Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tiếng việt 1 CGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.03 KB, 16 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến
Đất nước ta đang bước vào thời kì đởi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
“Cơng nghiệp hố- Hiện đại hố” đất nước đòi hỏi những con người năng động,
sáng tạo, tự chủ, tự tin, có đầy đủ tri thức, dám nghĩ dám làm để làm chủ đất
nước. Chính vì thế, Nghị quyết số 29-NQ/TW Hợi nghị Trung ương 8 (khóa XI)
đã đặt ra: "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế".
Giao tiếp là nhu cầu đặc biệt hằng ngày và rất quan trọng của mỗi con
người. Dù bạn ở trong hoàn cảnh nào, làm việc gì thì để đạt được mục tiêu của
mình đòi hỏi bạn phải có giao tiếp. Khả năng giao tiếp của bạn phụ thuộc vào các
kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của chính bản thân bạn. Ở nước ta, Tiếng Việt là môn
học rất quan trọng của bậc Tiểu học, làm nền móng để học tốt các mơn học khác
và là tiền đề tạo nên cơ sở vững chắc cho nền giáo dục của nước nhà. Nhận thức
rõ tầm quan trọng của môn Tiếng Việt đối với nền giáo dục của nước nhà nên
môn học Tiếng Việt Một được đổi mới cho phù hợp với xu thế phát triển của nền
giáo dục.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là trọng tâm trong
công tác đổi mới giáo dục. Do vậy, kiểu dạy học thầy giảng - trò ghi nhớ trở nên
lạc hậu, không còn đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất và sự tiến bộ khoa
học công nghệ. Giáo dục đứng trước sức ép phải đổi mới, nhiều phương án dạy
học đã ra đời, như: dạy học chương trình hóa, nêu vấn đề, dạy học tình huống,…
Trong đó, cơng nghệ dạy học (CNDH) là mợt chiến lược dạy học đang dần xác
định và chiếm ưu thế. Dạy học theo chương trình Cơng nghệ giáo dục là kiểu dạy
mà trẻ em không phải là đối tượng chịu sự tác động của giáo dục một cách thụ
động, mà là một chủ thể hoạt động để tự sinh ra mình, trẻ em hoạt đợng để tự tạo
ra sản phẩm giáo dục, để trở thành cá thể người, một thành viên của xã hợi có thể
sống và hoạt đợng có kết quả trong xã hợi hiện đại. Cũng như các năm học trước,
năm học 2018 – 2019, việc dạy Tiếng Việt theo Công nghệ giáo dục được áp


dụng trong tồn tỉnh Quảng Bình. Thực hiện dạy tốt chương trình TV1 CGD 1 là
thực hiện tốt việc đổi mới căn bản và tồn diện Giáo dục- Đào tạo. Để góp phần
nâng cao chất lượng của việc dạy học TV1 CGD, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD”
1.2. Điểm mới của sáng kiến

1


Thực tế có nhiều cơng trình nghiên cứu về việc học công nghệ Tiếng Việt 1
của Giáo sư Hồ Ngọc Đại. Tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu điểm
giống nhau và khác nhau giữa chương trình Tiếng Việt hiện hành và chương trình
Tiếng Việt Cơng Nghệ, nghiên cứu ưu thế của việc dạy Tiếng Việt Công Nghệ
chứ chưa đưa ra được biện pháp cụ thể để giúp đỡ học sinh.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra các giải pháp trong dạy học khơi
dậy sự tò mò, sáng tạo, chủ đợng của học sinh. Từ đó giúp các em từng bước tự
điều chỉnh chính mình trong việc tự tìm tòi khám phá tri thức chứ khơng ai có thể
làm thay được, khơi dậy lòng yêu thích học Tiếng Việt trong học sinh, giúp các
em mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học tốt môn CGD 1. Đồng
thời sáng kiến cũng đưa ra một số phương pháp giúp GV và HS vận dụng và thực
hiện tốt việc dạy và học Tiếng Việt CGD.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Nghiên cứu sáng kiến, tơi khơng có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục
đích đóng góp mợt phần cơng sức của mình để có những biện pháp hữu hiệu, bài
học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn dạy học TV1 CGD ở trường nói
riêng và giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài
thành cơng, chất lượng dạy học được nâng cao đáp ứng với định hướng đổi mới
giáo dục hiện nay.
Đề tài này nghiên cứu chương trình và nguyên tắc xây dựng chương trình
Tiếng Việt CGD. Qua đó đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học TV1

CGD theo hướng tích cực hóa hoạt đợng học tập của học sinh. Đây là nội dung
mới được đưa vào dạy học trong năm học này nên tôi chỉ mạnh dạn nghiên cứu,
áp dụng tại lớp 1 nơi tôi đang công tác.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của của dạy học môn Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục
2.1.1 Thuận lợi
Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Quảng Ninh đã triển khai kịp thời các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chương trình Tiếng Việt 1 - CGD đến các
trường tiểu học trong huyện. Đồng thời tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý và
giáo viên về phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 - CGD.
Ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng và giành nhiều
thời gian dự giờ, rút kinh nghiệm, giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc trong
quá trình dạy học.
Cơ sở vật chất của nhà trường ngày mợt khang trang, đợi ngũ giáo viên có
năng lực, trình đợ chun mơn nghiệp vụ vững vàng và có tinh thần trách nhiệm
cao.
2


Học sinh chăm ngoan, lễ phép và có ý thức học tập tốt. Đa số phụ huynh
luôn quan tâm đến việc học tập của con em và đồng thuận với các hoạt động dạy
học của nhà trường.
Sau 3 năm khi thực hiện chương trình tơi nhận thấy việc dạy học TV1
CGD giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc, viết; học sinh nắm được luật chính tả,
nhận biết và phân tích được cấu tạo của tiếng, từ, giúp học sinh khắc sâu kiến
thức ngữ âm. Bên cạnh đó chương trình còn tạo được sự chuyển biến khá tích cực
đối với giáo viên và học sinh. Với học sinh, các em nghe – hiểu được lệnh, hiểu
được lời nói của giáo viên, giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, nâng cao kĩ
năng giao tiếp cho các em. Riêng với giáo viên dạy TV1 CGD khơng phải soạn
bài nên có nhiều thời gian để quan tâm đến học sinh hơn, có thời gian nghiên cứu

tài liệu để tở chức thực hiện tốt hơn hoạt đợng dạy học.
2.1.2 Khó khăn
Chương trình Tiếng Việt 1- CGD dạy bản chất ngữ âm tiếng Việt. Hệ thống
ngữ âm tiếng Việt đa dạng về nội dung nên giáo viên cần nhiều thời gian để
nghiên cứu.
Chương trình này còn nhiều bỡ ngỡ với học sinh lớp 1. Ngay bài đầu tiên,
nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết chính tả. Trong quá trình học,
các em còn phải phân biệt được các mẫu bài, dạng bài, biết tiếng có âm đầu, tiếng
có âm chính, tiếng có âm đệm, âm cuối… Trước đây, học hết 8 tuần, các em
tḥc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm, tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh
đã phải đọc những bài dài tới 50 tiếng. Cụ thể: Khi dạy bài "Âm /tr/ sách Tiếng
Việt CGD tập 1 trang 60, 61 học sinh phải đọc tới 50 tiếng chưa kể đọc 7 phụ âm
ở cuối trang. Bài đầu tiên của phần vần có âm đệm và âm chính sách Tiếng Việt
CNGD tập 2 trang 8, 9 học sinh phải đọc tới 65 tiếng. Chưa nói đến những bài
tập đọc ở phần sau tập 3 quá dài, dài hơn những bài tập đọc lớp 2 chương trình
hiện hành….Do đó mợt số em tiếp thu bài khó, bị đuối sức khi cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ học tập.
Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt 1 - CGD là sự phối hợp giữa phương
pháp dạy học hiện đại và truyền thống, tuy nhiên, trong q trình dạy, đơi khi
giáo viên quá tập trung đến việc truyền thụ kiến thức mà quên đi việc tổ chức các
hoạt động gây hứng thú, thu hút học sinh.
Trình đợ phát triển tư duy của học sinh không đồng đều, các em chưa mạnh
dạn bày tỏ ý kiến của mình cho người khác nghe, khi trả lời còn lúng túng. Bên
cạnh đó mợt số em còn quên chữ cái nên gặp khó khăn trong việc đọc và nghe
viết. Do ảnh hưởng của chương trình hiện hành nên học sinh còn nhầm lẫn trong
cách phát âm, vần như: r/d/gi; uông, ua, iêng; của/quả...
3


Các bợ phận của bợ máy phát âm chưa hồn thiện nên học sinh lớp một

thường phát âm sai các âm cơ bản như: p (pờ) phát âm sai là (bờ), ph (phờ) phát
âm sai là (hờ)...; phát âm lẫn lộn giữa các âm: ch- tr, s - x, r - g, v- b,t - c...Đặc
điểm phương ngữ nên nhiều em phát âm sai giữa tiếng có thanh hỏi và thanh ngã.
Do ảnh hưởng của dư luận trái chiều nên một số phụ huynh còn hoang
mang, chưa thật sự tin vào chương trình Tiếng Việt 1 – CGD. Đa số phụ huynh
còn lúng túng trong việc hướng dẫn con em đánh vần, phát âm nên gây khó khăn
cho việc học và dạy trên lớp.
2.1.3. Nguyên nhân
Từ những nội dung được tìm hiểu trên, ta có thể thấy ngun nhân chủ yếu
dẫn đến thực trạng dạy học TV1 CGD đó là:
- Một số phụ huynh quan tâm rèn thêm cho học sinh ở nhà nhưng không
đúng với phương pháp của thiết kế, khiến giáo viên gặp nhiều khó khăn trong
việc hướng dẫn học sinh.
- Sự tham gia học tập không chuyên cần của học sinh trong năm đều gặp
khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và theo kịp chương trình.
2.2. Các biện pháp dạy học TV1 CNGD
2.2.1. Giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, phương pháp
dạy học Cơng nghệ giáo dục.
Giáo viên cần nắm được quan điểm, mục tiêu, biện pháp dạy học cơ bản
của chương trình. Dạy Công nghệ giáo dục, giáo viên không soạn bài nhưng phải
dành nhiều thời gian nghiên cứu kĩ thiết kế để nắm được mục tiêu và từng việc
cần phải làm trên lớp, hiểu rõ ý đồ sách thiết kế, thực hiện đúng quy trình 4 việc
của tiết dạy.
Căn cứ vào khung chương trình quy chuẩn về thời gian, dung lượng kiến
thức và mục tiêu chung của phân môn. TV1 CGD chia làm 37 tuần (10 tiết/tuần),
bao gồm:
Phần chuẩn bị: Tuần 0 ( 2 tuần) học cách làm việc.
Học kỳ I: Tuần 1 đến tuần 17 (học phần âm và vần)
Học kỳ II: Tuần 18 đến tuần 35 (tiếp tục học vần, nguyên âm đôi và luyện
tập tổng hợp).

Phương pháp thực hiện chương trình
Phương pháp Mẫu: Lập mẫu, sử dụng mẫu
Phương pháp Việc làm là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây dựng
trên cơ sở sự hợp tác mới giữa thầy và trò. Trong đó, thầy tở chức việc học của
trò thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự
làm lấy.
4


Công nghệ giáo dục cũng dung nạp một số phương pháp truyền thống như:
Nêu vấn đề, trực quan, vấn đáp...coi đó như những hình thức, thủ pháp dạy học
nằm trong hệ thống của mình.
Quy trình dạy học gồm 3 loại:
Loại 1 : Tiết Lập mẫu: Gồm 4 việc
Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm (chiếm lĩnh đối tượng)
Việc 2: Viết
Việc 3: Đọc
Việc 4: Viết chính tả
Loại 2: Tiết Dùng mẫu
Quy trình tiết Dùng mẫu giống quy trình của tiết Lập mẫu. Chủ yếu là tổ
chức cho học sinh luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với tiết Lập
mẫu. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là phải nắm chắc quy trình tiết Lập
mẫu, chủ đợng, linh hoạt trong q trình tở chức tiết học sao cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
Loại 3: Tiết Luyện tập tổng hợp
Quy trình 4 việc ở tiết Luyện tập tổng hợp được sắp xếp lại nhằm tập trung
vào 2 kĩ năng đọc và viết:
Việc 1: Ngữ âm
Việc 2: Đọc
- Bước 1: Chuẩn bị

- Bước 2: Đọc bài
+ Đọc nhỏ
+ Đọc mẫu
+ Đọc bằng mắt
+ Đọc nối tiếp
+ Đọc to
+ Đọc đồng thanh
+ Đọc hiểu (tìm hiểu bài)
Việc 3: Viết
Việc 4: Viết chính tả
Để dạy tốt lớp 1 CGD khơng có cách nào hơn là phải tḥc Thiết kế và
thành thạo các thao tác, bởi vậy ngay từ đầu, mỗi giáo viên cần phải tranh thủ đọc
thiết kế và tập dạy trong nhóm; tập theo từng loại mẫu, quan trọng nhất là phải
nhớ đúng quy trình của các mẫu.
Ngoài việc tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, chuyên đề của nhà trường và
cấp trên tổ chức, tôi đã thường xuyên tìm đọc các tài liệu, tham khảo qua mạng
Internet để nắm chắc chương trình, cấu trúc ngữ âm và quy trình dạy Tiếng Việt 1
- CGD.
Khi tham gia các chuyên đề, tôi đã mạnh dạn chia sẻ để tháo gỡ những
khó khăn gặp phải trong q trình dạy học.
2.2.2. Bồi dưỡng vốn kiến thức ngữ âm tiếng Việt
5


Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với giáo viên dạy học
Tiếng Việt 1 - CGD là hiểu được các khái niệm ngữ âm tiếng Việt và ḷt chính tả
được thiết kế trong chương trình. Đó là cơ sở vững chắc giúp giáo viên làm chủ
các hoạt đợng dạy học. Nhận thức rõ u cầu đó nên ngay từ khi được phân công
dạy lớp 1, tôi đã dành nhiều thời gian tập trung nghiên cứu kĩ kiến thức ngữ âm
tiếng Việt để phục vụ tốt cho việc dạy học của mình.

Trong hệ thống kiến thức ngữ âm, tôi đã lưu ý đến cấu tạo về cách phát
âm, đặc điểm, các vị trí của mơ hình của âm tiết tiếng Việt. Phân loại âm tiết
tiếng Việt và sự biến hóa ngữ âm.
Nắm chắc hệ thống ngữ âm tiếng Việt: Hệ thống phụ âm đầu, hệ thống
âm đệm; hệ thống âm chính; hệ thống âm cuối; thanh điệu, ngữ điệu.
Trong đó mối qua hệ giữa âm và chữ được đặc biệt chú ý. Từ âm sang
chữ gọi là viết, từ chữ sang âm gọi là đọc. Mỗi một chữ chỉ có mợt âm. Nhưng
mợt âm có thể có 1/2/3/4 chữ (cách viết).
- Âm /gờ/ được viết bằng hai cách: g/gh
- Âm /iê/ được viết bằng bốn cách: iê/yê/ia/ya
- Âm /ngờ/ được viết bằng hai cách: ng/ngh
- Âm /uô/ được viết bằng hai cách: uô/ua
- Âm /cờ/ được viết bằng ba cách: c/k/q
- Âm /ươ/ được viết bằng hai cách: ươ/ưa
Luật chính tả là một phần kiến thức cơ bản trong chương Tiếng Việt 1Cơng nghệ giáo dục, góp phần xử lí triệt để mối quan hệ giữa âm và chữ. Do vậy,
tôi đã đi sâu nghiên cứu luật chính chính tả e/ê/i; luật chính tả về âm đệm; luật
chính tả về nguyên âm đôi /ia/, /ua/, /ưa/; luật ghi dấu thanh.
2.2.3 Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học
Chương trình Tiếng Việt 1 - CGD là sự kết hợp giữa phương pháp dạy học
hiện đại và phương pháp dạy học truyền thống. Chương trình đã tiếp cận cao đến
u cầu tích cực hóa hoạt đợng học tập của học sinh chuyển từ thiết kế bài học
theo 5 bước lên lớp truyền thống sang 4 việc, dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo
viên, học sinh tự chiếm lĩnh tri thức và hồn thiện kỹ năng mợt cách tối đa nhất.
Bởi vậy trong q trình dạy học, tơi đã vận dụng những ưu điểm của
phương pháp dạy học theo mơ hình trường học mới, đồng thời kết hợp với quy
trình 4 việc theo các dạng bài. Trong các tiết học, tôi thường vận dụng các
phương pháp: phương pháp làm mẫu, phương pháp phân tích mẫu, phương pháp
hỏi đáp, phương pháp trực quan. Đồng thời kết hợp các hình thức dạy học như
học theo lớp, theo tở, theo nhóm, theo cá nhân.


6


Câu lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. Học sinh thực hiện theo
đúng yêu cầu của giáo viên hoạt động giữa giáo viên - học sinh cần diễn ra nhịp
nhàng. Các hoạt động của lớp cần phải thực hiện theo “ký hiệu” trên bảng hoặc
ký hiệu bằng tay của giáo viên. Giáo viên khơng phải nói nhiều mà phải ưu tiên
các hoạt động cho học sinh. Quy trình 4 việc cần phải thực hiện theo trình tự.
Giáo viên cần phải thuộc các việc cơ bản ở mỗi bài. Cần phải nhẹ nhàng,
thân thiện và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động ở từng việc. Quan tâm tới các
em học sinh có nhận thức chậm trong lớp. Tác phong lời nói, cử chỉ, điệu bợ của
giáo viên cần phải chuẩn mực, thân thiện.
Tiết học buổi 2 giáo viên cần phải xác định được nội dung cần ôn tập chú ý
về các kỹ năng cần củng cố phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm giúp các
em nắm được bài tốt hơn. Dạy đâu chắc đó, học sinh phải nắm được bài, khơng
để học sinh ngồi lề lớp học.
Để giúp học sinh lớp 1 nắm vững được hệ thống âm trong tiếng Việt 1,
trước hết giáo viên cần giúp học sinh nắm vững được từng âm, giáo viên cần chú
ý 2 vấn đề then chốt:
- Yêu cầu đối với học sinh thuộc bảng chữ cái một cách thành thạo.
- Nắm được kĩ năng về phát âm trong tiếng Việt 1, biết phân biệt nguyên
âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích âm, tiếng, đọc được
theo các mức độ to - nhỏ - nhẩm - thầm theo lệnh và ký hiệu của giáo viên. Biết
phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu là âm cuối, học về luật chính tả.
Tình trạng các em đọc vẹt nhiều, muốn khắc phục những hạn chế này giáo viên
nên tận dụng đồ dùng dạy học của chương trình hiện hành, làm thêm đồ dùng dạy
học và chủ động sắp xếp thời gian rèn luyện kỹ năng nói, đọc cho học sinh.
Để giải quyết được hai vấn đề nêu trên, giáo viên phải nắm vững vị trí,
nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm... trong môn Tiếng Việt 1. Giáo viên phải hiểu rõ khả
năng nhận thức cũng như các đặc điểm của quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì

khả năng nhận thức của học sinh Tiểu học đang hình thành và phát triển theo từng
giai đoạn có quy luật riêng, người giáo viên tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy
đủ nghĩa của nó, mới có thể tiến hành dạy phần âm đạt hiệu quả được.
Để đạt được mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực chủ đợng, sáng tạo của học sinh cần có sự vào cuộc, phối
hợp của người dạy và chính bản thân người học. Bởi vậy trong q trình dạy học
tơi ln chú ý tăng cường các hình thức tự học, dạy học nhóm, nhằm giúp học
sinh trao đởi thảo ḷn, nêu lên chính kiến của mình... ln kích thích khơi gợi
hứng thú học tập cho các em thông qua tất cả các giai đoạn của tiết lên lớp như
đặt vấn đề vào bài, tổ chức lĩnh hội tri thức mới, củng cố hướng dẫn hoạt động
7


nối tiếp. Ngồi ra tơi thường tở chức các hoạt đợng vui chơi lồng ghép trong q
trình dạy học. Qua hoạt động vừa chơi vừa học các em biết chia sẻ với nhau kinh
nghiệm học tập, các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và giúp
nhau cùng tiến bộ. Các em không những ham thích đến trường mà còn dần u
thích mơn học này.
Ví dụ: Khi dạy bài: Âm / x/, tôi sử dụng trò chơi “ Chèo thuyền” để giúp
học sinh tìm thêm tiếng mới với các nguyên âm đã học như: xa, xe, xê, xi, xo, xô,
xơ, xu, xư.

Học sinh hào hứng khi khởi động tiết học

2.2.4. Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
Chương trình TV1 CGD có thiết kế 2 tuần 0 để giáo viên dạy học sinh làm
quen với môi trường học tập mới, hướng dẫn học sinh biết cách nhận lệnh, thực
hiện và báo cáo kết quả (sản phẩm). Hai tuần này dù học sinh không được học
một chữ nào nhưng được đánh giá là có giá trị định hướng cho mọi việc về sau.
Làm tốt tuần 0 thì sẽ dễ làm tốt các tiết học về sau. Song, không phải giáo viên

nào cũng nhận ra vai trò của tuần 0. Trong phần tự nhận xét của mình, nhiều giáo
viên thừa nhận chưa thực hiện tốt việc rèn nề nếp học tập cho học sinh. Nề nếp
học tập khơng tốt ảnh hưởng khơng ít đến q trình tở chức tiết học (giáo viên
mất nhiều thời gian hơn trong điều khiển, tở chức lớp học; phải nói nhiều vì lặp
lại hiệu lệnh; khó kiểm sốt kết quả việc làm của học sinh...) và nó gián tiếp ảnh
hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Vì thế, xây dựng tốt nề nếp học tập
cho học sinh là điều cần phải thực hiện để góp phần nâng cao chất lượng dạy học
TV1 CGD.
Trong 2 Tuần 0, học sinh được hướng dẫn và thực hành theo các nội dung:
8


Làm quen (giữa giáo viên - học sinh, giữa học sinh - học sinh)
Đồ dùng học tập và cách sử dụng (cách dùng và tư thế sử dụng bảng con,
phấn, khăn lau; cách dùng và tư thế sử dụng bút chì, vở; hướng dẫn viết các nét
cơ bản)
Xác định vị trí trên/ dưới; trái/ phải; trước/ sau; trong/ ngoài (kết hợp chấm
điểm tọa độ và viết các nét cơ bản), làm quen với kí hiệu, luyện tập - củng cố kĩ năng.
Qua “Tiết học chuẩn bị”, học sinh được làm quen và chuẩn bị những điều
cơ bản, cần thiết nhất cho các hoạt động học tập chính thức. Với những nội dung
trên, việc học sinh chưa qua mẫu giáo hay học sinh vùng khó đều khơng phải là
trở ngại. Nhưng khi tổ chức thực hiện các tiết này, đòi hỏi giáo viên phải giao việc rõ
ràng ngay từ đầu để đưa học sinh vào nề nếp, làm nghiêm túc, kỉ luật nghiêm;
khuyến khích học sinh nhiệt tình tham gia, rèn luyện tinh thần tập thể. Giáo viên
phải tuân thủ quy trình làm việc, làm việc nào chắc việc ấy. Khen học sinh làm tốt,
khơng chê em làm kém trước lớp.
Ngồi những nội dung được hướng dẫn trong thiết kế, giáo viên nên dùng
các kí hiệu, tín hiệu để quy ước với học sinh trong hoạt động học tập. Những kí
hiệu, tín hiệu quy ước sẽ giúp giáo viên hạn chế việc nói nhiều (việc sử dụng câu
lệnh hay lời hướng dẫn dài dòng sẽ mất thời gian và dễ gây nhiễu thơng tin đối

với học sinh, đồng thời nó giúp các hoạt động của lớp học diễn ra nhịp nhàng, trật
tự và nhanh gọn hơn. Ví dụ:
- Hiệu lệnh chuẩn bị - hiệu lệnh bắt đầu thực hiện - hiệu lệnh kết thúc:
1 tiếng gõ thước nhẹ - 2 tiếng gõ thước nhẹ - 1 tiếng gõ thước nhẹ hoặc tiếng gõ
thứ nhất - tiếng gõ thứ 2 - tiếng gõ thứ 3.
- Các kí hiệu sử dụng đồ dùng học tập: S/16 (sách giáo khoa, trang 16); B
(bảng con); V (vở trắng - viết chính tả); TV/24 (tập viết, trang 24),… Khi viết các
kí hiệu ấy vào mợt góc riêng trên bảng lớp, học sinh nhìn thấy sẽ tự động thực
hiện yêu cầu (lấy sách giáo khoa - mở ra trang 16; chuẩn bị bảng con - phấn - giẻ
lau hay lấy vở tập viết - mở ra trang 24,…), khi xóa kí hiệu ấy đi thì học sinh sẽ
tự biết là kết thúc hoạt động và cất những vật dụng đó vào.
Giáo viên giữ vai trò chủ chốt trong việc chọn lựa những kí hiệu, hiệu lệnh
quy ước với học sinh, sao cho những kí hiệu phải đơn giản, dễ nhận biết. Sau khi
đã thống nhất, giáo viên dành thời gian tổ chức huấn luyện cho học sinh thực hiện
theo những kí hiệu đã được quy ước ấy (kết hợp hướng dẫn thực hiện trong các
tiết chuẩn bị của tuần 0).
2.2.5. Rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh
Hướng dẫn học sinh phát âm là việc làm quan trọng hàng đầu, đòi hỏi
giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi
9


hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ
hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn,
tôi thường so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi, răng, lưỡi, đường dẫn
hơi, điểm thoát hơi) Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên đến
cần đến gần, phát âm mẫu để các em nhìn thấy được vị trí cụ thể của các bợ phận
phát âm. Sau đó u cầu các em phát âm lại.
*Ví dụ: Học sinh sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc thành
“at” giáo viên hướng dẫn:

+ ac: mở miệng rợng, hơi thốt ra gần trong chân lưỡi.
+ at: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi.
Với trường hợp học sinh sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ
thống bợ máy phát âm chưa hồn chỉnh) giáo viên hướng dẫn:
+ Tiếng có thanh hỏi: giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm,
hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng
mắt lên trên.
+ Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khốt (khơng kéo
dài). Khi phát âm có thể làm đợng tác gật đầu.
+ Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn giọng, hơi kéo dài, luyến giọng, lên
cao giọng.
+ Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi
ngắn, đọc nhanh, không kéo dài
Bằng cách hướng dẫn như trên học sinh lớp tơi đã có nhiều tiến bộ trong
việc phát phát âm chuẩn.
Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là
chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay
làm theo. Do đó, khi sử dụng phương pháp làm mẫu, đòi hỏi giảo viên phải phát
âm thật chuẩn xác. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra
âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình mơi” nhằm hướng dẫn các em phát
âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà khơng nhìn miệng cơ đọc thì việc
phát âm sẽ khơng đạt hiệu quả cao, vì trong mơn Tiếng Việt 1 – CGD việc quan
sát môi cô phát âm là quan trọng nhất.
Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến
tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nêm nhàm chán và không phát huy được
tính tích cực, chủ đợng của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương
pháp này khi thấy thật sự cần thiết.
Để làm tốt việc rèn chữ viết cho học sinh, ngay từ đầu năm học giáo viên
phải chú ý đến nhiều khâu quan trọng sau:
10



- Giáo viên phải nắm chắc kiến thức, viết đúng, viết đẹp mẫu chữ quy định
để dạy học sinh. Khi hướng dẫn phải cụ thể, tỉ mỉ, ngôn ngữ phải rõ ràng, dễ hiểu.
Mặt khác, cần tìm hiểu kỹ đặc điểm của từng HS để nắm được năng lực của các
em để có biện pháp cụ thể, phù hợp.
- Hướng dẫn học sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, đợ
cao, cỡ chữ, hình dáng, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các
chữ, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ viết thường, dấu thanh, thao tác đưa bút
đúng quy trình.
- Để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị
và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu: Bảng con, phấn trắng
(hoặc bút dạ), khăn lau, bút, vở...
Giáo viên cũng cần chú ý đến tư thế ngồi viết; cách cầm và điều khiển viên
phấn; cách cầm bút; cách để vở, xê dịch vở khi viết; cách trình bày bài. Tư thế
đứng phát biểu: đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cơ giáo hoặc người cần trả lời
(tuyệt đối không vòng tay trước ngực khi trả lời). Khoảng cách và kĩ thuật cầm
bút: Cầm bút cao từ 2 - 2,5 cm; cầm bút bằng 3 ngón tay; dứt khốt phải kiểm
sốt được kĩ thuật và khoảng cách cầm bút của học sinh trước và trong khi các
em viết chữ (điều này cần có thủ thuật). Để học sinh có thói quen cầm bút đúng
khoảng cách và viết nhẹ tay, giai đoạn đầu dứt khốt phải u cầu học sinh sử
dụng bút chì do chính cô giáo gọt.
Khi đọc chính tả, trong quá trình học sinh viết giáo viên có thể hỏi học sinh
xem viết đúng chưa? Nếu sai bạn bên cạnh nhắc và viết lại, khơng tẩy xóa chỉ gạch
chữ sai ở dưới chân và viết ra bên cạnh, giáo viên cần quan sát học sinh liên tục. Khi
học sinh không viết được thì giáo viên cho học sinh phân tích lại để viết, yêu cầu tùy
theo đối tượng học sinh trong lớp để giáo viên giao bài viết cho phù hợp.
Ví dụ: khi dạy chữ thì cần chú ý bợ nét, cơ bản là dạy đặt bút, chấm tọa
độ, kéo viết, kết thúc, tên nét phải nắm và thuộc, học sinh quên giáo viên cho học
sinh nhắc lại để nhớ, củng cố cho học sinh viết các nét và thuộc các nét.

Nếu học sinh không biết phân tích, không biết viết giáo viên phải hướng
dẫn yêu cầu học sinh học thuộc bảng chữ cái và viết hết bảng chữ cái cho nhớ,
sau đó sẽ hướng dẫn ghép các chữ với nhau.
Dạy Tiểu học nói chung và đặc biệt là dạy lớp 1 rất cần phải rèn luyện chữ
viết, nhất là chữ viết bảng cần viết ít, đủ nhưng đúng và đẹp (chú ý cả về kĩ thuật
viết các nét chữ, kích thước, khoảng cách… và luật chính tả trong khi viết, trình
bày bảng và cả trong chấm chữa, ghi lời phê của cô giáo).
Giáo viên chỉ giao việc 01 lần; câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng, đảm bảo
100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc và làm mẫu giáo viên phải đứng ở vị
11


trí thích hợp để tất cả học sinh đều nghe và quan sát được ( trung tâm trước bục
giảng). Khi giao việc xong giáo viên phải đi xuống lớp để kiểm soát việc làm của
tất cả học sinh, giúp đỡ, hướng dẫn học sinh; phải đảm bảo 100% học sinh hoàn
thành 1 việc mới giao việc khác. Nhận xét, đánh giá phải trên cơ sở động viên,
khích lệ học sinh để lấy việc phát huy ưu điểm mà khắc phục nhược điểm qua 4
mức độ: làm được, làm đúng, làm đẹp, làm nhanh.
Phải thường xuyên có ý thức để ý theo dõi học sinh để biết được các nhu
cầu, nguyện vọng…ở giai đoạn đầu nhiều học sinh khơng dám trình bày với bạn,
với cô các nhu cầu cần sự giúp đỡ cho phép (cả về sức khỏe và học tập).
2.1.6 Thực hiện tốt việc đánh giá học sinh theo Thông tư 22/2016/TTBGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong quá trình giảng dạy tơi ln chú trọng và nâng cao hiệu quả đánh giá
thường xuyên, đánh giá trực tiếp để kịp thời đợng viên, khuyến khích học sinh
trong q trình tham gia hoạt động học tập. Tôi luôn quan tâm đến sự tiến bộ của
học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn
luyện của các em, giúp các em phát huy nhiều nhất khả năng của mình.
Tơi ln đợng viên, khích lệ học sinh bằng nhiều hình thức, tạo cơ hợi để
các em được chủ động tham gia vào các hoạt động học. Bên cạnh đó thường
xun kiểm sốt q trình làm việc của học sinh. Gần gũi những em hay mắc lỗi,

kịp thời hỗ trợ không để các em chán nản, mất hứng thú trong học tập.
Tự đánh giá là một khâu rất quan trọng trong đánh đánh giá thường xuyên.
Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học
sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh,
đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; Nên trong quá
trình dạy học, tôi luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh
với học sinh. Tạo cơ hợi cho các em có kĩ năng nghe - chia sẻ ý kiến - sửa sai
giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xun
trong các tiết học trở thành mợt thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình
nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho
mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp
ý, trao đởi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách tồn diện. Thực hiện
thường xun như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện,
đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
2.2.7. Xây dựng môi trường học tập thân thiện
Phần lớn học sinh ở vùng khó thường có đặc tính rụt rè, nhút nhát, các em
thường ít chủ động tham gia vào các hoạt động học tập. Sự rụt rè, nhút nhát ấy cũng do

12


mợt phần các em chưa có sự chuẩn bị cho mợt mơi trường mới, nơi có bạn bè, thầy cơ
và các hoạt động học tập đặc trưng.
Trong môi trường học tập thân thiện, tích cực học sinh sẽ được phát huy
năng lực học tập của mình ở trạng thái tốt nhất. Do vậy, việc tạo một môi trường
học tập thân thiện là rất cần thiết để giúp các em mạnh dạn, tự tin, hứng thú tham
gia các hoạt động học tập, yêu thích đến lớp, đến trường.
Giáo viên cần nắm được hồn cảnh gia đình và đặc điểm tâm sinh lí của
mỗi học sinh, mặt mạnh và mặt còn hạn chế của các em, nên ghi nhận những
thông tin ấy vào trong sổ tay riêng. Để biết được tính cách học sinh, giáo viên có

thể tìm hiểu thơng qua trò chuyện với các em, quan sát các em trong học tập và
vui chơi,…giáo viên nên dành một ít thời gian đến thăm gia đình những học sinh
có hồn cảnh khó khăn trong lớp của mình. Có hiểu học sinh thì người giáo viên
mới có thể gần gũi và tạo niềm tin nơi các em, giúp các em phát huy ưu điểm và
khắc phục phần còn hạn chế.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp thời.
Gợi ý, hướng dẫn khi các em gặp khó khăn, tuyên dương, khen thưởng khi các
em thực hiện đúng yêu cầu; phải tạo cơ hội cho tất cả các em đều được tham gia
đầy đủ các hoạt động học tập, nhất là với học sinh yếu.
Giáo viên phải hiểu và nắm vững thiết kế, có như vậy mới có thể điều
khiển, tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt và nhẹ nhàng, giáo viên có thời
gian để quan sát, giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Giáo viên cần chú ý về giọng nói và ngơn ngữ sử dụng khi đánh giá, nhận
xét học sinh, phải thể hiện sự tôn trọng, động viên và khuyến khích các em, tránh
những lời lẽ chê bai, xúc phạm học sinh.
Ngồi ra, đối với học sinh có hồn cảnh khó khăn, sự quan tâm còn thể
hiện ở việc hỗ trợ các em có đầy đủ dụng cụ học tập cần thiết. Nguồn hỗ trợ được
vận động từ các mạnh thường qn hoặc trích từ nguồn xã hợi hóa giáo dục của
nhà trường.
Giúp học sinh nhận ra mỗi bạn đều có mặt mạnh, mặt yếu, có thể bạn giỏi
trong hoạt đợng này nhưng lại làm chưa tốt trong học động khác. Vì thế, cần có
sự hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giáo viên cần rèn được cho học sinh có sự
chủ đợng trong việc giúp đỡ bạn, ví dụ, khi phân tích tiếng hay luyện đọc, những
bạn làm tốt sẽ hướng dẫn, làm mẫu cho bạn làm chưa tốt.
Tổ chức đôi bạn cùng tiến, giúp học sinh xây dựng mối quan hệ bạn bè
trong học tập và vui chơi. Giáo viên nên bố trí một học sinh khá giỏi cùng mợt
học sinh trung bình, yếu để em học sinh giỏi có thể hỗ trợ học sinh yếu trong học tập.

13



2.2.8 Làm tốt công tác tuyên truyền giúp phụ huynh học sinh hiểu về
phương pháp dạy Tiếng Việt 1 - CGD:
Cha mẹ học sinh là một trong những lực lượng gián tiếp tác động đến chất
lượng học tập TV1 CGD. Cha mẹ cần quan tâm, nhắc nhở con em trong học tập.
Không bắt các em nghỉ học phụ việc gia đình, cho các em học trước chương trình
hay dạy khơng đúng cách đều có tác đợng xấu đến các em. Vì vậy, nhà trường, giáo
viên và cha mẹ học sinh cần tăng cường sự hợp tác chặt chẽ với nhau.
Bởi vậy, Ngay từ lần họp phụ huynh đầu năm học tôi đã chia sẻ, giải thích
về phương pháp dạy học mới, về điểm ưu việt cái hay, cái khoa học của Tiếng
Việt 1 - CGD để phụ huynh học sinh hiểu và yên tâm về chương trình nhằm tạo
được sự đồng thuận trong quá trình thực hiện. Tuyên truyền trong phụ huynh và
các lực lượng xã hội làm cho phụ huynh vững tin vào CGD, khơng nóng vợi. u
cầu phụ huynh tuyệt đối không tự dạy đọc viết ở nhà khi khơng có sự kiểm sốt
hoặc u cầu của giáo viên.
Tôi đã tư vấn cho phụ huynh một số kĩ thuật dạy học Công nghệ giáo dục,
cách phát âm, cách đọc và cách hướng dẫn con em học tập ở nhà.
Ngồi ra, tơi đã mời phụ huynh vào dự giờ xem cách dạy của giáo viên để
biết được phương pháp dạy Tiếng Việt 1 - CGD và hiệu quả của chương trình này.

Phụ huynh tham gia dự giờ tiết học tiếng Việt 1 CGD

2.3. Kết quả đạt được:
Từ quá trình thực hiện những giải pháp trên đã đem lại những kết quả đáng
khích lệ sau:

14


- Phụ huynh đồng thuận, nhất trí cao về việc thực hiện chương trình TV1CGD. Qua các tiết dự giờ phụ huynh đã hiểu được tính ưu việt và hiệu quả cũng

như phương pháp, kĩ thuật hướng dẫn con em.
- Bản thân tôi đã nắm được các kiến thức ngữ âm, nợi dung chương trình,
phương pháp dạy học Cơng nghệ giáo dục, giờ dạy trở nên chủ động, nhẹ nhàng
và hiệu quả hơn.
- Nề nếp lớp ổn định ngay từ tuần đầu. Trong tiết học, các em thực hiện các
thao tác một cách thành thạo, nhuần nhuyễn đảm bảo cho việc dạy học diễn ra
thuận lợi, hiệu quả.
- Kĩ năng đọc: Các em đọc to rõ ràng, lưu loát hơn. Các em nắm chắc về
ngữ âm; biết phân biệt cấu tạo của tiếng.
- Kĩ năng viết: Các em nắm chắc luật chính tả nên khi viết các em không bị
sai chính tả. Tốc độ viết của các em cũng đảm bảo nhanh hơn.
Kết quả khảo sát cuối năm năm học 2017 – 2018 tại lớp 1 khi đã thực hiện
chương trình Tiếng Việt 1 CGD:
Số HS Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Dưới 5
24
3
9
6
4
1
1
0
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Như vậy, dạy Tiếng Việt 1 theo CGD là một yêu cầu cấp thiết trong hoạt
động giáo dục. Việc dạy tốt Tiếng Việt CGD là góp phần thực hiện tốt cơng c̣c
đởi mới căn bản và toàn diện Giáo dục- Đào tạo. Đề tài “Một số biện pháp nâng
cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD” đã chỉ ra được thực trạng về việc dạy
TV1 CGD và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học TV1 CGD.
Đề tài này giúp cho người đọc nói chung và những người trực tiếp giảng dạy TV1

CGD hiểu rõ hơn về mục tiêu và nội dung của môn TV1 CGD và đưa ra được các
giải pháp để họ có thể tham khảo và vận dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình
nhằm nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy. Góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo
dục.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục đòi hỏi mỗi người giáo viên phải
nghiên cứu kĩ các giải pháp và áp dụng thực hiện tốt các giải pháp đó. Trước hết
cần xác định rõ mục tiêu, nội dung dạy học TV1 CGD. Xác định rõ mục tiêu sẽ là
cơ sở để chúng ta thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra. Đồng thời đổi mới phương pháp
dạy học nhằm tích cự hóa hoạt đợng của học sinh.Giải pháp này không chỉ cho
học sinh mà còn có giá trị như mợt giải pháp đởi mới phương pháp giáo dục và
phương pháp quản lý cho giáo viên. Với học sinh, kết quả học tập không chỉ là
Tiếng Việt, mà còn là phương pháp tư duy ngôn ngữ và các quan hệ học tập hiện
15


đại. Ngồi ra, để dạy học TV1 CGD có hiệu quả chúng ta cần chú ý đến nhóm
biện pháp hỗ trợ. Nếu thực hiện tốt nhóm hỗ trợ xem như chúng ta đã thành công
được một nửa trong dạy học TV1 CGD.
Mỗi biện pháp có ý nghĩa và chức năng khác nhau nhưng giữa chúng có sự
liên hệ, tác đợng qua lại lẫn nhau.Vì thế, cần phải thực hiện các biện pháp trên
một cách đồng bộ. Đồng thời, để thực hiện được các biện pháp này cần có sự chỉ
đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp; sự nỗ lực của bản thân giáo viên các trường
tham gia dạy học TV1 CGD nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn học này.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Về phía Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán
bộ quản lý và giáo viên dạy Công nghệ giáo dục vào dịp bồi dưỡng hè, đảm bảo
100% giáo viên tham gia giảng dạy và 100% các trường áp dụng có cán bợ quản
lý và giáo viên được tập huấn phương pháp dạy học Công nghệ giáo dục.
Về phía nhà trường: Tiếp tục thực hiện tốt việc bố trí giáo viên giảng dạy
lớp 1 là những giáo viên vừa có kiến thức, kinh nghiệm, vừa nhiệt tình trong cơng

việc. Bố trí phòng học cho lớp học công nghệ giáo dục là những phòng có đủ:
diện tích, bàn ghế, bảng chống lóa, đảm bảo ánh sáng và các điều kiện để dạy công
nghệ giáo dục.
Trên đây là một số kinh nghiệm tơi vận dụng trong q trình dạy học thực tế
của lớp mình. Trong quá trình thực hiện do những yếu tố khách quan và khả năng
lí luận có hạn, thời gian nghiên cứu còn eo hẹp. Vì thế sáng kiến sẽ khơng tránh
khỏi những sai sót nhất định. Rất mong sự đóng góp của Hợi đồng khoa học để
đề tài được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn !

16



×