung của các thành viên đó [5,26]
Nói tóm lại, khái niệm Văn hoá hàm ý về các hành vi, t duy, tình cảm,
các sản phẩm vật chất của các cộng đồng ngời riêng biệt, vốn đợc đúc kết, lan
truyền và chia xẻ từ đời này sang đời khác, đợc truyền bá từ nơi này sang nơi
khác.
Một điều cần làm sáng tỏ khi đề cập tới khái niệm này đó là: hiện nay, trên
thế giới, trong bối cảnh các hoạt động giao lu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội... đang diễn ra hết sức nhộn nhịp, thì các quốc gia hầu hết là quốc gia đa văn
hoá, đa dân tộc, với nhiều tôn giáo, nhiều ngôn ngữ khác nhau. ấn độ là một
quốc gia đa văn hoá điển hình với nhiều tôn giáo khác nhau: đạo Phật, đạo
Hindu, đạo Sikls, đạo Hồi... Về ngôn ngữ, ở ấn độ, nói 20 ngôn ngữ chính.
Thuỵ sĩ cũng là nớc đa ngôn ngữ với 75% dân số nói tiếng Đức, 20% nói tiếng
Pháp, 3-4% nói tiếng ý, 1% nói tiếng Roman. Quản lý một quốc gia đa văn hoá
là một việc làm không hề dễ dàng. Phải mất 600 năm, Thuỵ sĩ mới thiết lập đợc
một chiến lợc quản lý trên một đất nớc có nhiều nền văn hoá, ngôn ngữ khác
nhau nh vậy. Do đó hiểu đúng về khái niệm văn hoá cũng nh hiểu đợc nội hàm
phức tạp của khái niệm này sẽ cho chúng ta cơ sở quan trọng để tìm hiểu khái
niệm văn hoá kinh doanh.
1.1.1.2 Khái niệm "kinh doanh"
* Định nghĩa
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của xã hội loài ngời. Hoạt động này
xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá. Ngay từ thời cổ
đại, kinh doanh đã mang t cách là một ngành nghề với sự góp sức của tầng lớp
doanh nhân.
Vậy kinh doanh là gì ?
- -
8
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa về kinh doanh nh sau:
Kinh doanh tức là dùng công sức, tiền tài mà tổ chức các hoạt động để kiếm
lời nh buôn bán, mở nhà máy [20,573]. Định nghĩa này rõ ràng là còn thiếu,
còn chung chung, cha nêu đợc bản chất của hoạt động kinh doanh.
Từ điển Từ và ngữ Việt nam của Nguyễn Lân giải thích: "kinh doanh là tổ
chức hoạt động về mặt kinh tế để sinh lời [21,994]. Định nghĩa này chỉ làm
nổi bật đợc mục đích tối thợng của kinh doanh, còn vẫn thiếu tính cụ thể.
Học giả Đỗ Minh Cơng trong cuốn Văn hóa kinh doanh và Triết lý kinh
doanh đã đa ra một số định nghĩa về khái niệm này nh sau:
Kinh doanh là một dạng thức của kinh tế với mục đích chính là đạt đ-
ợc lợi nhuận cho chủ thể.
Kinh doanh là tất cả nhứng hoạt động có mục tiêu cơ bản là đạt đợc
lợi nhuận cho chủ thể.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu t từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lợi [19,994].
Trong ba định nghĩa trên về kinh doanh, có thể thấy định nghĩa thứ ba là
đầy đủ và cụ thể nhất. Với cách hiểu này, có thể thấy kinh doanh giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội: Kinh doanh là tác nhân đồng thời
là điều kiện và phơng tiện thúc đẩy nền khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển, tạo ra sự thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội loài ngời trên tất
cả mọi lĩnh vực.
* Đặc điểm
Các yếu tố cấu thành nên hoạt động kinh doanh bao gồm:
- -
9
Chủ thể kinh doanh là những ngời làm kinh doanh, gồm các cấp độ nh
cá nhân, nhóm và tổ chức, cả tầng lớp doanh nhân.
Khách thể kinh doanh là khách hàng của chủ thể, bao gồm ngời tiêu
dùng (cá nhân hoặc tập thể), các nhà kinh doanh khác...
Đối tợng kinh doanh thì tuỳ thuộc vào các lĩnh vực kinh doanh, hình
thức kinh doanh... mà có thể là khác nhau. Ví dụ nh: kinh doanh thơng
mại (bao gồm mua bán, trao đổi, lu thông), kinh doanh sản xuất, kinh
doanh dịch vụ (du lịch, t vấn, giáo dục, y tế, viễn thông...) hoặc kinh
doanh trên cả ba lĩnh vực: thơng mại, sản xuất, dịch vụ... Trong số các
loại hình trên, có thể nói kinh doanh thơng mại là phổ biến nhất. Lịch
sử đã từng chứng kiến những kiểu kinh doanh thơng mại đỉnh cao nh
việc bỏ tiền đút lót để buôn vua của Lã Bất Vi thời Chiến quốc tại
Trung quốc.
Mục đích chính của hoạt động kinh doanh thờng là đạt đợc, đem lại lợi
nhuận cho chủ thể kinh doanh. Dĩ nhiên cũng có trờng hợp trong một
vài vụ giao dịch kinh doanh, lợi nhuận không là mục đích chính nh
biểu diễn nghệ thuật để quyên tiền ủng hộ đồng bào bị bão lụt... Song
đây là những trờng hợp cá biệt không có tính chất lâu dài, và không thể
hiện đợc bản chất của hoạt động kinh doanh.
Bản chất của quan hệ kinh doanh đợc thể hiện trong mối quan hệ trao
đổi, ràng buộc lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể. Ngời kinh doanh
phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của các khách hàng mục tiêu
mà anh ta nhắm vào để cung cấp cho họ một lợng hàng hoá, dịch vụ
nào đó, nhằm thu một lợng tiền với một mức lợi nhuận nhất định. Ngợc
lại, khách hàng có quyền chấp nhận hàng hoá và trả tiền hay không,
qua đó thực hiện việc có bỏ phiếu hay không cho sự thành đạt của
doanh nghiệp.
- -
10
Nguyên tắc cơ bản của kinh doanh là đôi bên (chủ thể và khách thể)
cùng có lợi.
Trên đây, chúng ta vừa tìm hiểu hai khái niệm là khái niệm văn hoá và
khái niệm kinh doanh. Hiểu đúng về hai khái niệm sẽ giúp chúng ta nắm đợc
mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa hoạt động kinh doanh và các yếu tố văn
hoá.
1.1.1.3 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh
Thứ nhất, "Kinh doanh có văn hoá" tạo cơ sở cho một sự phát triển bền
vững
Từ trớc tới nay, văn hoá thờng bị liệt vào lĩnh vực sản xuất phi vật chất,
luôn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh tế. Kinh tế có phát triển thì mới có điều kiện
vật chất để phát triển văn hoá.Tuy nhiên, Khi các mục tiêu tăng trởng kinh tế
đợc đặt ra mà tách rời môi trờng văn hoá thì kết quả thu đọc sẽ rất khập khiễng,
mất cân đối cả về kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân
tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều (Tổng Giám Đốc UNESCO F.Mayor) [5,33].
Điều này là dễ hiểu vì bản chất của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận: Với
một lợi nhuận thích đáng thì t bản trở nên can đảm. Đợc bảo đảm 10% lợi
nhuận thì ngời ta có thể dùng t bản vào đâu cũng đợc; đợc 20% thì nó hoạt bát
hẳn lên; đợc 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo; đợc 100% thì nó chà đạp lên
mọi luật lệ của loài ngời; đợc 300% thì không còn tội ác nào là nó không dám
phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ(C.Mác) [19,22].
Về vấn đề này, những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy: Sự thành công và năng động của các quốc gia Châu á - Thái Bình Dơng là
do có sự bắt nguồn từ các yếu tố truyền thống, trong đó tính cộng đồng và ý
thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan hệ làm ăn, kinh doanh, sự ham học hỏi,
- -
11
ham hiểu biết, sự cần cù vơn lên và tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong công việc
đã đợc nhấn mạnh.
Nền kinh tế Việt nam cũng đã có một bớc tiến đáng kể. Nguyên nhân
thành công thực ra không phải do sự thúc đẩy tự động của các nhân tố kinh tế
đơn thuần (nh vốn, công nghệ, thông tin...) mà trớc hết, là nhờ ở đổi mới t duy
trên cơ sở lấy dân làm gốc, đặt con ngời vào vị trí trung tâm của mọi chủ tr-
ơng, chính sách và kế hoạch phát triển, khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng
tạo của mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân
tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Các nhân tố văn hoá có tác động tích cực tới
kinh doanh thì ngợc lại, kinh doanh có phát triển bền vững cũng tạo các tiền đề
vật chất hỗ trợ phát triển các hoạt động văn hoá. Chẳng hạn nh ngày nay, một
số doanh nghiệp thành đạt vẫn thờng tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể
thao. Một số công ty lớn còn lập các quỹ tài trợ cho các lĩnh vực phát triển văn
hoá, giáo dục, và khoa học nh quỹ Ford, quỹ Rốc cơ phen lơ, quỹ Toyota, quỹ
học bổng của Sumitomo... Đơng nhiên, đây cũng đợc coi nh một thủ thuật
Marketting của các hãng, song qua đó ta cũng thấy đợc sự tác động của kinh
doanh đối với các hoạt động văn hoá.
Nh vậy, chỉ có trên cơ sở mối quan hệ hài hoà giữa kinh doanh và văn hoá
thì các quốc gia mới mong đạt tới sự phát triển năng động, có hiệu quả và chất
lợng cao về mọi mặt của đời sống.
Thứ hai, Bản thân văn hoá cũng là một ngành kinh doanh
Mỗi một dân tộc đều có những nét riêng biệt về văn hoá trên từng lĩnh vực,
gọi là bản sắc văn hoá. Khi các giá trị văn hoá truyền thống ấy trở thành đối t-
ợng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ vừa thu đợc lợi nhuận lại vừa có thể quảng bá
bản sắc văn hoá của dân tộc mình ra tầm thế giới.
Ai cũng biết rằng, ở Nhật bản có văn hoá uống trà, vốn đợc gọi là trà
đạo. Trình tự, động tác pha trà hầu nh ở nơi nào mà chả giống nhau. Thế nhng,
- -
12
văn hoá uống trà ấy của Nhật bản vẫn thu hút biết bao du khách tới Nhật để
mong đợc một lần đợc dự một bữa tiệc trà và đợc thởng thức một htú vui tao
nhã. Tiệc trà Huế cũng lịch lãm không kém. Nớc pha trà phải là sơng đêm đọng
trên lá sen. Trà phải ớp trong hoa sen qua đêm cho ngấm hơng. Và do cái nếp
pha trà đó, mà nhiều vị khách ngời nớc ngoài đã kiên nhẫn ngồi với một tiệc trà
Huế hàng mấy tiếng đông hồ.
Một trong những cơ hội kinh doanh rõ rệt nhất bắt nguồn từ văn hoá là du
lịch. Tại Châu á ngày nay, du lịch là một thị trờng đầy triển vọng. Sự phát triển
ngoạn mục của ngành du lịch là một trong những thay đổi đáng kể nhất trong
thơng mại quốc tế vào nửa sau thế kỷ 20. Doanh thu của hoạt động du lịch quốc
tế tăng tới 18 lần từ năm 1970 đến 1993, từ 18 tỷ USD lên 324 tỷ USD. Năm
1996, ngành du lịch chiếm gần 10% hoạt động thơng mại quốc tế [24,1]. Ngoài
nguồn lợi xét về mặt thơng mại ra, ngành du lịch còn có một vai trò rất lớn
trong việc truyền bá các giá trị văn hoá, truyền thống của một quốc gia với thế
giới. Tuy nhiên, điều làm cho các quốc gia đang đau đầu hiện nay là liệu sự
phát triển này có là bền vững trong tơng lai mà không làm xuống cấp các tài sản
văn hoá vô giá đó.
Số lợng du khách ngày càng tăng đòi hỏi phải mở rộng thêm cơ sở vật chất
mà có nguy cơ biến những nơi yên ả, thanh bình, đầy nét truyền thống và mang
đậm bản sắc hấp dẫn trở thành những nơi họp chợ ồn ào, rẻ tiền, và bẩn thỉu. Do
nhiều nớc ra sức mở rộng nhanh chóng cơ sở vật chất để phát triển du lịch ồ ạt
kiểu con buôn nên tính xác thực của yếu tố văn hoá truyền thống bản địa đang
bị chết dần, chết mòn. Mỉa mai là chính yếu tố văn hoá và các phong tục truyền
thống xác thực lại là cái mà các khách du lịch muốn xem khi thăm di tích.
Vấn đề này đã đợc bàn đến tại Việt nam trong Hội thảo do Trung tâm di
sản Thế giới của UNESCO và ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt nam tổ chức
tại Huế về Du lịch bền vững và sự phát triển di sản văn hoá. Một trong những
- -
13
khía cạnh quan trọng nhất cuả cuộc Hội thảo nói trên là làm sáng tỏ vai trò tiềm
năng của ngành du lịch trong việc bảo tồn và duy trì di sản văn hoá có thể làm
tăng hiểu biết và lòng tự hào vủa ngời dân về lịch sử và nền văn minh của mình.
Ngoài các hình thức kinh doanh kể trên, văn hoá cũng có thể trở thành một
lĩnh vực đem lại lợi nhuận thông qua việc mua bán các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ hay qua việc biểu diễn các bộ môn nghệ thuật truyền thống... Có thể thấy
rằng: văn hoá là cái vĩnh cửu, trờng tồn của dân tộc. Bởi thế, nếu các doanh
nhân chịu khó tìm hiểu kho tàng văn hoá dân tộc và suy nghĩ về nó trên góc độ
kinh doanh thơng mại, sẽ thấy ngay rằng chúng ta thừa sức làm giàu bằng chính
nội lực văn hoá của minh.
Thứ ba, Văn hoá và kinh doanh là hai lĩnh vực có các ngành chuyên biệt
phục vụ mục đích của nhau
Trong kinh doanh đã có một nền văn hoá kinh doanh thể hiện ở sự vận
dụng khoa học và kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh doanh, ở nhứng cách thức
giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh, thơng mại. Ngoài ra, có những ngành
thuộc lĩnh vực văn hoá cũng có những bộ phận làm công việc kinh doanh. Công
việc kinh doanh giúp cho các ngành đó có thêm điều kiện phát triển bản thân
ngành mình, làm nghĩa vụ đối với Nhà nớc và phục vụ nhân dân một cách rộng
rãi và có chất lợng cao hơn.
Mặt khác, cũng có những ngành văn hoá và khoa học đứng ngoài công
việc kinh doanh song có khả năng phục vụ sự nghiệp kinh doanh bằng các công
trình nghiên cứu khoa học và những hoạt động chuyên môn của mình. Ví dụ nh
các ngành kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục và đào tạo, các phơng
tiện truyền thông đại chúng. Tại các nớc công nghiệp phát triển đã có rất nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về các công ty, xí nghiệp, các tập đoàn kinh
doanh, về tiếp thị, về những lý thuyết toán học, về những đặc trng và cấu trúc
- -
14
của kinh doanh, về chiến lợc kinh doanh, về đào tạo, về mặt văn hoá cho các
ngành kinh doanh.
Ngành kinh tế học đóng góp trực tiếp hơn và sâu hơn do chức năng của nó.
Song nghiên cứu về văn hoá và kinh doanh, nghiên cứu về văn hoá nh một động
lực thúc đẩy của kinh doanh, một chỗ dựa của kinh doanh.cũng sẽ cho chúng ta
những triết lý về kinh doanh bổ ích.
Thứ t, Văn hoá ảnh hởng mạnh mẽ tới t duy, tình cảm, hành vi của các
doanh nhân
Mỗi một con ngời trong chúng ta đều luôn đợc đặt trong tổng hoà của các
mối quan hệ xã hội. Chính các mối quan hệ mang đậm bản sắc văn hoá của
từng cộng đồng ấy đã có ảnh hởng sâu sắc đến từng cá nhân trong xã hội. Nó
quyết định tới mọi hành vi, t duy tình cảm của con ngời. Mặt khác, chính con
ngời lại là chủ thể của mọi hoạt động. Nh vậy, các cá nhân thuộc các nền văn
hoá khác nhau thì có cách tiến hành hoạt động khác nhau. Một ví dụ điển hình
đó là: tại các nớc phơng Tây, con ngời luôn có thói quen đặt cái tôi lên trớc. Ng-
ợc lại, ở phơng Đông, nhân sinh quan của con ngời là hớng về cộng đồng. Một
nhà kinh doanh đợc coi là tài ba sẽ không chỉ là một con ngời tháo vát, biết làm
giàu cho bản thân mình, mà còn phải là một con ngời có tâm, biết làm giàu
cho cả xã hội. Điều này lý giải tại sao ở các nớc phơng Tây, mại dâm lại đợc coi
là một thứ nghề, có thể đợc công khai kinh doanh. Trong khi đó, ngời dân các
nớc phơng Đông lại khó chấp nhận đợc tình trạng này bởi nó đi ngợc lại thuần
phong mỹ tục, chà đạp lên các giá trị tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng
mối quan hệ giữa vợ chồng, con cái. Ngày nay, trong bối cảnh làn sóng toàn cầu
hoá đang diễn ra mạnh mẽ, cạnh tranh kinh tế ngày một trở nên gay gắt..., đơng
nhiên không thể tránh khỏi những đổi thay trong hệ t tởng, quan điểm của mỗi
dân tộc. Thái Lan - một quốc gia châu á tơi đẹp - vốn có truyền thống coi trọng
gia đình, coi trọng cộng đồng, thì giờ đây, đã trở thành một quốc gia với tỷ lệ
- -
15
gái mại dâm, và tỷ lệ ngời bị nhiễm HIV khá cao so với các nớc khác trên thế
giới. Ngay tại Việt nam, cũng từng có thời ngời ta đặt ra vấn đề có nên coi mại
dâm là một nghề kinh doanh có kiểm soát hay không.
Trên đây, chúng ta đã làm rõ mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa văn hoá
và kinh doanh. Nh vậy, có thể thấy: kinh doanh tạo ra các điều kiện cơ sở vật
chất làm phong phú thêm đời sống văn hoá của dân tộc. Và ngợc lại. văn hoá
cũng có sức chi phối mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong bối
cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều xáo trộn nh hiện nay, hơn lúc nào hết,
các doanh nhân muốn phát triển bền vững đợc phải tiến hành kinh doanh có văn
hoá, hay nói cách khác phải xây dựng một nền văn hoá kinh doanh cho riêng
mình.
1.1.2 Khái niệm "văn hoá kinh doanh"
Xuất phát từ quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa văn hoá và kinh doanh,
trong kho tàng từ ngữ của nhân loại đã xuất hiện thêm một thuật ngữ mới, đó là
văn hoá kinh doanh (Business Culture). Có thể nói đây là một thuật ngữ mới
xuất hiện gần đây. Trớc đây, khi bàn về vấn đề này, ngời ta thờng chỉ nói kinh
doanh có văn hoá, hoặc văn hoá trong kinh doanh. Sự xuất hiện thuật ngữ
văn hoá kinh doanh, đồng thời việc đây trở thành một vấn đề bình luận nóng
bỏng trên báo chí trong thời gian gần đây, cho thấy một sự đổi thay sâu sắc về
các yếu tố văn hoá trong mọi mặt hoạt động của một doanh nghiệp nói riêng,
của toàn nền kinh tế nói chung. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập vào
nền kinh tế tri thức, văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng trở thành
mối quan tâm, chú ý đặc biệt của doanh nghiệp. Có thể dự báo đây sẽ là một
nguồn lực, một tài sản lớn của doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức.
Theo Giáo s Hoàng Trinh:
Văn hoá kinh doanh (hay kinh doanh có văn hoá) có nghĩa là hoạt động
kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lợng, giá trị cao, giá thành thấp, sản
- -
16
phẩm đạt chất lợng cao, tiêu thụ đợc sản phẩm trên thị trờng trong nớc và
ngoài nớc, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nớc [12,30].
Định nghĩa trên có phần nhấn mạnh tới kết quả của hành động kinh doanh
có văn hoá. Ta có thể tham khảo thêm một định nghĩa khác nh:
Văn hoá kinh doanh là phơng pháp kinh doanh bằng cách nắm bắt
thông tin, ra sức cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu,
quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của ngời lao động, bồi
dỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc tạo ra những hàng hoá
và dịch vụ có chất lợng tốt, hình thức đẹp, giá cả hợp lý, đáp ứng đợc nhu cầu
của thị trờng, giữ đợc chữ tín với ngời tiêu dùng trong nớc và ngoài nớc [5,61].
Đây là cách kiếm lời nhanh nhất trên cơ sở đảm bảo kết hợp đợc cả cái đúng,
cái tốt, cái đẹp - vốn là những giá trị cốt lõi của văn hoá với cái lợi là mục đích
trực tiếp của kinh doanh.
Nói tóm lại, xuất phát từ bản chất của hoạt động kinh doanh đồng thời
xem xét các tác động của yếu tố văn hoá, trong phạm vi bài luận văn này, chúng
ta thống nhất định nghĩa "Văn hoá kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn
hoá vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ
thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu
kinh doanh ổn định và đặc thù của họ" [19,66].
1.1.3 Đặc điểm của "văn hoá kinh doanh"
Văn hoá kinh doanh là một khái niệm nằm trong khái niệm văn hoá.
Vì thế ngoài những đặc điểm riêng có do có sự xuất hiện của yếu tố kinh doanh,
thì khái niệm này còn mang các đặc trng chung của khái niệm văn hoá.
1.1.3.1 Đặc điểm chung
Thứ nhất, Văn hoá là sản phẩm hoạt động lao động sáng tạo của con ng-
ời, cộng đồng loài ngời
- -
17
Có thể nói hoạt động sáng tạo là hoạt động đặc trng của loài ngời. Kể từ
khi ngời vợn - tổ tiên của loài ngời xuất hiện, phải mất hàng triệu năm, ngời vợn
mới tiến hoá lên thành ngời trí tuệ. Lúc này con ngời mới biết chế tạo các công
cụ lao động. Văn hoá, Văn minh bắt đầu có từ đó, cuối thời Đá cũ, đầu thời Đá
mới. Nh vậy có thể thấy, Văn hoá ra đời gắn liền với hoạt động sáng tạo ra các
công cụ lao động của con ngời. Đó là quá trình con ngời dựa vào tự nhiên, tìm
cách thích ứng với thiên nhiên mà tồn tại. Lao động này của con ngời đã đợc
C.Mác mô tả là sự khác biệt giữa lao động của kiến trúc s và việc làm của
một con ong".
Thứ hai, Văn hoá phản ánh hành vi, phong cách sống có tính xã hội của
một cộng đồng ngời
Văn hoá là sản phẩm sáng tạo của con ngời. Song loài ngời cha phát triển
tới mức các giá trị văn hoá của từng khu vực, địa phơng có điều kiện giao thoa
hình thành nên một nền văn hoá chung của nhân loại. Mỗi một nền văn hoá, văn
minh đợc hình thành và phát triển trong một cộng đồng ngời nhất định có các
mối quan hệ ràng buộc nhau. Các cộng đồng này có những chênh lệch nhau về
trình độ phát triển, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên tại nơi c trú... nên họ xây
dựng ra một nền văn hoá riêng mang bản sắc của dân tộc mình. Trên thế giới có
những nền văn hoá, văn minh nổi bật nh là văn minh Trung quốc, văn minh ấn
độ, văn minh Cận đông, văn minh Hy lạp, văn minh La mã... kéo dài khoảng vài
thiên niên kỷ trớc công nguyên cho tới vài thiên niên kỷ sau công nguyên. Ngày
nay, ngời dân thuộc những nền văn hoá khác nhau nh vậy sẽ có những suy nghĩ
khác nhau về cùng một sự vật. Chẳng hạn về vấn đề sống thử trớc hôn nhân, với
ngời Châu Âu, ngời Mỹ đó là một việc làm rất đỗi bình thờng. Song với các
quốc gia Châu á, là những nơi vốn có truyền thống coi trọng gia đình thì đây là
một điều khó có thể chấp nhận đợc.
- -
18
Thứ ba, Văn hoá là những tập quán đợc sự thừa nhận rộng rãi của mọi
ngời trong cộng đồng
Văn hóa là sản phẩm chủ quan, đợc phản ánh vào những hành vi và phong
cách sống của mỗi một cộng đồng. Nên đơng nhiên văn hoá phải đợc sự xẻ chia
chung của mọi ngời trong cộng đồng đó. Nhiều khi sự thừa nhận những tập
quán đó là quá phổ thông tới mức con ngời vẫn tiếp tục bám vào nó cho dù nó
có phản khoa học hay đạo đức. Có thể thấy rõ điều này qua việc ngời Trung
quốc ở một số địa phơng vẫn còn duy trì tục lệ bó chân con gái nh trớc. Hay ng-
ời Việt nam ngày nay vẫn còn quen ăn gan gà xào giá cho dù khoa học đã
chứng minh đợc cách nấu này có thể làm xuất hiện các độc tố trong thực phẩm.
Thói quen này phát sinh từ những tập quán nấu nớng trong các đám giỗ, cỗ bàn
trớc đây.
Thứ t, Văn hoá tồn tại lâu đời, đợc truyền từ đời này sang đời khác và
không ngừng đợc bổ sung, làm mới
Văn hoá ra đời đi liền với thuở bình minh của nhân loại. Cùng với thời
gian, mỗi một thế hệ lại tự cộng thêm những đặc trng riêng của thế hệ mình vào
nền văn hoá của dân tộc trớc khi truyền lại cho thế hệ sau. Trong mỗi một thế
hệ, thời gian qua đi, những cái mới đợc thêm vào, những cái cũ có thể bị loại
trừ. Bởi thế văn hoá là một đối tợng không bao giờ tĩnh tại và bất biến mà ngợc
lại, văn hoá luôn luôn thay đổi và năng động. Văn hoá biết cách tự điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình mới, trình độ mới. Có thể thấy rõ điều này qua sự
phát triển của văn hoá phơng Tây bắt đầu từ Cận đông. Tại đó, cách đây khoảng
4000 năm trớc công nguyên, con ngời đã sống trong làng ấp, đã biết dệt vải,
làm đồ gốm, dùng súc vật để cày bừa, trồng ngũ cốc, có các kiến trúc vĩ đại (nh
Kim tự tháp...) rồi dần dần đi từ một nền văn hoá nông nghiệp lên nền văn hoá
đô thị. Ban đầu ở Cận đông có sử dụng các dấu chữ viết Trung quốc, song
không theo hình tự, mà để chỉ âm của vần, sau đó qua ngời Do thái, tới ngời Hy
- -
19
lạp, ngời La mã... mà ta có mẫu tự chữ viết A,B,C nh ngày nay. Chữ số ả rập từ
con số ấn độ đã chuyển sang hệ thống số từ 0 đến 9 nh hiện nay. Biết nói, biết
đọc, biết viết, biết tính toán là một chỉ số văn hoá rất tiêu biểu của từng con ng-
ời và của cả dân tộc. Khoa học cũng từ đó mà phát triển theo nh toán học giải
tích, lợng giác, triết lý, văn chơng (nh truyện Nghìn lẻ một đêm...).
Nếu xem xét văn minh nhân loại nói chung, ta có thể thấy văn hoá luôn có
tính kế thừa và thay đổi liên tục. Xét theo lịch đại, nhân loại đã chứng kiến tất
cả ba nền văn hoá:
- Văn hoá, văn minh Cổ đại.
- Văn hoá, văn minh Phục hng.
- Văn hoá, văn minh Hiện đại.
ở tầm vi mô, những biểu hiện của văn hoá cũng không ngừng thay đổi.
Chẳng hạn nh ở Afganistan, dới thời Taliban, phụ nữ phải mặc trang phục
truyền thống, phải trùm khăn kín từ đầu đến chân. Tới nay, khi chế độ Taliban
sụp đổ, số phụ nữ từ bỏ trang phục này ngày một nhiều.
Thứ năm, Văn hoá có thể đợc học hỏi
Mỗi một cộng đồng ngời thờng xây dựng cho riêng mình một bản sắc văn
hoá dân tộc. Song nh phân tích ở trên, yếu tố văn hoá thay đổi không ngừng.
Điều này một phần là do sự học hỏi, tiếp thu từ những nền văn hoá khác. Chẳng
hạn nh quê hơng của nhạc Rock vốn là các nớc châu Âu.Đây là một dòng nhạc
dờng nh còn khá lạ lẫm với ngời dân châu á. Nhng sự thành công vang dội của
chơng trình nhạc Rock do nhóm Bức tờng biểu diễn thu hút tới 7000 khán giả
vào ngày 8-11 vừa qua đã phần nào chứng minh về sự thay đổi khẩu vị trong số
các thính giả Việt nam.
- -
20
Trên đây là một số các đặc trng cơ bản của văn hoá nói chung và văn hoá
kinh doanh nói riêng. Đối với khái niệm văn hoá kinh doanh, ngoài các đặc
điểm chung kể trên, còn có các đặc điểm khác nh sau:
b, Đặc điểm riêng
Thứ nhất, Văn hoá kinh doanh là một bộ phận, song lại là cái đặc thù so
với văn hoá chung của dân tộc
Nh đã nói ở trên, văn hoá kinh doanh là một khái niệm nằm trong khái
niệm văn hoá. Tuy vậy, không thể đồng nhất văn hoá kinh doanh với nền văn
hoá chung của dân tộc, cũng nh không thể không phân biệt các tiểu văn hoá
đặc thù mà các doanh nghiệp khác nhau tạo ra.
Thứ hai, Văn hoá kinh doanh xuất hiện cùng sự xuất hiện của hàng hoá
và thị trờng
Nếu nh văn hoá nói chung ra đời vào thuở bình minh của xã hội loài ngời,
thì văn hoá kinh doanh lại chỉ xuất hiện khi nền sản xuất hàng hoá phát triển
đến một mức nhất định. Khi đó, doanh nghiệp mới có đủ thời gian trải nghiệm
qua thực tiễn để xác định cho mình con đờng kinh doanh nào là đúng đắn, chứ
không đơn thuần kinh doanh tất cả vì lợi nhuận nh trớc kia.
Thứ ba, Văn hoá kinh doanh có thể mang tính chất quốc tế
Điều này khác với văn hoá, vốn chỉ là khái niệm gắn liền với một dân tộc,
với một cộng đồng ngời (tuy vậy, cũng có trờng hợp văn hoá của một quốc gia
vơn lên tầm quốc tế khi có sự giao thoa, hội nhập văn hoá giữa các quốc gia). Ví
dụ nh văn hoá kinh doanh của các công ty có vốn đầu t nớc ngoài nh Honda,
Coca Cola... Dù các công ty xuyên quốc gia trên có hoạt động trên nhiều nớc
khác nhau song chúng đều có một nền văn hoá kinh doanh riêng biệt
Thứ t, Văn hoá kinh doanh thờng đợc xét trên một phạm vi hẹp, cụ thể
- -
21
Phạm vi này có thể là thể nhân, pháp nhân kinh doanh, trong đó chủ yếu là
văn hoá kinh doanh của các công ty, các tập đoàn.
1.1.4 Các yếu tố cấu thành nên văn hoá kinh doanh
Học giả Đỗ Minh Cơng đã phân chia văn hoá kinh doanh, xét trong phạm
vi một doanh nghiệp ra làm các thành tố sau:
- Hành vi ứng xử, phong cách và lối hành động (chung) của doanh nghiệp.
- Các hoạt động sinh hoạt văn hoá nghệ thuật nh ca, nhac, văn chơng... của
doanh nghiệp.
- Phong tục, tập quán, thói quen, tâm lý chung của doanh nghiệp.
- Các truyền thuyết, huyền thoại hoặc tín ngỡng chung của doanh nghiệp.
- Các triết lý, hệ t tởng chung của doanh nghiệp.
- Hệ thống các giá trị của doanh nghiệp. [19,23]
Nói cách khác văn hoá doanh nghiệp chính là lối ứng xử, hối sống và hoạt
động, lối suy nghĩ và bản (hệ thống) các giá trị của doanh nghiệp.
Trong phạm vi bài luận văn này, chúng ta thống nhất chia văn hoá kinh
doanh ra làm các yếu tố sau:
1.1.4.1 Văn hoá nhận thức về hoạt động kinh doanh:
Đây là yếu tố văn hoá phản ánh t duy và tình cảm của các chủ thể, các cá
nhân có liên quan trong hoạt động hớng về kinh doanh. Yếu tố này bao gồm:
- Nhận thức về nghề nghiệp: Đây có thể bao gồm các trạng thái tâm lý
của ngời lao động nh yếu nghề, cần cù chịu khó, hăng say lao động... hoặc
chóng nản, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, lời nhác...
- -
22
- Quan điểm về giáo dục và đào tạo: Đó có thể là một truyền thống hiếu
học, học tập hăng say với mục đích phụcvụ cho công việc của mình... hay lối
học thực dung, không thích học...
- Khả năng nắm bắt vấn đề và cách giải quyết trong kinh doanh: Nhiều
nhà kinh doanh rất nhanh nhạy trong việc thích ứng với hoàn cảnh, xử lý giải
quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Đây là một đức tính tốt, đặc biệt quan
trọng đối với các nhà quản trị.
1.1.4.2 Văn hoá sản xuất kinh doanh: gồm các nhân tố cơ bản nh
- Tinh thần đoàn kết, cộng đồng: đặc biệt cao đối với các quốc gia châu á
vốn có truyền thống văn hoá hớng về cộng đồng, chứ không vì cá nhân.
- Tinh thần tổ chức, kỷ luật và cách thức triển khai chính sách:
- Cách thức sản xuất kinh doanh: nh việc giỏi ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ, tiến hành hiện đại hoá nền sản xuất... hoặc có một trình độ
công nghệ thấp, lao động thủ công là chủ yếu...
- Tâm lý tiêu dùng: Tâm lý này sẽ chi phối ý tởng kinh doanh của nhà
doanh nghiệp.
- Quan hệ giữa ngời lao động với t liệu sản xuất: Những ngời lao động sử
dụng thành thạo các t liệu sản xuất, hoà hợp tốt với môi trờng lao động luôn là
nguồn tìa nguyên quý giá đối với mỗi doanh nghiệp.
1.1.4.3 Văn hoá tổ chức quản lý trong kinh doanh:
Đây là văn hoá phản ánh đạo đức kinh doanh, phong cách kinh doanh...
của nhà quản trị doanh nghiệp. Yếu tố này thờng bao gồm:
- Về quy mô tổ chức quản lý: Doanh nghiệp có thể đợc tổ chức quản lý
theo nhiều khâu, với cơ cấu quản lý gọn nhẹ, song cũng có doanh nghiệp quản
- -
23
lý theo một quy mô lớn, cơ chế quản lý cồng kềnh, theo kiểu cấp phát xin
cho.
- Về cách thức quản lý điều hành: Là yếu tố quan trọng phản ánh năng lực
lãnh đạo của nhà quản trị.
- Chế độ tuyển chọn và đãi ngộ nhân sự: Nhân lực là một trong ba nguồn
lực không thể thiếu đợc đối với một doanh nghiệp (ba yếu tố đó gồm nhân lực,
vật lực, trí lực). Làm tốt công tác tuyển chọn và có chế độ đãi ngộ hợp lý sẽ tạo
ra những cá nhân xuất sắc, góp phần đa công ty phát triển, đồng thời tăng quan
hệ gắn bó của ngời lao động với công ty, tạo nên sự phát triển ổn định, và bền
vững.
1.1.4.4 Văn hoá giao tiếp trong kinh doanh:
Yếu tố này bao gồm các bộ phận sau:
- Nguyên tắc u trội: Tất cả mọi cá nhân đều có những điểm mạnh cũng
nh các điểm yếu riêng. Phát huy các thế mạnh có thể khiến cho các cá nhân
thêm tự tin trong giao tiếp. Ngợc lại, các điểm yếu cần phải đợc khắc phục, để
xoá đi các mặc cảm, tự ti dẫn đến thua thiệt.
- Lối ứng xử: Là cả một thứ nghệ thuật đòi hỏi phải luôn trao dồi để có các
phản ứng linh hoạt trong giao tiếp.
- Việc xử lý các mối quan hệ xã hội: Nếu lối ứng xử phần nhiều mang tính
chất cảm tính, do tính cách của mỗi cá nhân chi phối, thì việc xử lý các mối
quan hệ hết sức phức tạp trong xã hội đòi hỏi không chỉ các kỹ năng ứng xử mà
cả một đầu óc tỉnh táo, giúp giải quyết mọi vấn đề một cách thoả đáng.
- Về phong cách, tác phong của cán bộ, nhân viên: Nhìn vào phong cách,
tác phong này của các cá nhân có thể đánh giá đợc họ có là những con ngời có
văn hoá hay không.
1.2 Đàm phán trong thơng mại quốc tế
- -
24
1.2.1 Khái niệm
Trong phần trớc của chơng, chúng ta đã cùng nhau xem xét tới khái niệm
văn hoá kinh doanh. Có thể thấy đây là một khái niệm mới mẻ song lại rất cần
thiết. Đặc biệt trong bối cảnh nền thơng mại quốc tế đầu thế kỷ 21 đang có
những chuyển biến mạnh mẽ, cạnh tranh kinh tế ngày một gay gắt, thế giới
đang phải đối mặt với những vấn đề, vốn là hậu quả nh ô nhiễm môi trờng, nạn
dịch HIV..., thì vấn đề kinh doanh có văn hoá đang đợc đặt ra nh một đòi hỏi
bức thiết, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Tất cả các giao dịch kinh doanh
ấy muốn thực hiện đợc đều phải bắt đầu từ khâu đàm phán. Đây là một khâu hết
sức quan trọng, không thể thiếu đợc trong các hoạt động kinh doanh. Vậy phải
hiểu đàm phán là gì ?
1.2.1.1 Định nghĩa
Xét về mặt ngôn từ, trong tiếng Hán, đàm có nghĩa là nói chuyện,
phán là việc đa ra các quyết định. Vậy, hiểu theo một cách đơn giản nhất,
đàm phán có nghĩa là quá trình trò chuyện, tiếp xúc giữa các bên để đi đến
một quyết định chung.
Bách khoa toàn th Encarta 96 (Hoa kỳ) cho rằng đàm phán đợc hiểu
là một hành động:
a, Hội đàm với một hoặc nhiều bên để đi đến các thoả thuận
b, Dàn xếp phơng thức trao đổi thông qua hợp đồng
c, Chuyển giao quyền sở hữu theo luật đinh và trên thực tế cho một hoặc
nhiều bên khác để đổi lấy các giá trị sẽ nhận đợc
d, Hoàn thiện và giải quyết thành công các tồn tại của quá trình [6,27].
Định nghĩa này có vẻ phù hợp với gốc từ Tiếng Anh là Negotiation (vốn
xuất phát từ một từ La tinh là negotium có nghĩa là trao đổi kinh doanh).
- -
25