Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Tinh thần nhập thế trong lễ hằng thuận của phật giáo ở việt nam hiện nay​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.87 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
------------------

TẠ THU HẰNG

TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG THUẬN
CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

HÀ NỘI, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ
NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC


------------------

TẠ THU HẰNG

Bảng đã định dạng

TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG


THUẬN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy

Đã định dạng: Thụt lề: Dòng đầu tiên: 0
cm, Khoảng cách
Sau: 10 pt

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Hà Thị Bắc

Đã định dạng: Trái, Thụt lề: Dòng đầu tiên:
0 cm, Khoảng
cách Sau: 10 pt



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Bắc. Các tư liệu, tài liệu được sử dụng
trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Tạ Thu Hằng



LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành chương trình đại học và viết khóa luận tốt nghiệp này,
tơi xin chân thành cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN, đặc biệt là các thầy, cô giáo Khoa Triết học
– những người dạy dỗ, chỉ bảo cho tôi trong suốt 4 năm qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hà Thị Bắc, người đã
dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận
này.
Mặc dù tơi đã có nhiều cố gắng song khóa luận vẫn cịn có những thiếu
sót. Vì vậy tơi rất mong nhận được những đóng góp q báu của q thầy cơ
và các bạn để khóa luận của tơi được hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Tạ Thu Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ
VÀ LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO...................................................7
1.1. Các khái niệm cơ bản.............................................................................7
1.1.1. Khái niệm nhập thế...........................................................................7
1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế..........................................................9
1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận..............................................................11
1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam.........................12

1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử 12

1.2.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật Giáo Việt Nam hiện nay. . .27
1.3. Khái quát chung về lễ Hằng Thuận......................................................33
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHẬP THẾ TRONG LỄ HẰNG
THUẬN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY..................................37
2.1. Biểu hiện của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận ở Việt Nam
hiện nay.......................................................................................................37
2.1.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận
thông qua việc thực hiện các giáo lý, giáo luật........................................37
2.1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo trong lễ Hằng Thuận qua

nghi lễ, tổ chức.........................................................................................49
2.1.3. Biểu hiện tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận thông qua tác
động của lễ Hằng Thuận đến đời sống hơn nhân gia đình.......................57
2.2. Ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hơn nhân, gia đình ở Việt
Nam hiện nay...............................................................................................66
2.2.1. Lễ Hằng Thuận – cầu nối giữa đạo và đời.....................................66
2.2.2. Thực hiện lễ Hằng Thuận góp phần giữ gìn và phát huy những giá
trị tốt đẹp trong hơn nhân, gia đình của người Việt.................................69
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................79


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi du nhập vào nước ta, đạo Phật đã nhanh chóng ăn sâu, bám rễ

vào đời sống tinh thần của người dân, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt trong
đời sống xã hội. Dưới các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, tinh thần nhập
thế của Phật giáo đã lấn át những ảnh hưởng vốn có vị thế vững vàng của
Nho giáo trong đời sống xã hội đương thời, bằng chứng là các vị cao Tăng
đạo hạnh và có uy tín của Phật giáo đã đứng ra đảm nhận vai trò quân sự, cố
vấn triều đình lèo lái con thuyền dân tộc.
Thời nhà Đinh, thiền sư Ngô Chấn Lưu được vua Đinh Tiên Hồng
phong chức Tăng thống, ban hiệu là Khng Việt Thái Sư, đứng đầu Phật
giáo thời bấy giờ, điều này cho thấy triều đại nhà Đinh đã chính thức cơng
nhận nhân sự của Phật giáo trực tiếp tham gia chính sự trong vai trò chỉ đạo
tâm linh. Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành đã cho mời hai thiền sư Pháp Thuận
và Vạn Hạnh làm cố vấn chính trị, thiền sư Vạn Hạnh được vua Lê Đại Hành
đích thân xin ý kiến về cuộc kháng chiến chống quân Tống vào năm 980.
Sang thời nhà Lý, thiền sư Vạn Hạnh đã cố vấn vua Lý Công Uẩn dời đô từ
kinh thành Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La, tức Thăng Long – Hà Nội ngày
nay, biến nơi đây thành một trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội. Đến thời
nhà Trần, sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm và Giáo hội Trúc Lâm, đã đánh
dấu thời kỳ mở đầu của tổ chức Giáo hội Phật giáo độc lập và thuần Việt tại
nước ta, khẳng định vị thế vững vàng của Phật giáo trong lòng dân tộc.
Hiện nay, tinh thần nhập thế của phật giáo vẫn được phát huy mạnh mẽ.
Phật giáo Việt Nam hơm nay đã có nhiều Phật sự ích đời, lợi đạo. Thông qua
hoằng dương Phật pháp, Phật giáo Việt Nam đã đưa đến cho người dân tư tưởng
sống trong Chính pháp, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, làm trịn nghĩa vụ
của người cơng dân, tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, thực

1

hiện xóa đói giảm
nghèo, xây dựng



cuộc sống mới văn minh tiến bộ. Trên con đường hành đạo của mình, Phật giáo
Việt Nam đã tích cực tham gia các phong trào như đền ơn đáp nghĩa, tri ân các
thương binh liệt sĩ, gắn liền với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt
Nam. Tham gia các chiến dịch nhân đạo ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; các
công tác từ thiện, nuôi dưỡng, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa,
người khuyết tật, người bị ảnh hưởng chất độc da cam, nuôi dạy trẻ em mồ côi,
trẻ em bị bỏ rơi.

Tinh thần nhập thế của Phật giáo xuất hiện ngay cả trong đời sống xã hội.
Đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang có những biểu hiện suy thối về đạo đức, lối
sống. Trong gia đình, hiện tượng ly hơn, ly thân, bạo lực gia đình,.. diễn ra ngày
càng nhiều, nhất là ở các cặp vợ chồng trẻ. Trước tình hình đó, Phật giáo nhập thế
đã ảnh hưởng khơng nhỏ tới đời sống xã hội thì nay càng phải nhập thế vào thế
tục nhiều hơn. Một trong những tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt
nam hiện nay là thông qua lễ Hằng Thuận. Đây là nghi lễ đặc biệt dành cho lễ
cưới được tổ chức tại chùa. Ngoài nghi lễ truyền thống của đám cưới như tuyên bố lý
do, trao nhẫn cưới, nhận những lời chúc phúc của hai họ thì nghi thức của lễ Hằng
Thuận trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật
cùng với những định hướng cụ thể giúp cho đơi vợ chồng có những kiến thức cần
thiết về cuộc sống hơn nhân, gia đình, từ đó nhận thức rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa
vụ và quyền lợi của vợ chồng và sống lạc quan hơn trên tinh thần giác ngộ. Hiện nay,
lễ Hằng Thuận giành được sự quan tâm rất lớn từ các bạn trẻ và là một trong những
khía cạnh được Giáo hội Phật giáo rất quan tâm đến. Có thể coi đây là nghi lễ mang
bản sắc văn hóa của dân tộc và cũng chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ của Phật giáo.
Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận được thể hiện rõ nét trong nghi lễ và cả giáo
lý của lễ Hằng Thuận, ngày càng có tác động tích cực đến cuộc sống hơn nhân của
nhiều gia đình trẻ ở Việt Nam. Xuất phát từ lý do trên, tôi đã lựa chọn vấn đề “ Tinh
thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu rõ


2

Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt


hơn những ảnh hưởng của tinh thần nhập thế của Phật giáo thông qua lễ
Hằng Thuận đến đời sống hôn nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Phật giáo là một tơn giáo lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn
hóa, xã hội của Việt Nam. Vì vậy khá nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu
về Phật giáo nói chung và tinh thần nhập thế của Phật giáo nói riêng. Tuy
nhiên, cơng trình nghiên cứu về lễ Hằng Thuận nói chung và tinh thần nhập
thế của lễ Hằng Thuận nói riêng vẫn cịn khá ít, mà chủ yếu là các bài viết đề
cập tới vấn đề này từ các góc độ khác nhau song chưa được nghiên cứu một
cách hệ thống, liên quan đến đề tài có một số cơng trình tiêu biểu sau:
Về Tinh thần nhập thế của Phật giáo, Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm
hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội
nhân văn số 1/2003) đã chỉ ra tinh thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ
ràng ở hai khía cạnh: “dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành
đạo”. Tác giả nhấn mạnh “tại thế gian giác” - việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ
thế gian của người tu sĩ Phật giáo.
Tác giả Đới Thần Kinh với “Thế tục hóa và thần thánh hóa” đã xuất phát từ
phân tích khái niệm thế tục hóa của tơn giáo nói chung khi các tơn giáo đều có xu
hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm sang lấy con người và xã hội loài
người làm trung tâm, từ đó đi đến khẳng định xu hướng của Phật giáo ở châu


Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường như đã đồng nhất khái niệm “nhập
thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết luận “dưới sự chỉ đạo của tinh thần
nhập thế, các tơn giáo tích cực tham gia bảo vệ hịa bình thế giới, thúc đẩy
các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ xã hội”.
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với bài viết “Vài nét về vấn đề “nhập thế”
của Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê” trong Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê
trong công cuộc dựng nước và giữ nước (Nxb Khoa học xã hội, 2010, tr. 3139) đã định nghĩa nhập thế với hai ý: đem đạo vào đời và đem đời vào đạo,
cách hiểu này đã phản ánh được phần nào khái niệm nhập thế.

3


Trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Toan với tên đề tài: “Tinh thần
nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông” đã chỉ ra được tinh
thần nhập thế của Phật giáo ngay từ buổi đầu của Đức Phật Thích Ca và tinh
thần nhập thế của Việt Nam trong tất cả khía cạnh văn hóa, xã hội. Đồng thời
làm sáng tỏ các giá trị trong Tinh thần Nhập thế Trần Nhân Tông.
Tác giả Đỗ Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và
toàn cầu hóa”. Trong bài viết này, tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật giáo trong xã
hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù hợp với thời đại mới,
từ đó chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay.

Cuốn sách do tác giả Nguyễn Kim Sơn làm chủ biên xuất bản năm
2018 với Phật giáo nhập thế và các vấn đề xã hội đương đại. Cuốn sách tổng
hợp các bài viết tham luận của nhiều học giả về tinh thần nhập thế của Phật
giáo. Trong đó khái niệm nhập thế, vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo nhập
thế được rất nhiều tác giả quan tâm và trình bày trong cuốn sách này.
Nhìn chung, các tác giả khi nghiên cứu về tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam đều nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái niệm
“nhập thế” không đồng nhất với khái niệm “thế tục hóa” của phương Tây.


Về lễ Hằng Thuận, có một số cơng trình tiêu biểu sau: Trong cuốn
Nghi thức lễ Hằng Thuận của Tỳ kheo Thích Chơn Khơng xuất bản năm
2014 là một cơng trình được biên soạn rất công phu dành cho thanh niên nam
nữ Phật tử khi thành hơn. Trong đó có giới thiệu nghi thức truyền Tam quy
Ngũ giới ngắn gọn xúc tích phù hợp với lễ Hằng Thuận và nhiều tiết mục
quan trọng khác, để chư Tơn đức Tăng Ni Trụ trì các tự viện tham khảo
hướng dẫn cho hàng Phật tử tại gia khi thành hơn.
Cuốn sách Những nét văn hóa đạo Phật của hịa thượng Phụng Sơn
xuất bản năm 2015 nói về những đóng góp của Phật giáo trong đời sống xã
hội. Bên cạnh đó, lễ Hằng Thuận được thầy nói đến là một nghi lễ trong
truyền thống văn hóa của người Việt.

4


Trong cuốn sách Đám cưới người Việt xưa và nay (2014), Bùi Xuân Mỹ
đã mô tả và xem "đám cưới tại chùa" là một trong những đám cưới “đặc biệt”.

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với tên đề tài “ Lễ Hằng
Thuận trong cưới hỏi ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Luận văn tập
trung nghiên cứu đặc điểm và nghi thức tổ chức lễ Hằng Thuận trong phạm
vi Thành phố Hồ Chí Minh. Thơng qua luận văn có thể biết được nguồn gốc,
diễn trình và vai trò của lễ Hằng Thuận.
Đề tài về lễ Hằng Thuận hiện nay chủ yếu được nghiên cứu từ các nhà
sư, nhà Phật học nên nguồn tài liệu vẫn chưa phong phú, chỉ được công bố
trong phạm vi Phật giới. Trong giới hạn của một số bài viết ngắn, bài báo tạp
chí, trên các phương tiện thơng tin đại chúng, một số tác giả chưa đi sâu vào
từng vấn đề cụ thể, chưa lý giải nhiều về nghi lễ.
Các công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích

cho tác giả đi sâu vào tìm hiểu vấn đề “Tinh thần nhập thế trong lễ Hằng
Thuận của Phật giáoViệt Nam hiện nay”.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của khóa luận là: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh
thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đề tài tiếp tục phân tích, làm rõ những nội
dung cơ bản của tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo. Từ đó rút ra ý
nghĩa của nghi lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam hiện nay.

Nhiệm vụ của khóa luận:
-

Làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt

Nam
- Phân tích nội dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật
giáo Việt Nam hiện nay
-

Rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hơn nhân gia đình ở

Việt Nam hiện nay.
4.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5


Đối tượng: Luận
văn tập trung nghiên


cứu tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo Việt Nam
hiện nay
Phạm vi nghiên cứu:
-

Nội dung nghiên cứu: Tinh thần nhập thế của Phật giáo trong

lễ Hằng Thuận ở Việt Nam hiện nay
-

Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2019 đến 4/2019
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Khóa luận dựa trên cơ sở
lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo.
Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành như
phân tích tổng hợp, lơgic - lịch sử, so sánh, v.v. để làm rõ vấn đề
nghiên cứu.
6.

Đóng góp của khóa luận

Khóa luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về tinh thần

nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của lễ Hằng Thuận đối với đời sống hơn
nhân gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Đóng góp về mặt thực tiễn của khóa luận: Khóa luận có thể
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, các vấn đề liên
quan đến tinh thần nhập thế của Phật giáo hay nghi lễ Hằng Thuận.
7.

Kết cấu của khóa luận

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tinh thần nhập thế và lễ Hằng Thuận
của Phật giáo

Chương 2: Nội

dung tinh thần nhập thế trong lễ Hằng Thuận của Phật giáo

Việt Nam

hiện nay
Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng
0,3 pt

Đã định dạng: Cô đọng 0,3 pt
Đã định dạng: Tiếng Anh (Hoa Kỳ), Cô đọng
0,3 pt

6



CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TINH THẦN NHẬP THẾ VÀ
LỄ HẰNG THUẬN CỦA PHẬT GIÁO

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm nhập thế
Khái niệm nhập thế là khái niệm khá phổ biến khi nói đến phật giáo
nói riêng và các tơn giáo nói chung. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn
ngữ học xuất bản năm 2004, nhập thế là “dự vào cuộc đời, gánh vác việc đời,
không đi ở ẩn theo quan niệm của nho giáo”. Quan điểm này tiếp cận khái
niệm nhập thế từ quan điểm của Nho gia về “xuất”, “xử”. Các nhà Nho xưa
ln cho rằng người qn tử phải đem trí óc của mình giúp đời, phị vua để
ổn định đất nước, chăm lo cho nhân dân.
Trong từ điển Nho, Phật, đạo của Lao Tử, Thịnh Lê giải thích khái niệm
nhập thế như sau: “Đạo gia cho rằng, tại gia mà tu đạo, đó có nghĩa là hịa nhập
theo thế tục mà lập thân hành đạo, cho nên gọi là công phu nhập thế. Như Lão
Tử thờ nhà Chu, Trương Lương phò nhà Hán, Lưu Cơ giúp nhà Minh hưng
thịnh, đều gọi là công phu nhập thế, để đối lập với công phu xuất thế. Hơn nữa,
nếu lại làm các việc đời để làm nên cơng đức sửa mình, giúp đời, độ thế hành
đạo, vì thế gian mà làm mọi đạo đức tế vật, tích lũy cơng danh để chứng đạo quả
thì đều là cơng phu nhập thế” [12, tr. 1001]. Khái niệm này mang chất của đạo
giáo, tác giả nhìn nhận nhập thế như một quá trình trong chỉnh thể tương tác biện
chứng giữa chứng đạo và độ thế hành đạo.

Dưới góc độ Phật giáo, ngay từ khi ra đời, tuy chưa đưa ra định nghĩa
cụ thể nhưng Đức Phật đã dẫn thuyết như sau: “Này các tỳ kheo, vì hạnh
phúc và an lạc cho quần sinh, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, hãy đi
mỗi người một ngã, đừng đi hai người trên một đường, vì lịng thương tưởng

cho đời hãy đem chánh pháp” [30, tr. 62]. Như vậy, là người xuất gia phải
đem đức của mình để cứu khổ cứu nạn cho tất cả các chúng sinh.
7


Có thể thấy, trong các tơn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, trong
q trình hình thành và phát triển luôn phải đối đầu với nghịch lý thần thánh
- thế tục, xuất thế - nhập thế. Những nghịch lý này thường nổi lên thành nhu
cầu cấp bách khi quan hệ tơn giáo với nhà nước, dân tộc có vấn đề làm ảnh
hưởng đến sự sống cịn của tơn giáo, dân tộc hoặc đôi khi là của cả hai. Mỗi
lần như vậy, buộc tôn giáo với xã hội thế tục phải xích lại gần nhau hơn bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Sự chủ động tiếp cận thực tế sống
động và vận dụng tư tưởng từ phía tơn giáo để giải quyết các vấn đề của xã
hội thế tục được gọi là nhập thế.
Có một số quan điểm đồng nhất giữa khái niệm nhập thế và thế tục
hóa. Tuy nhiên đây là hai khái niệm khác nhau. Thế tục hố có nguồn gốc từ
tiếng La tinh “seaculum” (the transfer of power to the secular). Khởi đầu từ
này được dùng trong bối cảnh văn hố Kitơ giáo, để chỉ việc chuyển giao
một số quyền lực chính trị, tơn giáo và lãnh địa vốn thuộc Giáo hội thần
thánh cho xã hội thế tục; như việc tách nhà trường, tòa án ra khỏi nhà thờ...
Dần dần, khái niệm thế tục hóa được dùng để mơ tả sự tự chủ hóa của các
hoạt động, các hình thức tư tưởng so với nền văn hóa truyền thống mà các
giá trị Kitơ giáo làm cơ sở. Đó cũng chính là “q trình cơng năng của một
bộ phận tơn giáo bị cơng năng xã hội có tính chất phi tơn giáo thay thế”.
Theo Tác giả Đỗ Quang Hưng, “q trình thế tục hóa liên quan đến sự giải
phóng hữu hiệu mối quan hệ giữa con người với thế giới mà không bị các
truyền thống tôn giáo kiềm chế. Kéo theo đó là việc thiết lập mối quan hệ về
luật pháp trong đó nhà nước hồn tồn trung lập về mặt tôn giáo đồng thời
dẫn đến sự hình thành một xã hội dân sự mà ở đó công dân được hưởng các
quyền về luật pháp cá nhân cũng như được giải phóng một cách tương đối

trong việc thực hành đời sống tôn giáo so với các học thuyết, giáo luật của
tôn giáo đã được giáo hội chế định” [10, tr. 62]. Có thể nói cách khác, đây là
q trình giải thiêng, giải thần thánh hóa của các tổ chức, thể chế xã hội và
chúng tách dần và độc lập khỏi tôn giáo.
8


Khái niệm nhập thế được dùng với nghĩa chỉ sự tham gia ngày càng
chủ động, tích cực thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tôn giáo, nhất là
trong bối cảnh xã hội hiện nay khi nhu cầu về tơn giáo ngày càng đa dạng
hóa. Các tơn giáo khơng chỉ đơn thuần đảm trách nhiệm về phần tâm linh mà
đã thực sự đóng vai trị tinh thần, văn hóa quan trọng của xã hội trong nhiều
phương diện của đời sống. Nói cách khác, nhập thế là sự mở rộng phạm vi
tham gia hoạt động của tơn giáo ra ngồi phạm vi tơn giáo, ví dụ như: chính
trị, kinh tế, ngoại giao, nghệ thuật, giáo dục.
Bên cạnh đó, nhập thế cịn là q trình xử lý mối quan hệ tơn giáo –
thế tục như tính hai mặt của tơn giáo. Một mặt, tơn giáo khơng tự nhiên sinh
ra, mà đó là kết quả của nhu cầu tinh thần, tâm linh của xã hội thế tục. Tơn
giáo là hình thái ý thức của xã hội, khơng có tơn giáo nào có thể tồn tại và
phát triển ngoài các nhu cầu tâm linh của đời sống xã hội. Mặt khác, tôn giáo
luôn thể hiện tính tâm linh siêu việt của nó đối với xã hội thế tục bằng sự
thần thánh hóa, thiêng liêng hóa. Xong tính siêu việt ấy khơng thể tự nó
chiêm ngưỡng mà phải gây sức hấp dẫn đối với xã hội thế tục. Khi tôn giáo
với xã hội thế tục có mối quan hệ tốt, đồng thời khi tơn giáo có thể chia sẻ,
bù đắp hoặc giải quyết nhiều vấn đề của xã hội thế tục thì sự lan tỏa và sức
mạnh của tơn giáo đó càng được củng cố, phát huy. Ngoài ra, tinh thần nhập
thế của các tơn giáo cịn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên
nhiều phương diện cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội.
Như vậy khái niệm nhập thế chỉ sự tham gia ngày càng chủ động, tích
cực, thâm nhập vào cuộc sống thế tục của các tơn giáo. Đồng thời, đó là q

trình xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội thế tục.
1.1.2. Khái niệm Phật giáo nhập thế
Phật giáo nhập thế được hiểu là “Đạo phật vào đời hay đạo phật nhập
cuộc” [17, tr. 222]. Theo Thích Nguyên Đạt, cách lý giải này là lời cổ vũ cho
Phật giáo nhập thế. Đồng thời, nó nói lên hai đặc điểm chính của nhập thế
trong Phật giáo:
9


Nhập thế là bản chất của đạo Phật. Bởi ngay từ khi đạo Phật ra đời, đích
Phật Thích Ca Mâu Ni tuy không nhắc đến khái niệm nhập thế, nhưng ngài ln
ln dạy các đệ tử của mình phải “đi vì lợi của nhiều người, vì hạnh phúc của số
đơng, vì lịng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người.
Các thầy hãy đi, đừng đi hai người cùng một hướng,hãy đi mỗi người một ngả,
hãy truyền bá Chánh Pháp” [27, tr. 1]. Như vậy, Đức Phật chỉ ra hướng đi của
đạo Phật là cuộc đời và xã hội, phương thức hành động phong phú, linh hoạt,
hoạt động đi vào đời và việc giác ngộ cần thực hiện đồng thời. Bàn về quan điểm
này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh tun bố “khơng bùn thì chẳng có hoa sen”, ngụ
ý bùn là trần thế, hoa sen là đạo Phật. Không tham gia việc đời, cứu khổ cứu nạn
thì khơng thể có đạo Phật được.

Đặc điểm thứ hai khi nói đến Phật giáo nhập thế đó là: Nhập thế là
hình thái Phật giáo của hiện đại và hậu hiện đại. Vào thế kỷ 20, thế kỷ mà thế
giới có rất nhiều biến động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào đầu
thế kỷ 20 và Cách mạng công nghiệp thứ 3 bắt đầu vào năm 1980 làm cho
thế giới có nhiều chuyển biến. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra kèm theo
là các bất ổn chính trị trên khắp tồn cầu khiến cho chúng sinh rơi vào cảnh
khổ cực. Trước tình hình đó, trào lưu “đạo Phật nhập thế” được khởi xướng
vào giữa thế kỷ này ở châu Á sau đó lan sang châu Âu, châu Mỹ bởi một số
nhà hoạt động Phật giáo đương đại có danh vọng quốc tế trong đó có Thiền

sư Thích Nhất Hạnh. Theo trào lưu này, những Phật tử nhập thể tích cực hiến
dâng cuộc đời của mình phục vụ cho con người và xã hội ở khắp nơi. Từ đó,
quan niệm cho rằng Phật giáo là tôn giáo tiêu cực tránh đời bị bác bỏ. Trào
lưu này phát triển rất mạnh mẽ và ngày càng phát triển đến tận ngày nay.
Chính vì vậy, Phật giáo nhập thế là một hình thái phù hợp của xã hội hiện đại
và hậu hiện đại.


Việt Nam, thập niên 30 của thế kỷ 20 xuất hiện khái niệm liên quan

đến khái niệm “Phật giáo nhập thế” là “Nhân gian Phật giáo”. Khái niệm này
xuất hiện lần đầu trên tờ báo Đuốc Tuệ. Theo đó, “nhân gian phật giáo” được
10


định nghĩa là “đạo Phật đóng vai trị dẫn dắt tinh thần với mục đích đem lại
những điều có lợi cho nhân gian” [22, tr. 349]. Khái niệm này có thể đồng
nhất với khái niệm “Phật giáo nhập thế” bởi vì cả hai khái niệm đều hướng
đến mục đích chung là đưa đạo phật vào trong xã hội thế tục để giúp người,
giúp đời.
Tuy nhiên, khái niệm “đạo Phật nhập thế” dễ gây ngộ nhận về bản chất
của Phật giáo. Bởi vì “nhập thế” nghĩa là vào đời, hiểu là ở một nơi nào đó
ngồi đời đi vào cuộc đời mà đạo Phật vốn ở trong đời và chưa hề ở ngoài
cuộc đời. Hơn nữa, khi nhắc đến “đạo Phật nhập thế” đồng thời cũng hàm chỉ
đến “đạo Phật xuất thế”. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần làm rõ khái niệm “xuất
thế” theo quan niệm của Phật giáo. Nhiều người hiểu sai lệch về khái niệm
“xuất thế”. Họ cho rằng “xuất thế” là tách xa cuộc đời, không màng đến đời
sống thực tiễn xã hội. Sự hiểu sai lệch đó dẫn đến hệ quả hiểu sai về đạo
Phật, cho rằng đây là tôn giáo tiêu cực, kéo lùi sự phát triển. Theo giáo lý
Phật giáo, “xuất thế” mang ý nghĩa ra khỏi những muộn phiền, đẩy những

dục vọng tham, sân, si ra ngồi cơ thể, tránh xa những ngơn ngữ và hành
động mang đến khổ đau cho mình và tồn xã hội.
Như vậy, khơng thể phủ nhận “xuất thế” theo ý nghĩa trên mang ý
nghĩa tích cực. Khái niệm “xuất thế” tưởng như mâu thuẫn với khái niệm
“nhập thế” nhưng chúng lại đồng nghĩa với nhau. Bởi lẽ muốn cho mình và
tất cả mọi người ra khỏi tham, sân, si, những dục vọng của bản thân thì cần
phải có con đường chính đạo, để tìm ra con đường chính đạo thì khơng đâu
khác là tìm trong cuộc sống, xã hội và con đường chính đạo là giúp bản thân
mình và giúp đời thốt khổ. Từ đây ta có thể kết luận, đạo Phật lấy trí tuệ hay
giác ngộ làm đầu, cho nên ở mọi khía cạnh đều thể hiện là đạo nhập thế. Phật
giáo nhập thế là quá trình tất yếu, phù hợp với xu thế vận động của thời đại,
sự phát triển của Phật giáo.
1.1.3. Khái niệm lễ Hằng Thuận
Lễ Hằng Thuận là một "thuật ngữ" khá thông dụng dùng để chỉ nghi
thức tổ chức lễ cưới trang nghiêm ở chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng
11


Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dịng họ. “Hằng” là thường
xun, là ln ln. Nghĩa là hai vợ chồng khi đã nên duyên thì trước thế
nào, sau thế đấy, chỉ sự thủy chung son sắt, đó là một trong các yếu tố quan
trọng để giữ gìn hạnh phúc gia đình. “Thuận” là hịa thuận, là đồng thuận
hướng về những điều cao thượng, chân thiện trong đời sống. Hằng Thuận
nghĩa là tùy thuận chúng sanh mà thực hiện hay Hằng Thuận nghĩa là thường
sống với nhau hòa thuận (được hiểu là theo đạo vợ chồng), tương kính
nhường nhịn lẫn nhau, cùng nhau vừa làm trịn trách nhiệm bổn phận của
người vợ người chồng trong đời sống gia đình, đối với ơng bà cha mẹ và con
cái; vừa hướng đến con đường tu tập giác ngộ giải thốt, trên cơ sở giữ gìn
ngũ giới, hành thập thiện và tu tập theo Bát Chính Đạo. Hai từ “Hằng Thuận”
gợi cho ta nhớ đến 10 nguyện của đức Phổ Hiền trong nguyện "tùy thuận

chúng sinh", nói lên tâm nguyện đem đạo vào đời. Đồng thời nó cũng làm ta
liên tưởng đến đạo đức truyền thống của dân tộc: "Thuận vợ thuận chồng tát
biển Đông cũng cạn".
Lễ Hằng Thuận là nghi thức tương đối đặc biệt dành riêng cho lễ cưới
được tổ chức trang nghiêm, trọng thể trong chùa. Nghi thức Hằng Thuận
trong ngày cưới mang đậm dấu ấn đạo đức tâm linh và trí tuệ của đạo Phật,
cùng với những định hướng, mục đích giúp cho gia đình hịa thuận, êm ấm,
giữ vững nề nếp gia phong và những giá trị văn hóa tốt đẹp của người Việt.
1.2. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam
1.2.1. Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong
lịch sử


Biểu hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp

dựng nước và giữ nước
Thứ nhất, thời kỳ Bắc thuộc: Thời kỳ đầu khi Phật giáo truyền vào
nước ta cũng là lúc phong kiến phương Bắc xâm lược và đặt ách đô hộ trên
đất nước ta. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã trở thành điểm tựa vững chắc về
tinh thần và tư tưởng của người dân nhằm chống lại sự đồng hóa của chính
12


quyền phương Bắc. Góp phần to lớn trong các phong trào đấu tranh giành
độc lập dân tộc suốt 1000 năm.
Tương truyền, ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam là chùa Thanh Vân Cổ
Tự (nay là chùa Yên Phú, thuộc xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, Thành phố
Hà Nội) do bà Phương Dung trụ trì. Nơi đây đã ni lớn hai vị tướng tài góp
sức cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là Trung Vũ, Đài Liệu. Hai ông được
Phương Dung ni dưỡng, văn tài võ lược, có năm hạn hán, hai vị ra tay cầu

mưa giúp dân, lại có năm lũ lụt, dân kêu cầu liền biến thành khúc đê ngăn lũ
cho dân. Khi Tô Định sang cướp nước, Phương Dung và hai con ni tham
gia phị Hai Bà Trưng đánh giặc. Năm Thiên Phúc đời Lê Đại Hành, bà
Phương Dung được phong là Hoàng Thái Hậu Tuệ Tĩnh Phu Nhân, Trinh
Thục Chí Đức Đoan Trang Cẩn Tiết Hồng Thái Hậu. Trung Vũ, Đài Liệu
được phong là Bản Cảnh Thành Hoàng Linh Phù Chi Thần, Hộ Quốc Khang
Dân Phù Vận Dương Vũ Uy Dực Thánh Bảo Cảnh Hiển Hữu Trợ Thuân
Linh Ứng Đại Vương.
Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nước ta tiếp tục bị chính quyền
phương Bắc đơ hộ. Trong thời kỳ này, rất nhiều các cuộc khởi nghĩa của
nhân dân ta nổ ra khiến cho chính quyền phương Bắc điêu đứng. Tuy nhiên
các cuộc khởi nghĩa đều bị thất bại.
Đến thế kỷ thứ VI, Lý Nam Đế cho xây dựng chùa Khai Quốc (nay là
chùa Trấn Quốc, Hà Nội) ngay sau khi đánh thắng quân nhà Lương và thành lập
nước Vạn Xuân. Việc dựng chùa và đặt tên là Khai Quốc thể hiện rõ ý thức văn
hóa, chính trị sâu sắc. Nhà nước Vạn Xuân là nhà nước Phật giáo, Phật giáo là
lực lượng nịng cốt góp phần xây dựng nhà nước Vạn Xuân. Nhận định về điều
này, Lý Khôi Việt viết: “đây là một sự khẳng định minh bạch, một sự dứt khoát,
một sự tuyên dương cơng trạng rõ ràng: Phật giáo đã có cơng trạng rất lớn trong
việc khai sinh ra một nước độc lập (Khai Quốc), Phật giáo là chủ đạo văn hóa –
chính trị của chính quyền mới, là quốc giáo của triều đại. Khơng những thế, đây
cịn là một bản tun ngơn hùng hồn, độc
13


lập chính trị cũng như độc lập văn hóa, đối với đế quốc phương Bắc” [13, tr.
18 – 19].
Sau Lý Nam Đế, một thủ lĩnh tự xưng là Lý Phật Tử đã dựng cờ khởi
nghĩa chống lại nhà Tùy. Cuộc khởi nghĩa đã quy tụ được đông đảo Tăng Ni,
Phật tử vào đấu tranh nhằm lấy lại nền độc lập tự chủ của đất nước. Cuộc

khởi nghĩa thất bại, nhưng Lý Phật Tử được nhân dân rất mến phục. Sau khi
chết, nhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi.
Thứ hai, thời phong kiến độc lập tự chủ: Sau chiến thắng trên sông
Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, nước ta hồn tồn độc lập chấm dứt
ách đơ hộ gần 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên mới
cho dân tộc, đó là kỷ nguyên độc lập tự chủ. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc
này là xây dựng bộ máy chính quyền, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này.
Trong hồn cảnh đó, Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển và xâm nhập sâu vào
các tầng lớp trong xã hội. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của các bậc cao tăng
tài đức vẹn toàn, sau này góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp dựng nước và
giữ nước của các triều đại sau như Đại sư Khuông Việt, thiền sư Đỗ Pháp
Thuận, thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Viên Thông.
Đại sư Khuông Việt đã từng giúp triều Đinh và triều Tiền Lê trong việc
phục hưng đất nước sau 1000 năm Bắc thuộc. Khi quân Tống kéo sang xâm
lược nước ta, vua Lê Đại Hành sai Đại sư cầu đảo cho quân sĩ ở chùa Vệ
Linh (nay thuộc Hà Nội). Nhờ đó, tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc càng
được giữ vững và tăng cường trong lòng quân sĩ. Trên mặt trận ngoại giao,
Đại sư đã viết bài “Ngọc lang quy” tiễn sứ thần nhà Tống về nước. Sau này,
Lê Quý Đôn đã hết sức ca ngợi bài Ngọc lang quy của Đại sư như sau:
“Nước ta từ khi gây dựng, văn minh khơng kém gì Trung Quốc. Bài Từ vua
Tiền Lê tiễn Lý Giác nhà Tống lời lẽ nõn nà, có thể vốc được” [5, tr.24].
Cùng với Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận cũng được
vua Lê Đại Hành mời tham gia vào bộ máy chính quyền triều đình. Ơng từng
được vua tham vấn về vận nước, điều đó cho thấy vua Lê Hồn rất đề cao
14


Phật giáo. Tư tưởng trị nước của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận mang đậm chất từ
bi của đạo Phật, đồng thời đề cao sự bình đẳng tinh thần đồn kết dân tộc.
Theo ơng, để đất nước thái bình, triều đại trường tồn, việc quan trọng nhất là

đoàn kết toàn dân. Để đất nước được n ổn, khơng có trộm cướp và bất
cơng, thì vua và triều đình cần phải hành xử vì quyền lợi của người dân. Năm
1005, ngay sau khi Lê Hoàn mất, một cuộc chém giết kinh hoàng để tranh
giành ngôi báu diễn ra giữa các con của Lê Hồn. Lê Long Tích bị giết ở
Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh), Lê Long Kích bị giết ở Phù Lan (nay thuộc
huyện Mỹ Văn, Tỉnh Hưng Yên), Lê Long Việt giành ngôi mới được ba ngày
cũng bị giết em ruột Lê Long Đĩnh giết hại ngay và cướp ngôi. Với lịch sử,
Lê Long Đĩnh là một vết nhơ, hơn thế nữa, còn thực sự là một đại họa. Quốc
Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành
ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể
được” [18, tr. 5].
Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc, Thiền sư Vạn Hạnh tuy
giúp triều Tiền Lê, nhưng đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi vua
vào năm 1009, lập ra một triều đại thịnh trị trong lịch sử Việt Nam. Lời nhận xét
của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh
vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua
hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lịng độ
lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời
thuần từ nhất trong lịch sử nước ta” [11, tr. 424]. Như vậy, Phật giáo đời Lý đã
hun đúc nên những ông vua Phật Tử thuần thành.

Dưới triều đại của vua Lý Thần Tông, Thiền sư Viên Thông được
phong Quốc sư và hai lần được trao quyền lãnh đạo đất nước nhưng kiên
quyết từ chối. Sở dĩ ông được vua kính trọng như vậy là bởi ơng có tư tưởng
trị Quốc dựa vào đức chứ không dựa vào pháp: “Đức hiếu sinh của nhà vua
thấm nhuần đến nhân dân, thì nhân dân yêu mến vua như cha mẹ, tơn kính
vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy” [31, tr.
183].
15



Dưới triều Trần, Phật giáo vừa là chất xúc tác, vừa là lực lượng chủ
yếu trong việc tạo dựng sự đoàn kết giữa nhân dân với tầng lớp lãnh đạo đất
nước. Các vua nhà Trần đều là Phật tử có trình độ Phật học uyên thâm, lấy tư
tưởng dân vị bản để trị nước. Trần Nhân Tông hiểu sâu sắc về triết lý “Thế
trận lòng dân” và vận dụng rất thành công trong ba cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên – Mông, kẻ thù hung hãn và mạnh nhất thời bấy giờ. Thiền
phái Trúc Lâm ra đời với bậc sơ tổ là Phật Hồng Trần Nhân Tơng. Thiền
phái này đề cao sự tự ngộ, nỗ lực rèn luyện của mọi người. Theo ơng, “sống
mà khơng giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Từ đó có
thể thấy vì Phật Hồng này rất đề cao tinh thần nhập thế của Phật giáo.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, nhờ tinh thần nhập
thế của nhà Phật, Trần Nhân Tơng đã xây dựng được khối đồn kết toàn dân. Kế
sách “khoan thư sức dân làm sâu rễ bền gốc” của ông phản ánh tinh thần bao
dung và đặt Quốc gia xã tắc lên trên hết, đó cũng là tinh thần được kế thừa từ vua
ông Trần Thái Tông. Thực tế điều kiện lịch sử Đại Việt lúc đó, thế giặc mạnh
nhưng lịng u nước căm thù giặc của quân dân ta đang ngụt cháy. Theo nguyện
vọng tấm lịng của qn sỹ, Trần Nhân Tơng đã quyết định cầm quân đánh đuổi
ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Nhưng Phật dạy giới đầu tiên trong Ngũ giới là không
sát sinh. Thượng Sỹ đã lập luận: “đạo Phật cấm sát sinh, song giết giặc cứu dân
khơng có gì là trái đạo”. Vua Trần Nhân Tơng tiếp tục lập luận đó là giết một
người để cứu trăm ngàn người thì khơng có gì là trái với đạo, mà ngược lại đã
hành rất đúng với đạo từ bi của nhà Phật.

Có thể nói, hai triều đại Lý – Trần là hai triều đại phong kiến tồn tại
lâu dài nhất và cường thịnh nhất trong lịch sử nước ta. Đây cũng là hai triều
đại hiếm hoi về việc chuyển giao quyền lực diễn ra hịa bình. Một trong số
những ngun nhân dẫn đến điều đó là cả hai triều đại này đều coi Phật giáo
là quốc đạo, trị nước bằng đức với tư tưởng chủ đạo là khoan dung, độ
lượng, hiếu hòa của đạo Phật đã thấm nhuần suốt mấy trăm năm trong mọi

tầng lớp của người Việt.
16


Theo quy luật của lịch sử, vương triều dù có thịnh đến đâu cũng sẽ có
lúc suy tàn. Những năm cuối thời Trần, vua quan chỉ lo ăn chơi không quan
tâm đến việc triều chính, cơ nghiệp nhà Trần dần suy tàn. Năm 1400, Hồ
Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra triều Hồ. Chính quyền của Hồ quý Ly đề
cao Nho giáo. Mặc dù có nhiều cải cách theo các nhà sử học hiện đại đánh
giá là tiến bộ, đi trước thời đại như chính sách hạn điền hạn nô, nhưng Hồ
Quý Ly quên mất một trong những tư tưởng trị nước quan trọng nhất đó là
“lấy dân làm gốc”. Vì vậy chính quyền triều Hồ khơng được nhân dân tin
theo nên đã thất bại trước sự xâm lược nhà Minh, đất nước ta lại rơi vào
vịng nơ lệ. Trong hồn cảnh đó, với truyền thống u nước của nhân dân ta,
rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi, các Tăng Ni Phật tử thời kỳ này
trở thành lực lượng lớn cùng với nhân dân khởi nghĩa. Trong đó, khơng thể
khơng kể đến cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc. Sư Phạm Ngọc ở chùa
Đồ Sơn (Hải Phịng) cùng nhóm nghĩa qn thành lập chính quyền kháng
chiến, tự xưng là La Bình Vương. Cuộc khởi nghĩa nhận được sự ủng hộ
đông đảo của quần chúng nhân dân trong vùng trung du và đồng bằng Bắc
Bộ gây tổn thất không nhỏ cho quân Minh.Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại
nhưng ta thấy được tinh thần nhập thế của phật giáo, khi đất nước lâm nguy
Phật giáo không trốn tránh cuộc đời mà đứng ra đấu tranh vì dân vì nước.
Triều Hậu Lê và triều Nguyễn đề cao Nho giáo, coi đó là Quốc giáo
của đất nước, Phật giáo khơng cịn giữ vị trí độc tơn như trước nhưng trên
thực tế, Phật giáo vẫn ảnh hưởng rất lớn trong lòng xã hội Việt Nam.
Thứ ba, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Từ năm 1884,
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp bằng việc ký hiệp ước Harmand
(1883), Patenotre (1884). Tuy nhiên, khơng vì thế mà nhân dân ta chịu nhục
nhìn đất nước rơi vào tay ngoại bang. Rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp

nổ ra. Phật giáo nhập thế lại lần nữa phát huy truyền thống nhập thế của
mình trong sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc.

17


Một trong các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đó là phong trào Cần Vương.
Lấy danh nghĩa phò vua Hàm Nghi cứu nước, phong trào Cần Vương đã quy
tụ được rất nhiều văn thân sĩ phu yêu nước đứng lên chống Pháp như Hoàng
Diệu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật. Vương Quốc Chính theo tiếng
gọi của vua Hàm Nghi cũng hăng hái ra phị vua giúp nước. Ơng là bạn thân
của Nguyễn Thiện thuật, người làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải
Dương (nay thuộc Thành phố Hải Phịng). Ơng tham gia phong trào Cần
Vương ngay từ những năm đầu phát động. Sau nhiều lần thất bại của phong
trào, ông bị truy nã phải ẩn vào chùa Ngọc Long Động, nay thuộc Chương
Mỹ, Hà Nội. Năm 1895, ơng xuống tóc, khốc áo cà sa, thực chất là đổi
phương thức kháng chiến. Nhận thấy Phật giáo có tác động lớn đến quần
chúng nhân dân, ơng lập Hội Thượng Chí với phương pháp “khôi phục nhà
Lý, giành lại độc lập dân tộc”, thực chất là dựa vào uy tín của phật giáo để
huy động sức mạnh dân tộc. Bởi triều Lý là triều đại Phật giáo thịnh nhất.
Sau khi lập Hội Thượng Chí, Vương Quốc chính tìm một người họ Lý là Lý
Thiếu Qn tơn làm minh chủ, cịn mình làm qn sư. Khi cuộc khởi nghĩa
Yên Thế nổ ra, Vương Quốc Chính liên lạc với Hoàng Hoa Thám nhằm hiệp
đồng chiến đấu. Ngày 22-10-1989, hội Thượng Thế công bố tuyên cáo, đề
cập đến tư tưởng, nghĩa vụ, kỷ luật, thưởng phạt. Nghĩa quân của Vương
Quốc Chính cho rằng thời cơ khởi nghĩa là lúc Pháp phân mỏng lực lượng để
sang Trung Quốc chiến tranh. Tuy nhiên, Trương Công Bỉnh, một thành viên
trong nghĩa quân bị bắt trên đường đi công cán. Sợ bị bại lộ, nghĩa quân
quyết định khởi nghĩa vào đêm 5-12-1898 nhân dịp có Hội chợ tại Hà Nội.
Cuộc khởi nghĩa quy tụ được rất đông nhân dân tham gia. Tuy thất bại nhưng

thực dân Pháp phải mất rất nhiều công sức mới dập tắt được.
Cùng năm 1898, ở miền Trung diễn ra cuộc khởi nghĩa do nhà sư Võ Trứ
lãnh đạo. Ơng là người làng An Nhơn tỉnh Bình Định, là đệ tử của sư trụ trì chùa
Đá Bạc (thầy từng tham gia phong trào Cần Vương). Nhà sư Võ Trứ là người nổi
tiếng nhân hậu và có tài. Ông có trong tay rất nhiều nghề đặc biệt
18


là nghề thầy thuốc. Chính vì vậy, thầy có điều kiện tiếp xúc, vận động mọi
tầng lớp nhân dân tham gia khởi nghĩa. Lực lượng đông đảo nhất của nghĩa
quân là nhân dân hai tỉnh Bình Định và Phú yên. Chính vì vậy, hầu hết các
chùa ở hai tỉnh này đều là căn cứ của nghĩa quân. Dịp lễ Vu Lan năm 1897,
Võ Trứ cùng Trần Cao Vân mở hội nghị tại Tuy An (Phú Yên) để bàn về việc
chuẩn bị lực lượng, sắm khí giới nhằm phát động cuộc khởi nghĩa chống
Pháp. Mậu Tuất năm 1898, nước ta xảy ra mất mùa, đói kém kèm với sưu
cao thuế nặng ở khắp nơi khiến cho lòng dân đã căm phẫn này càng căm
phẫn hơn. Nhận thấy đây là thời cơ thích hợp, hơn nữa nghĩa qn của ơng bị
lộ nên ông quyết định khởi nghĩa. Mùa hè 1897, thầy tập hợp nghĩa quân
ở huyện Đồng Xuân, tiến về xuôi đánh chiếm huyện lỵ, sông Cầu. Nhưng
cuộc khởi nghĩa bị đàn áp dữ dội. Các nhà tù ở Phú Yên, Bình Định chật
ních các nhà sư. Vì vậy Thực dân Pháp gọi đây là “Cuộc chiến tranh thầy
chùa” [14, tr. 24].
Hai cuộc khởi nghĩa diễn diễn ra trong năm 1898 đều được sự yểm trợ
của đông đảo Tăng Ni, Phật tử. Tuy thất bại nhưng “Phật giáo đã trở thành
lực lượng chủ yếu trong phong trào kháng chiến” [14, tr. 25] vào những năm
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau thất bại của phong trào Cần Vương.
Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, Tăng Ni, Phật tử đã có những
đóng góp cả về lực lượng lẫn trí tuệ vào thắng lợi của nước nhà. Là nguồn
lực chủ yếu để Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tiếp tục cùng toàn dân đưa sự
nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Phật giáo nhập thế đã
chứng tỏ được mình trong cách mạng. Nhiều Tăng Ni, Phật tử miền Bắc đã
mạnh dạn cởi áo cà sa, khốc chiến bào tịng qn đánh giặc trong kháng chiến
chống Pháp. Ở thời kỳ chống Mỹ nhật là giai đoạn Mỹ - Diệm, cuộc biểu dương
lực lượng của Tăng Ni, Phật tử đấu tranh chống chế độ độc tài của gia đình họ
Ngơ - Đình và Mỹ vào miền Nam năm 1963 là một minh chứng đỉnh cao cho
tinh thần và hoạt động nhập thế của Phật giáo. Sự kiện hòa
19


×