Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU XẾP VỐN CHO DỰ ÁN TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.4 KB, 20 trang )

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THU XẾP VỐN CHO DỰ ÁN TẠI CÔNG TY
TÀI CHÍNH
1.1. Công ty tài chính
1.1.1. Khái niệm và phân loại công ty tài chính
1.1.1.1 Khái niệm
Trên cơ sở các nghiệp vụ và quy định về loại hình tổ chức của Công ty tài chính
mà đưa ra khái niệm CTTC.
Ở Pháp, Công ty tài chính là các định chế tài chính sử dụng chủ yếu các nguồn
vốn vay thông qua các hợp đồng trên thị trường tiền tệ để cho vay.
Ở Đức, Công ty tài chính được định nghĩa là những doanh nghiệp không phải là tổ
chức tín dụng và hoạt động chủ yếu trên các lĩnh vực
- Mua những phần hùn vốn
- Mua lại những khoản tài sản Có phải đòi
- Ký kết những hợp đồng thuê bao
- Phát hành hoặc trao đổi các phương tiện thanh toán nước ngoài phục vụ chính
bản thân mình hoặc theo sự ủy nhiệm của khách hàng.
- Giao dịch các hợp đồng thời hạn, các quyền lựa chọn, các công cụ lãi suất hoặc
tỷ giá hối đoái phục vụ chính bản thân hoặc của khách hàng
- Tham gia vào các hoạt động phát hành chứng khoán và cung ứng những hoạt
động dịch vụ liên quan
- Tư vấn cho các doanh nghiệp về cơ cấu, về chiến lược công nghiệp và những
vấn đề liên quan cũng như việc tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc hợp nhất hoặc
sáp nhập các doanh nghiệp và cung ứng các hoạt động dịch vụ phục vụ cho các nghiệp
vụ này
- Mô giới những khoản cho vay dài hạn giữa các tổ chức tín dụng
- Điều hành những tài sản được đầu tư vào chứng khoán hay các công cụ tài chính
phục vụ khách hàng hoặc tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư vốn vào những tài
sản này
Các nước theo hệ thống ngân hàng của Anh: Công ty tài chính là một loại hình tổ
chức tài chính phi ngân hàng được thành lập để cung cấp các loại dịch vụ tài trợ khác
nhau cho các khách hàng là các doanh nghiệp sản xuất hoặc các cá nhân. Nghị định của


chính phủ Việt Nam số 79/2002/NĐ – CP ngày 04/01/2002 về tổ chức và hoạt động của
Công ty tài chính quy định: “ Công ty tài chính là loại hình tài chính tín dụng phi ngân
hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho
vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch
vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không làm dịch vụ thanh toán không nhận
tiền gửi dưới một năm”.
Công ty tài chính có thay đổi thế nào chăng nữa thì những đặc trưng cơ bản dưới
đây là thông điệp chính để chúng ta khẳng định đó là Công ty tài chính. Đó là một đơn
vị kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, có tên, biển
hiệu được đăng ký hoạt động đúng pháp luật. Theo đó những nghiệp vụ được phép kinh
doanh phải được liệt kê rõ và mang tính chuyên nghiệp trong một giới hạn số nghiệp vụ
nhất định, không bao gồm nghiệp vụ nhận tiền gửi không kỳ hạn hay ngắn hạn dưới hai
năm và không được làm nghiệp vụ thanh toán Công ty tài chính thu vốn bằng cách phát
hành thương phiếu, cổ phiếu, trái phiếu và dung tiền khai thác được để cho vay.
Công ty tài chính có thể là công ty con của Ngân hàng thương mại, của tổng công
ty hay của một tập đoàn tài chính, nhưng vẫn phải thỏa mãn các tiêu chí trên.
1.1.1.2 Phân loại công ty tài chính
* Căn cứ vào sự độc lập trong hoạt động: Công ty tài chính được chia thành 2 loại
- Công ty tài chính độc lập thực hiện hoạt động kinh doanh như: Hoạt động tín dụng
gồm cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thương mại và sản xuất công nghiệp; các hoạt
động cho thuê tài sản; bao thanh toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính….
- Các Công ty tài chính trong tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu các hoạt động
sau: Tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn;
quản lý và đầu tư các nguồn vốn chưa sử dụng trong tập đoàn; quản lý các khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi, điều hòa vốn giữa các thành viên; làm đầu mối tư vấn cho tập đoàn;
các công ty thành viên trong quan hệ với các ngân hàng; các đối tác đầu tư; quản lý và
áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính; cung cấp các dịch vụ tư vấn tài
chính cho các khách hàng bên ngoài…
* Căn cứ vào các hoạt động kinh doanh: CTTC được chia thành 3 loại:
- Các CTTC bán hàng: Do các công ty sản xuất và bán hàng làm chủ sở hữu và thực hiện

các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa dịch vụ của
chính công ty.
- Các CTTC tiêu dùng: Thực hiện các khoản cho vay cho khách hàng mua các loại hàng
hóa cụ thể. Các CTTC tiêu dùng là các doanh nghiệp riêng biệt hay do các ngân hàng là
chủ sở hữu (VD: Citicorp, owns person – to – Person, Finance company, hoạt động khắp
các nước trên thế giới). Thông thường, các công ty này cho các khách hàng không có khả
năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn.
- Các công ty tài chính doanh nghiệp: Cung cấp các hình thức tín dụng chuyên biệt cho
các doanh nghiệp bằng cách thực hiện các khoản cho vay và tài khoản mua bán (hóa
đơn thanh toán thuộc về công ty khách hàng) với chiết khấu: Dạng tín dụng này còn
được gọi là factoring. VD: một xí nghiệp may mặc có hóa đơn chưa thanh toán từ các
cửa hàng bán lẻ đã mua hàng từ xí nghiệp với giá trị 100.000$. Nếu xí nghiệp này cần
tiền mặt ngay để mua trang thiết bị, họ có thể bán tài khoản thanh toán này cho CTTC
với giá ví dụ là 90.000$ và giao quyền thu lại số nợ 100.000$ cho CTTC. Ngoài nghiệp
vụ factoring, CTTC doanh nghiệp còn chuyên môn hóa vào cho thuê trang thiết bị máy
móc (ví dụ: ô tô, xe tải, toa hàng, máy bay, tàu thủy, máy tính…) mà họ mua về và cho
các doanh nghiệp vay trong một khoảng thời gian nào đó.
* Căn cứ vào quan hệ sở hữu: Đây là phương pháp phân loại các Công ty tài
chính theo pháp luật của Việt Nam.
- Công ty tài chính nhà nước: Là Công ty tài chính do nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh.
- Công ty tài chính cổ phần: Là Công ty tài chính do tổ chức và cá nhân cùng góp vốn
theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
- Công ty tài chính trực thuộc của các tổ chức tín dụng: Là Công ty tài chính do
một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân.
- Công ty tài chính liên doanh: Công ty tài chính liên doanh được thành lập bằng
vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt
Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở
hợp đồng liên doanh.

- Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài
được thành lập bằng vốn của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
1.1.2. Các hoạt động của công ty tài chính
Hoạt động của các CTTC rất đa dạng, phong phú ở các nước khác nhau cũng như
ở các thị trường khác nhau. Tuy nhiên nhìn về hình thức, Công ty tài chính thường phổ
biến có hai loại: Công ty tài chính độc lập và Công ty tài chính là công ty thành viên của
tập đoàn
Các Công ty tài chính độc lập tham gia vào nhiều hoạt động kinh doanh gồm:
Thực hiện nghiệp vụ tín dụng gồm cho vay và bảo lãnh cho khách hàng thương mại và
sản xuất công nghiệp. Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê như cho thuê tài chính, cho
thuê vận hành và mua bán trả góp, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, đây là một dịch
vụ mà một công ty tài chính hay ngân hàng ứng trước cho một doanh nghiệp rồi thu
trực tiếp từ khách hàng số tiền khác phải trả cho doanh nghiệp đó. Công ty tài chính
cũng tiến hành cấp các khoản tín dụng cho khách hàng là cá nhân.
Công ty tài chính trong tập đoàn chủ yếu đóng vai trò đầu tư trong nội bộ tập đoàn
với những hoạt động sau: Tìm kiếm nguồn vốn, cung ứng cho công ty thành viên trong
tập đoàn, quản lý và cung ứng tiền mặt cho các công ty thành viên, quản lý và tiến hành
đầu tư các khoản tiền, vốn chưa sử dụng đến trong tập đoàn, làm đầu mối và tư vấn cho
các công ty thành viên trong quan hệ với ngân hàng, các đối tác đầu tư, quản lý và áp
dụng những biện pháp giảm thiểu rủi ro tài chính trong toàn tập đoàn. Các rủi ro này
bao gồm: Rủi ro tín dụng, lãi suất, thời kỳ đáo hạn, hối đoái, và các rủi ro về mất cân
đối giữa tài sản Có và tài sản Nợ.
Bên cạnh việc quản lý tài chính trong nội bộ tập đoàn, ở một số tập đoàn lớn, các
Công ty tài chính còn cung cấp tài chính cho những khách hàng bên ngoài nếu họ muốn
mua hàng của tập đoàn hay các công ty thành viên khác.
Thậm chí một số công ty trong tập đoàn còn hoạt động giống như Công ty tài
chính độc lập đối với những khách hàng bên ngoài tập đoàn như cho vay, bảo lãnh, tư
vấn cả khi khách hàng này không có quan hệ gì với tập đoàn. Thường đây là Công ty tài
chính trong một tập đoàn lớn với mức vốn tự có lên đến hàng trăm, hàng ngàn triệu

USD, có tầm cỡ hoạt động quốc tế. VD như GE Capital và ABS Finance. Các công ty
này đã phát triển mạnh thành những định chế tài chính lớn cung cấp hàng loạt sản phẩm
từ thuê mua tài chính, tài trợ XMC đến bảo hiểm. Các công ty này cũng đầu tư vào các
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của tập đoàn và các
công ty thành viên khác.
Ở Việt Nam, hoạt động của Công ty tài chính còn rất hạn hẹp. Thông thường, hoạt
động chủ yếu của Công ty tài chính là tài trợ cho các dự án dưới hình thức đầu tư hoặc cho
vay trung và dài hạn, ngoài ra còn thực hiện một số nghiệp vụ khác như: Cho thuê tài
chính, cho thuê vận hành, mua bán chuyển nhượng chứng khoán, bảo lãnh… Nhưng các
Công ty tài chính hiện nay ở Việt Nam chủ yếu cho vay ngắn hạn.
Song nhìn chung lại, hoạt động vủa Công ty tài chính bao gồm các hoạt động cơ
bản sau:
* Hoạt động huy động vốn: Đây là hoạt động khởi đầu của các hoạt động khác
của CTTC, CTTC bản chất là một trung gian tài chính hoạt động chủ yếu không phải
bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vậy nguồn vốn để hoạt động và cung cấp vốn cho nền
kinh tế thì ngoài nguồn vốn chủ sở hữu thì Công ty tài chính phải huy động những
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi tổng nền kinh tế thông qua các hoạt động:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn của các đơn vị thành viên, các doanh nghiệp cùng ngành, các
tổ chức cá nhân.
- Phát hành trái phiếu chứng chỉ nợ:
+ Phát hành trái phiếu: Bên cạnh vốn điều lệ ban đầu khi thành lập, Công ty tài
chính có thể huy động thêm nguồn vốn trong xã hội thông qua việc phát hành trái phiếu.
Trong quá trình hoạt động, vốn điều lệ có thể được bổ sung và tăng dần thông qua việc
huy động vốn góp của tập đoàn hoặc phát hành thêm trái phiếu.
+ Phát hành chứng chỉ nợ: Là một giấy nhận nợ mà Công ty tài chính phát hành để
vay vốn trên thị trường tiền tệ dùng để giải quyết những nhu cầu về tiền mặt, vốn ngắn
hạn cấp thiết.
- Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước: Công ty tài chính có thể đi vay từ các
ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác, nhưng không được vay từ ngân
hàng nhà nước như các ngân hàng thương mại.

- Nhận ủy thác đầu tư: Các Công ty tài chính có thể nhận ủy thác đầu tư của các tổ chức
cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu đầu tư dài hạn. Nguồn vốn ủy thác đầu tư bao
gồm cả nguồn vốn của tập đoàn kinh doanh nếu Công ty tài chính đó thuộc tập đoàn
kinh doanh giao để đầu tư vào những công trình, dự án của tập đoàn và các đơn vị
thành viên.
- Ngoài ra đối với các Công ty tài chính thuộc tập đoàn kinh doanh còn một nguồn huy
động lớn là vay từ tập đoàn kinh doanh. Dựa vào uy tín và lợi thế của mình, các tập
đoàn kinh doanh đứng ta phát hành trái phiếu để huy động vốn rồi chuyển cho các Công
ty tài chính vay. Mặt khác khi tập đoàn kinh doanh đứng ra phát hành trái phiếu, nó
không bị ràng buộc về dự trữ, lãi suất số lượng do ngân hàng nhà nước quy định do nó
không phải là một tổ chức tín dụng.
* Hoạt động cho vay:
Sau khi huy động được vốn, để bù đắp chi phí huy động vốn và có lợi nhuận thì
Công ty tài chính phải tìm cách sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây
là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ trọng thu nhập lớn nhất cho Công ty tài chính. Các
phương thức cho vay của Công ty tài chính được phân loại thành:
- Căn cứ vào thể thức cho vay, hoạt động cho vay gồm:
+ Tín dụng ứng trước: Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó
khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn
nhất định,
+ Thấu chi (tín dụng hạn mức): Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt thực
hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được phép sử dụng dư nợ trong
một giới hạn và thời hạn nhất định.
+ Chiết khấu thương phiếu: Người cung cấp hàng hóa, dịch vụ lập ra các thương
phiếu thể hiện cố hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp và chuyển nhượng quyền sở hữu
thương phiếu cho Công ty tài chính để được thanh toán trước hạn số tiền bằng mệnh giá
thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí, Công ty tài chính chịu trách
nhiệm thu tiền ở người mua hàng khi đến hạn.
- Căn cứ vào đối tượng cho vay, hoạt động này bao gồm:
+ Cho vay để kinh doanh: Là hình thức cho vay theo ngành công nghiệp, thương

mại, dịch vụ, nông nghiệp…..
+ Cho người tiêu dùng vay để mua vật dụng như: Xe hơi, các sản phẩm lâu bền
(mua nhà, mua thẻ tín dụng…)
+ Cho các tổ chức tín dụng vay: Đối với các Công ty tài chính thuộc tập đoàn kinh
doanh và các công ty thành viên vay.
- Căn cứ vào thời gian vay: Vay ngắn hạn(dưới 1 năm), vay trung hạn (từ 1 năm đến 5
năm), vay dài hạn (trên 5 năm).
* Hoạt động đầu tư
Ngoài các hoạt động cho vay, để sử dụng vốn một cách hiệu quả Công ty tài chính
còn thực hiện một số hoạt động đầu tư như:
- Hùn vốn, liên doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp thành viên bằng vốn tự có
nhưng tổng số hùn vốn nói trên không quá 30% vốn tự có của Công ty tài chính.
- Đầu tư chứng khoán: Đây là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay, giúp Công ty tài
chính nâng cao khả năng thanh toán, bảo tồn ngân quỹ, đồng thời đa dạng hóa các hoạt
động đầu tư nhằm phân tán rủi ro và tăng hiệu quả kinh doanh.
- Các hoạt động đầu tư khác: Ngoài hai hình thức đầu tư chính trên Công ty tài chính còn
thực hiện các hoạt động khác như bao thanh toán, tài trợ hay đồng tài trợ cho các dự
án…
* Các dịch vụ tài chính tiền tệ liên quan
Các dịch vụ tài chính tiền tệ liên quan khác bao gồm: Đại lý phát hành trái phiếu,
cổ phiếu, tư vấn phát hành, bảo lãnh phát hành,lưu giữ, bảo quản chứng khoán, nhận lãi
chứng khoán hộ khách hàng; cho thuê tài sản; các dịch vụ kinh doanh ngoại hối và bán
trực tiếp với khách hàng, đầu tư tài chính trên thị trường quốc tế; các dịch vụ tài chính
như cầm cố các loại hàng hóa, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá, kinh doanh vàng bạc
đá quý, chuyển nhượng chứng khoán; các dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính, tư vấn
tiền tệ và quản lý tài sản theo yêu cầu của các thành viên…
1.2. Hoạt động thu xếp vốn cho dự án của công ty tài chính
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động thu xếp vốn cho dự án
“ Thu xếp vốn cho dự án của CTTC là hoạt động trong đó CTTC tiến hành với tư
cách là trung gian giữa bên vay và bên cho vay nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu

cầu vốn vay của dự án. Khách hàng của thu xếp vốn là chủ đầu tư dự án, bao gồm tổng
công ty, các đơn vị thành viên trong tổng công ty, các dơn vị khác cụng ngành kinh tế
kỹ thuật và các ngành khác”.
Một số đặc điểm TXV:
• Hoạt động thu xếp vốn mang tính trung gian: . CTTC là cầu nối giữa khách hàng
và các cá nhân, tổ chức kinh tế (chủ yếu là các tổ chức tín dụng khác) để đáp ứng một
lượng vốn nhất định theo nhu cầu của khách hàng. CTTC đứng ra thực hiện một tập
hợp các nghiệp vụ nhằm thu xếp vốn một khoản vốn tín dụng cho khách hàng bằng
cách đưa ra các phương án tài trợ dự án để chủ đầu tư có thể lựa chọnVới cùng một yêu
cầu đặt ra là phải có một lượng vốn tín dụng cho dự án, nếu đứng trên góc độ của chủ
đầu tư thì đó là hình thức huy động vốn, còn đứng trên góc độ của CTTC thì đó được
xem là một hoạt động thu xếp vốn cho khách hàng, tức là CTTC được khách hàng ủy
quyền đại diện, thay mặt khách hàng làm việc với các TCTD khác để thu xếp khoản
vốn theo yêu cầu. Như vậy, hoạt động thu xếp vốn đã trở thành một kênh cung cấp hàng
hóa cho các NHTM, giúp cho thị trường tài chính được mở rộng, bao trùm được nhu
cầu vốn của xã hội, và vận hành có hiệu quả hơn.
• Hoạt động thu xếp vốn mang tính “tín dụng”: CTTC tìm kiếm một khoản vốn
vay cho chủ đầu tư dự án chứ không phải là một hoạt động đầu tư. Tính tín dụng còn
được thể hiện rõ ràng hơn trong trường hợp CTTC thu xếp vốn tín dụng cho dự án bằng
nguồn vốn của mình. Khi đó, quan hệ giữa CTTC và chủ đầu tư dự án là quan hệ vay
mượn trực tiếp (các nguồn vốn mà CTTC tìm kiếm để thu xếp vốn cho khách hàng sẽ
được trình bày ở phần sau)
• Hoạt động thu xếp vốn là một loại hình dịch vụ tài chính: Thu nhập của việc
cung cấp loại hình dịch vụ này được tính bằng phí. Thu nhập của hoạt động cho vay là
tiền lãi, lãi suất được tính dựa trên 3 yếu tố (1) Chi phí cơ hội của khoản tiền vay, (2)
Giá trị theo thời gian của tiền và (3) Mức độ rủi ro thu nợ. Trong khi đó, phí là khoản
tiền “ trả công” cho CTTC đã thực hiện các giao dịch để thu xếp vốn thành công cho
khách hàng và các chi phí liên quan đến quản lý khoản vay trong quá trình giải ngân và
thu vợ. Thông thường có 2 cách tính phí:
Bảng 1.1: Cách tính phí của hoạt động thu xếp vốn tại CTTC

Cách 1 Cách 2
Cách tính Tính bằng một số tiền cụ thể
nhất định (một tỷ lệ phần
Tính trên cơ sở mức phí thu xếp (một
tỷ lệ phần trăm) trên tổng dư nợ thực

×