Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI
CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành : Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 8 38 01 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Thái

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG QUY ĐỊNH VỀ
CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG

TỐ TỤNG DÂN SỰ

7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị và cơ sở khoa học của việc cơng nhận
thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự

7

1.2. Nội dung các quy định của pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của
đương sự

26

Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CƠNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN
CỦA ĐƢƠNG SỰ TẠI CÁC TỊA ÁN NHÂN DÂN CỦA
TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

46

2.1. Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện công
nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn

46

2.2. Một số giải pháp liên quan đến công nhận sự thỏa thuận của đương
sự trong tố tụng dân sự

66


KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

CNSTT

: Công nhận sự thỏa thuận

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS

: Tố tụng dân sự


VADS

: Vụ án dân sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VVDS

: Vụ việc dân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Thống kê số lượng VADS, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động được CNSTT bởi các TAND ở tỉnh Lạng
Sơn (giai đoạn 01/10/2011 - 30/9/2017)

2.2


48

Thống kê số lượng VADS, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động được CNSTT bởi TAND tỉnh Lạng Sơn
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm (giai đoạn 01/10/2011 30/9/2017)

52

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Thống kê số lượng VADS, hơn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động được CNSTT bởi các TAND ở tỉnh Lạng
Sơn (giai đoạn 01/10/2011 - 30/9/2017)

49


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng hội nhập, các quan hệ dân sự cũng dần thay đổi và chuyển
biến ngày càng phức tạp nên việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể

tham gia trong quan hệ ngày càng được chú trọng. Bên cạnh đó, phát huy tinh thần
những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự (BLDS) cũng như Bộ luật Tố tụng dân
sự (BLTTDS) về quyền tự định đoạt và tự do thỏa thuận, những quy định của pháp
luật được sửa đổi bổ sung trong thời gian gần đây đã có nhiều điều chỉnh nhằm quy
định cụ thể và linh hoạt hơn việc công nhận sự thỏa thuận (CNSTT) của đương sự
trong tố tụng dân sự (TTDS). Trong đó, BLTTDS năm 2015 đã có nhiều thay đổi
theo hướng cơng khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
giải quyết vụ việc dân sự (VVDS) được nhanh chóng kịp thời. Tuy nhiên, so với yêu
cầu thì việc CNSTT của đương sự trong TTDS còn những hạn chế, bất cập cần phải
tiếp tục được nghiên cứu để hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đối với tỉnh Lạng Sơn, đây là tỉnh miền núi, biên giới, có diện tích đất rừng
lớn, mật độ dân số thấp và phân bố không đồng đều đặc biệt phần lớn dân số đều là
người dân tộc thiểu số sinh sống và canh tác ở những vùng sâu, vùng xa. Do đó,
điều kiện để tiếp cận với các dịch vụ pháp lý cũng như cơ quan tư pháp là khơng
nhiều, trình độ dân trí cịn hạn chế nên bên cạnh nền kinh tế cửa khẩu năng động
mang lại thì tranh chấp dân sự cũng hết sức đa dạng, phức tạp là những nguyên
nhân dẫn đến các tranh chấp dân sự trên địa bàn ngày càng nhiều và phức tạp. Cùng
với việc mặt bằng chung trình độ dân trí cịn thấp thì những nhận thức và hiểu biết
pháp luật của người dân cũng còn hạn chế nhiều. Do đó, khi có tranh chấp phát sinh
thì phần lớn người dân thường khơng có khả năng tự chứng minh hoặc tìm cách tiếp
cận các cơng cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tính đến
thời điểm ngày 16 tháng 08 năm 2018, tại Lạng Sơn chỉ có tất cả 701 cộng tác viên
1. />

2
(là các cá nhân, cán bộ công tác tại các cơ quan nhà nước như Cục Thi hành án dân
sự, Sở Tư pháp tỉnh, Phịng Nội chính... và các tổ chức khác như Đoàn Luật sư tỉnh
Lạng Sơn, Hội Luật gia tỉnh) tham gia trợ giúp pháp lý. Trong khi đó tồn tỉnh Lạng
Sơn có tổng số ước tính trên 768.7002 người dân (số liệu thống kê thời điểm năm

2016). Ước tính trung bình tỉ lệ sẽ là 01 cộng tác viên trợ giúp pháp lý / hơn 10.981
người dân (chưa tính tới việc khơng phải tất cả mọi người dân đều đủ điều kiện để
được hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định của Điều 7 (Người được trợ giúp pháp
lý) Luật trợ giúp pháp lý 2017), nên quá trình giải quyết những tranh chấp xảy ra
trong quan hệ dân sự giữa cơng dân nói chung cũng như tiến hành các thủ tục (như
giải thích luật pháp, hịa giải...) để tiến tới thống nhất thỏa thuận giữa các đương sự
nói riêng trong TTDS cịn gặp khơng ít trở ngại. Do vậy, việc nghiên cứu thực tế áp
dụng các quy định của pháp luật trong việc xác định và thực hiện đúng các thủ tục
để CNSTT của đương sự trong TTDS là vấn đề cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng, giúp chúng ta nhìn nhận bao quát và cụ thể hơn về vai trò được
định đoạt và tự quyết của người tham gia TTDS, tạo cơ sở trong việc xác định đúng
thủ tục và nội dung thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự (VADS), đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình giải quyết VADS.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài "Công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong tố tụng dân sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn" làm
đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên tinh thần cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập sâu rộng, có nhiều
cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố liên quan vấn đề CNSTT của đương sự.
Trong đó có thể kể đến:
- Bùi Thị Huyền (2007), Về sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa sơ
thẩm dân sự, Tạp chí Luật học, (số 8, tr. 23-29) và Bùi Thị Huyền (2008), Phiên tòa
sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà
Nội. Bài viết và cơng trình nghiên cứu này đã cho thấy được một số hạn chế trọng
2. Niên giám Thống kê 2016 - Dân số và lao động. Tổng Cục thống kê Việt Nam, tr. 27.


3
yếu trong quy định hiện hành của BLTTDS 2004 khiến cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền như Tịa án,... không thể mạnh dạn áp dụng linh hoạt các quy định

mang tính nguyên tắc mà chưa được thể hiện một cách cụ thể trong quá trình tiến
hành các thủ tục như hòa giải... để tiến tới việc CNSTT của đương sự.
- Nguyễn Thùy Linh (2015), Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Luận văn này đã giúp
làm rõ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn và lược sử hình thành, phát triển trong
áp dụng quy định CNSTT của đương sự trong TTDS.
- Ngoài ra cịn có các bài viết: Thi hành quyết định cơng nhận sự thỏa
thuận của các đương sự như thế nào, Lê Viết Tâm, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
(Số chuyên đề 04/2012, tr. 16-17); Việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự trong vụ án ly hơn, Lê Văn Sua, Tạp chí Luật sư Việt Nam, (số
9/2015, tr. 55-58).
Phân tích từ các cơng trình nghiên cứu trên, mặc dù đã luận giải tương đối
chi tiết các quy định về CNSTT của đương sự trong TTDS, tuy nhiên chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về các quy định trong pháp luật
TTDS, đặc biệt là BLTTDS năm 2015 (đang có hiệu lực thi hành) về việc CNSTT
của đương sự trong TTDS và thực tiễn triển khai thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn hiện
nay. Vì vậy, tác giả đã thực hiện nghiên cứu chuyên sâu đề tài luận văn của mình
trên cơ sở tham khảo kết quả của các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS, trong
đó chủ yếu là quy định trong các BLTTDS năm 2004, 2011 và 2015 về việc
CNSTT của đương sự trong TTDS, thực tiễn tại các Tịa án nhân dân (TAND) ở
tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
về việc xác định những người tham gia TTDS, đồng thời bảo đảm thực hiện các quy
định của pháp luật TTDS về xác định những người tham gia tố tụng trong VADS.
Về phạm vi nghiên cứu: Tác giả cũng nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ
bản về CNSTT của đương sự trong TTDS nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật


4

thực định và đề ra một số đề xuất, kiến nghị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được
giới hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc CNSTT của
đương sự trong TTDS.
- Nghiên cứu các quy định của các BLTTDS Việt Nam (2004, 2011, 2015)
về CNSTT của đương sự trong TTDS. Tác giả sẽ chú trọng vào việc CNSTT của
đương sự trong 2 giai đoạn chính của q trình tố tụng là cấp sơ thẩm và phúc thẩm
đồng thời xoay quanh các chủ thể chính là cơ quan tiến hành tố tụng (Khoản 1 Điều 46
(Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng) BLTTDS năm 2015) mà đặc
biệt là Tòa án - chủ thể trực tiếp thực hiện thủ tục CNSTT của đương sự, có so sánh
đến khái niệm "Hòa giải", "Thương lượng", "Trọng tài"… để có cái nhìn đa chiều hơn.
- Nghiên cứu thực tiễn tham gia của Tòa án các cấp trong TTDS tại các
TAND tỉnh Lạng Sơn.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện chứng trong mối tương quan với tình
hình kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước. Đồng thời trên cơ sở tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước pháp luật. Vận dụng những quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải cách tư
pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các
phương pháp như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp
phân tích này trong Chương 2 với mục đích phân tích các quy định về CNSTT trong
TTDS trong VADS để chỉ rõ, giải thích về nội dung của các quy định đó. Đồng
thời, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp, kế thừa lại những kết
quả của các cơng trình nghiên cứu liên quan từ trước đến nay trên cơ sở sự kế thừa
có chọn lọc. Trên cơ sở các phân tích, bình luận để thể hiện góc nhìn mới về nội
dung nghiên cứu theo pháp luật hiện hành.



5
- Phương pháp so sánh: Trong các phân tích tại Chương 1 của luận văn, tác
giả thực hiện việc so sánh các quy định pháp luật hiện hành với các quy định từ thời
trước đây, đồng thời so sánh các với quan điểm của một số tác giả để phân tích, đưa
ra quan điểm của tác giả về vấn đề nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng tới việc làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến CNSTT
của đương sự trong TTDS và các quy định pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó phân
tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật TTDS về nội dung nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu dựa trên thực tiễn thực hiện việc tiến hành CNSTT
của đương sự trong TTDS tại các TAND của tỉnh Lạng Sơn từ đó đưa ra những cơ
sở làm rõ cho căn cứ và tính thuyết phục trong phân tích, đánh giá của tác giả.
Đồng thời, luận văn cũng phân tích sự thay đổi chế định về việc CNSTT
của đương sự trong TTDS từ trước tới nay. Từ đó đưa ra những đánh giá so sánh sự
khác biệt giữa pháp luật TTDS hiện hành và trước đây.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học: Luận văn có ý nghĩa trong việc cân nhắc xem xét sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các quy định của BLTTDS hiện hành. Thơng qua việc nghiên
cứu một cách có hệ thống về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt
Nam về CNSTT của đương sự trong TTDS. Phân tích một cách chi tiết và sâu sắc
các quy định của BLTTDS (2004, 2011, 2015). Trên cơ sở nghiên cứu luận văn đã
chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đưa ra một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục CNSTT của đương sự
trong TTDS trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần trong việc nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật trong việc CNSTT của đương sự. Những đề xuất, kiến nghị nêu trong luận
văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLTTDS về CNSTT
của đương sự trong TTDS trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng và cả nước nói
chung. Thơng qua việc dẫn chứng một số vụ việc từ thực tiễn tại các TAND ở tỉnh

Lạng Sơn sẽ giúp người đọc có thể hiểu rõ hơn về mục đích hướng đến của đề tài.


6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và nội dung quy định về công nhận sự
thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị hoàn thiện.


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG QUY ĐỊNH
VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và cơ sở khoa học của việc công nhận
thỏa thuận của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm công nhận thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
Để làm rõ khái niệm công nhận thỏa thuận của đương sự trong TTDS cần
phải làm rõ một số khái niệm cơ bản, trong đó:
Về khái niệm thỏa thuận dân sự: Thỏa thuận dân sự - nhân tố cốt lõi của
quyền dân sự và là giá trị căn bản trong quan hệ dân sự nói chung. Trong mối quan
hệ đó có 02 ngun tắc cơ bản đó là (i) Tơn trọng sự thỏa thuận; và (ii) Tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự. Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cũng quy định rất rõ về vấn đề này như một nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt
quá trình xem xét giải quyết các quan hệ dân sự nói chung và các tranh chấp phát
sinh nói riêng. Ngay tại phần Những quy định chung của BLDS 2015 đã khẳng định

và ràng buộc trách nhiệm trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
dân sự (Điều 2), cụ thể: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật".
Hiểu một cách ngắn gọn, khi pháp luật ghi nhận quyền của một cá nhân/tổ chức thì
cũng đồng nghĩa với việc sẽ có cơ chế được thiết lập để đảm bảo cho những quyền
đó được thực thi và khơng bị xâm phạm. Theo đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, cá nhân/tổ chức được quyền thực hiện nhiều biện pháp khác nhau
như yêu cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ và trong đó có
một cơ chế quan trọng là quyền tự giải quyết.
Về khái niệm "Công nhận": Theo Từ điển tiếng Việt thì cơng nhận là sự
thừa nhận trước mọi người một điều gì đó là phù hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc
với thể lệ, luật pháp3.
3. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


8
Về khái niệm "Sự thỏa thuận": dưới góc độ ngơn ngữ học được Đại từ điển
Tiếng Việt định nghĩa thì "Thỏa thuận" được hiểu là "Nhất trí, đồng ý với nhau sau
khi bàn bạc"4. Theo đó có thể hiểu ngắn gọn rằng thỏa thuận là sự thống nhất chung
mà không có bất kỳ sự đối lập nào khác giữa các bên liên quan. Đặc biệt, trong một
mối quan hệ có tranh chấp thì thỏa thuận cịn hàm chứa ý nghĩa của sự tự nguyện,
quyền tự định đoạt và thuận tình về ý chí và lý chí giữa các bên.
Về khái niệm "Đương sự": Từ điển Luật học năm 2006 giải thích "Đương
sự là cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị
đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm
người tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân trong các vụ kiện về dân sự, kinh
doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động"5. Theo đó, đương sự ở đây được
hiểu là không chỉ bao gồm cả những cá nhân mà còn bao gồm cả tổ chức với người đại
diện hợp pháp theo quy định của pháp luật tham gia vào quá trình tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước

thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến VVDS.
Từ những luận giải nêu trên, có thể hiểu CNSTT của đương sự là hoạt động
của Tòa án trong việc tiến hành xem xét, thừa nhận sự thỏa thuận của các đương sự
liên quan tới việc giải quyết VVDS trên cơ sở các quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm công nhận thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Thỏa thuận của đương sự là một quyền tự định đoạt
Theo đó, Điều 5 (Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự) BLTTDS
2015 quy định:
"1/ Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự...". Trong đó, sự thỏa thuận của đương sự và yêu
cầu CNSTT này có thể được thực hiện dưới hình thức một việc dân sự trên cơ sở
đương sự tự định đoạt việc "Yêu cầu công nhận kết quả hịa giải thành ngồi Tịa
án" - Khoản 7 Điều 27 (Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
4. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr. 1578.
5. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 278-279.


9
Tịa án) BLTTDS 2015. Khi đó, thỏa thuận này được hiểu là đương sự đã thực hiện
quyền tự định đoạt trước khi có bất kỳ Đơn khởi kiện hoặc yêu cầu nào gửi cho Tịa
án có thẩm quyền để giải quyết VVDS.
"2/ Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện…".
Ở đây, ngay cả khi xảy ra tranh chấp/yêu cầu tới Tòa án để giải quyết theo sự điều
hành của đại diện Tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật TTDS thì quyền tự
định đoạt của đương sự vẫn không bị khước từ và các đương sự vẫn có thể thực
hiện bình thường.
Tuy nhiên, việc tự định đoạt này rõ ràng khơng phải là khơng có giới hạn.
Để làm rõ hơn mệnh đề này, tác giả xin được trình bày chi tiết trong các phần sau
của luận văn.

1.1.2.2. Tòa án - Chủ thể được Nhà nước trao quyền để thực hiện việc công
nhận sự thỏa thuận của đương sự
Khi tham gia vào quá trình giải quyết VVDS tại Tịa án, có rất nhiều chủ
thể khác nhau - Tịa án, Viện kiểm sát và các chủ thể khác tham gia bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, của người khác (ví dụ: Luật sư/Người được ủy quyền
hợp pháp khác...) hoặc chủ thể hỗ trợ Tòa án trong q trình giải quyết VVDS. Như
đã phân tích ở Mục 1.1.1 nêu trên, việc thỏa thuận của đương sự có thể do các
đương sự tự thỏa thuận với nhau hoặc do một bên thứ ba (đại diện của Tòa án hoặc
bên thứ ba khác) thực hiện hịa giải thì việc CNSTT của đương sự phải được thực
hiện thơng qua Tịa án để đảm bảo giá trị pháp lý và tính ràng buộc cao hơn (về
phần này, tác giả sẽ làm rõ hơn tại Mục 1.1.4 dưới đây). Căn cứ Điều 102 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 quy định: "Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư
pháp" - Theo đó, Tịa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử các vụ việc bao gồm
VVDS. Do đó, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
VVDS thì khi đó Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử (tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng
của VVDS) sẽ ra quyết định CNSTT của đương sự.


10
1.1.2.3. Thỏa thuận được công nhận của đương sự phải xuất phát từ ý chí
tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và không
trái đạo đức xã hội.
Xét về mặt nội dung, thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp này
cũng mang vai trò như một giao dịch dân sự. Đương sự là các chủ thể chính trong
quan hệ pháp luật này, do đó chỉ đương sự mới có quyền tự thực hiện thơng qua
hành vi tố tụng của mình để thương lượng, thỏa thuận với nhau và/hoặc thông qua
sự hỗ trợ của bên thứ ba (bao gồm cả Tòa án) để thống nhất thỏa thuận giải quyết
vụ việc. Do đó, theo quan điểm của tác giả, khi xem xét hiệu lực của một thỏa thuận
dân sự chúng ta cũng cần xem xét trên khía cạnh hiệu lực của một giao dịch dân sự.

Theo đó, có thể tham chiếu quy định tại Khoản 1 Điều 117 (Điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự) BLDS 2015 quy định: "Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ
các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch
dân sự hồn tồn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội". Cùng với đó, bám sát với tinh thần
của Hiến pháp mà cụ thể là Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi nhận: "Việc thực hiện quyền con người, quyền công
dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác". Ở đây, yếu tố cần đặc biệt được chú trọng đến đó là việc thỏa thuận
giữa các đương sự chỉ đạt được và chỉ được Tịa án cơng nhận trên cơ sở thương
lượng một cách tự nguyện, trung thực, hợp lý, hợp tình và khơng một ai với bất kỳ
một hình thức nào có thể lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép đương sự trong việc đi tới
thỏa thuận này.
Có một vấn đề đặt ra là, giả sử văn bản thỏa thuận giữa các đương sự (lập
trước khi được đưa ra Tòa án để yêu cầu CNSTT) ghi nhận dòng nội dung như sau
"Trên tinh thần tự hồn tồn tự nguyện và bình đẳng, chúng tơi - những người có
tên nêu dưới đây thống nhất các nội dung điều khoản và điều kiện của Thỏa thuận
giải quyết vụ việc như sau:…". Tuy nhiên đến khi Tòa thụ lý thực hiện các thủ tục


11
để CNSTT thì có ít nhất 1 trong các bên nêu ý kiến phản đối vì lý do cho rằng Thỏa
thuận bằng văn bản ấy được lập không trên cơ sở tự nguyện thì sẽ giải quyết như
nào? Theo tác giả, câu trả lời được xoay quoanh 2 vấn đề chính: (i) Bản chất nội
dung thỏa thuận được xem là yếu tố cốt lõi để giải quyết sự việc mà khơng phải chỉ
dựa vào hình thức của văn bản thỏa thuận; (ii) Sự việc này xảy ra có đồng nghĩa với
việc phát sinh tranh chấp và giải quyết theo thủ tục của một VADS hay khơng hay
Tịa án vẫn sẽ xem xét để CNSTT này mặc dù có ít nhất 1 bên đương sự đang phản
đối? - Thiết nghĩ trong trường hợp này, thỏa thuận của đương sự bằng văn bản cũng

cần được xem xét dưới một dạng "như đối với" hợp đồng để xem xét dưới hình thức
hợp đồng ấy có hiệu lực hay khơng và nếu có hiệu lực thì Tịa sẽ áp dụng cơ chế để
buộc các bên liên quan tiếp tục thực hiện cam kết (về phần này, tác giả xin được
làm rõ chi tiết hơn trong Mục 1.2.1 của luận văn).
1.1.2.4. Có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự
Như đã trình bày tại Mục 1.1.4, một thỏa thuận giải quyết VVDS của
đương sự có thể được thực hiện trước cả khi có sự can thiệp của Tịa án, sau đó các
bên mới tiến hành u cầu Tịa án CNSTT; hoặc ngay cả khi có tranh chấp xảy ra và
một trong các bên có Đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết VVDS thì khi đó
căn cứ Khoản 2 Điều 5 (Quyền quyết định và tự do định đoạt của đương sự) BLTTDS
2015 quy định: "Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền… thỏa
thuận với nhau một cách tự nguyện…". Nội dung quy định này phản ánh quyền tự định
đoạt của đương sự được thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình tố tụng. Do đó
có thể hiểu, trong một VADS sự thỏa thuận của đương sự có thể được thực hiện trước
khi mở phiên tòa (sơ thẩm, phúc thẩm) hoặc ngay cả khi Tịa án xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
Tham khảo quy định pháp luật của một số quốc gia khác, cụ thể Điều 127
BLTTDS nước Cộng hòa Pháp (Article 127 - Code of Civil Procedure6 - France
Repuclic) quy định: "Parties may reconcile, on their initiative or upon that of the
6. />

12
judge, throughout the proceeding" - Tạm dịch: "Đương sự có thể hịa giải, theo mục
đích của các bên hoặc dựa trên ý kiến của Thẩm phán trong suốt quá trình tố tụng".
Quy định này cũng được hiểu rằng, việc hòa giải cũng như cơng nhận kết quả hịa
giải của các bên liên quan có thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào trong suốt
quá trình giải quyết VVDS - Tương đương với quyền tự định đoạt của đương sự
theo pháp luật Việt Nam.
Liên quan đến vấn đề hòa giải của Tòa án và CNSTT của đương sự theo

quy định của pháp luật Việt Nam, nếu việc thỏa thuận của các đương sự đạt được do
Tòa án tiến hành thì việc CNSTT của đương sự chỉ được thực hiện trước thời điểm
mở phiên tịa sơ thẩm. Bởi vì, xuất phát từ đặc thù xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu
đối với VADS nên pháp luật quy định Tịa án phải có trách nhiệm hịa giải, giúp các
bên hiểu rõ hơn quan hệ pháp luật đang tranh chấp và các quy định khác có liên
quan để thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, qua đó tránh được tình trạng
khiếu kiện kéo dài, giảm thiểu chi phí cho các bên tham gia tố tụng cũng như tăng
hiệu quả của công tác xét xử cả về mặt thời gian và chất lượng. Ở các giai đoạn sau
của quá trình tố tụng, vì lý do các đương sự đã được Tòa án tổ chức hòa giải trước
khi mở phiên tịa sơ thẩm nhưng khơng thành nên sau đó Tịa án sẽ khơng tiến hành
hịa giải nữa mà việc quyết định có đi tới thỏa thuận hay khơng hồn toàn lệ thuộc
việc thực thi quyền tự định đoạt của các bên liên quan.
1.1.2.5. Hình thức cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự là bằng một
quyết định hoặc một bản án
Có quan điểm phân tích7 cho rằng, tương đồng với những phân tích tại phần
(ii) nêu trên, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng nào của vụ án mà quyền quyết định
thuộc về Thẩm phán được phân công phụ trách hoặc Hội đồng xét xử. Tương ứng
với đó là hình thức cơng nhận là một quyết định hay một bản án. Được hiểu một
cách ngắn gọn bằng các nội dung dưới đây (nội dung chi tiết được trình bày tại Mục
1.2.1.2 của luận văn):
- Trước khi khởi kiện mà các đương sự tự thỏa thuận được với nhau và u
cầu Tịa án CNSTT thì như nội dung đã trách dẫn ở trên, căn cứ khoản 7 Điều 27
7. />

13

(Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) BLTTDS 2015 đây là một việc dân sự nên Tòa án sẽ CNSTT bằng một quyết định.
- Khi các đương sự đã khởi kiện VADS ra Tịa án, sau đó các đương sự đã
đạt được sự thỏa thuận và u cầu CNSTT đó thì: (i) Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm (khi chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử) thì Thẩm phán được phân

cơng giải quyết sẽ CNSTT đó bằng quyết định; và (ii) Nếu đã mở phiên tòa sơ thẩm
và hội đồng xét xử tiến hành giải quyết theo thủ tục tố tụng thì việc CNSTT của
đương sự được thực hiện bằng một bản án - trình tự này cũng được áp dụng tương
tự với quy trình giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Ở quy trình của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, vì Hội đồng giám đốc
thẩm và tái thẩm không tiến hành xét xử vụ việc mà thực hiện việc xem xét lại bản
án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị (Điều 325
(Tính chất của giám đốc thẩm) và Điều 351 (Tính chất của tái thẩm) BLTTDS
2015) nên việc CNSTT của đương sự được thực hiện bằng một quyết định.
1.1.2.6. Trình tự, thủ tục cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự được tiến
hành theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việc CNSTT của đương sự cũng như các thủ tục tố tụng khác đều được Tòa
án tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật. Thơng qua việc kiểm sốt quy
trình giải quyết của Tòa án (cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước) bằng cơ chế
giám sát của thủ tục TTDS sẽ đảm bảo hơn sự khách quan, công bằng trong hoạt
động tố tụng của Tịa án, đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong quá trình
giải quyết vụ việc cũng như sử dụng cơ chế ràng buộc trách nhiệm với các bên đã
tiến hành thỏa thuận được đảm bảo bởi cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cũng
với mục đích giám sát chặt chẽ hơn việc thực hiện cam kết của các bên trong thỏa
thuận thông qua quyền lực nhà nước. Đồng thời, các quy định của pháp luật TTDS
về trình tự, thủ tục CNSTT của đương sự là cơ sở để Tịa án ra quyết định cơng
nhận và bắt buộc Tòa án phải tuân thủ theo những quy định đó. Vì thế, việc CNSTT
của đương sự cũng chỉ có hiệu lực pháp luật khi được thực hiện theo đúng trình tự
thủ tục mà pháp luật TTDS quy định.


14
1.1.2.7. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi được ban hành
Xuất phát từ thực tế sự thỏa thuận của đương sự được thiết lập dựa trên sự

tự nguyện, bình đẳng. Đồng thời, với cơ chế giám sát theo quy định pháp luật về thủ
tục TTDS mà quyết định CNSTT có thể được nhận định là đảm bảo được 2 yếu tố
cốt lõi - Tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và đạo đức xã hội. Vì thế, khi
các đương sự đã thỏa thuận được với nhau và Tòa án cũng đã xem xét, quyết định
CNSTT đó thì quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay và bắt buộc thực hiện
đối với các bên. Tác giả đồng ý với quan điểm nhận định "Bản chất của các thỏa
thuận của đương sự về việc giải quyết tranh chấp tại Tịa án là giao dịch dân sự
thơng thường…, việc Tịa án ra quyết định CNSTT đó vừa có tính cơng chứng, vừa
có tính cưỡng chế thi hành, nếu sau đó các bên khơng tự nguyện thi hành"8. Tuy
nhiên, rõ ràng khơng phải mọi quyết định CNSTT có hiệu lực pháp lý ngay thì sẽ
khơng bị xem xét lại. Nếu có cơ sở cho thấy thỏa thuận được cơng nhận trước đó
của đương sự được thực hiện do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội hoặc có cơ sở cho thấy việc xuất hiện tình tiết mới thì khi đó hồn
tồn có thể xem xét lại Quyết định cơng nhận của Tịa án theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
Có thể nhận định, đây là điểm khác biệt cơ bản giữa việc CNSTT của
đương sự tại Tòa án với hòa giải thành ngồi Tịa án (hịa giải ở cơ sở, hịa giải
trong tranh chấp lao động, hòa giải thành trong tranh chấp quyền sử dụng đất…).
CNSTT của đương sự thông qua Tịa án có giá trị pháp lý trong việc cưỡng chế thi
hành cao hơn vì được ràng buộc thực thi bằng quyền lực nhà nước thông qua các
quy định rõ ràng như cơ chế buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án của cơ
quan Thi hành án… Xét về mặt thực tiễn, việc tiến hành hịa giải khơng thơng qua
Tịa án có thể khơng được tiến hành bởi những người chưa đạt đủ tiêu chuẩn luật
định (tiêu chuẩn pháp lý để bổ nhiệm Thẩm phán, kỹ năng hòa giải…). Hiện nay,
8. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố
tụng dân sự, Hà Nội.


15
BLTTDS 2015 đã có quy định về việc cơng nhận kết quả hịa giải thành ngồi Tịa

án (Khoản 7 Điều 27 (Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tịa án) BLTTDS 2015), đây có thể hiểu là một cơ chế mở cho việc ghi nhận kết
quả hịa giải thành ngồi Tịa án, tuy nhiên theo nhận định của tác giả việc xem xét
lại và giám sát tuân thủ pháp luật với kết quả hòa giải này thơng qua Tịa án là cần
thiết vì những lý do nêu trên.
Ngồi ra, có một vấn đề đặt ra là nếu các bên đương sự khi gửi yêu cầu Tòa
án CNSTT mà trước đó văn bản thỏa thuận đã ghi nhận nội dung tương tự như:
"Thời gian có hiệu lực của thỏa thuận là vào ngày N" trong khi ngày tiến hành và ra
quyết định CNSTT của Tòa án là ngày N + x (sau ngày N nêu trong thỏa thuận) thì
khi đó hiệu lực của thỏa thuận được thiết lập giữa các bên có phải tính lại theo ngày
N + x không?
Theo nhận định của tác giả, trong trường hợp vừa nêu trên cần tách biệt rõ 2
khái niệm: (i) Thỏa thuận của các đương sự; và (ii) Văn bản quyết định của Tòa án
CNSTT của đương sự. Theo đó, quy định về quyết định CNSTT của đương sự có
hiệu lực pháp luật ngay là áp dụng cho đối tượng (ii) để ghi nhận việc xem xét tính
hợp pháp của thỏa thuận (i). Vì thế, để đánh giá về thời điểm có hiệu lực của đối
tượng (i) chúng ta cần đối chiếu tới điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
tương ứng (có yêu cầu đặc biệt gì về nội dung hay hình thức hay khơng) mà khơng
phải sau khi đối tượng (ii) được thơng qua thì thỏa thuận (i) mới có hiệu lực thi
hành. Tuy nhiên trong trường hợp này, thiết nghĩ cần có quy định pháp lý rõ ràng để
ấn định và giải thích thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận giữa các đương sự khi
được Tịa án cơng nhận.
1.1.3. Vai trị cơng nhận thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
- Đảm bảo tính bền vững của các mối quan hệ dân sự trong xã hội khi giải
quyết VVDS.
Có thể hiểu trước khi tiến hành CNSTT, các bên liên quan đã trải qua một
quá trình khá dài tiến hành việc thương lượng, hịa giải để tìm ra tiếng nói chung.
Bằng cách này, các tranh chấp phát sinh của các quan hệ dân sự trong xã hội sẽ hạn



16
chế được sự đối đầu căng thẳng khơng đáng có và đồng thời, giúp các bên hiểu và
thông cảm với nhau, góp phần khơi phục, duy trì mối quan hệ bình thường giữa các
bên. Đồng thời, trên cơ sở những hành động ấy sẽ giúp tránh được tình trạng phạm
tội có thể phát sinh do mâu thuẫn trong q trình giải quyết những tranh chấp ấy.
Việc nhận thức rõ bản chất của hòa giải và CNSTT của đương sự trong một VVDS
bất kỳ để xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh cho phù hợp sẽ giúp các bên
liên quan kiềm chế được những mâu thuẫn, xích mích và khơng làm phức tạp thêm tình
hình xã hội, từ đó gián tiếp duy trì sự bền vững của các quan hệ dân sự trong xã hội.
- Góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự có liên quan.
Như đã trình bày ở trên, trước khi các bên tiến đến việc đề nghị CNSTT có
thể đã phải trải qua một giai đoạn tiến hành hòa giải bởi Tòa án hoặc một bên thứ ba
khác. Rất có thể, nhiều VVDS phát sinh xuất phát từ sự thiếu hiểu biết cặn kẽ luật
pháp của các bên liên quan. Điều 10 (Hịa giải trong TTDS) BLTTDS 2015 quy
định: "Tịa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết VVDS theo quy định của Bộ luật
này". Theo đó, bằng việc thơng qua q trình lý giải luật pháp và cơ chế liên quan
tồn tại có thể sẽ giúp các đương sự hiểu hơn vai trò, trách nhiệm, quyền hạn và bổn
phận của mình qua đó các bên có thể tiến tới việc đạt được thỏa thuận chung.
- Giúp mở rộng tầm ảnh hưởng tới công dân nói chung trong việc quyết
định lựa chọn giải quyết sự việc thông qua các hoạt động pháp lý.
Tác giả nhận thấy, phần lớn công dân (cá nhân/đại diện tổ chức) khi có bất
kỳ tranh chấp nào trong quan hệ dân sự xảy ra, thông thường sẽ mang tâm lý lo ngại
khi phải đưa vụ việc ra Tòa án hoặc cơ quan đại diện quyền lực nhà nước khác giải
quyết vì có thể sẽ tốn nhiều thời gian, chi phí và/hoặc khơng muốn những VVDS
kiểu này có thể bị lộ thơng tin khơng mong muốn ra ngồi. Tuy nhiên, giả sử khi
VVDS có thể được các bên liên quan thống nhất cách thức giải quyết, một tâm lý
trái chiều khác có thể trở ngại các đương sự khi không khỏi băn khoăn về việc thỏa
thuận này khơng có những ràng buộc mang tính chất đại diện của quyền lực nhà
nước với các bên liên quan trong khi thực hiện thỏa thuận cam kết, vì thế rất có thể



17

khi một bên cảm thấy việc tiếp tục thực hiện khơng có lợi cho mình thì sẽ khơng giữ
cam kết của thỏa thuận và câu chuyện tranh chấp lại quay trở lại và tiếp tục kéo dài.
Cơ chế của việc công nhận thỏa thuận của đương sự giúp các bên đương sự
hiểu rằng, đó là một cơ chế giải quyết mềm dẻo nhưng cũng cứng rắn. Mềm dẻo ở
việc để cho các đương sự được quyền tự do thỏa thuận trong khuôn khổ không vi
phạm điều cấm của luật pháp và cứng rắn ở cơ chế giám sát, ràng buộc thực hiện
khi có sự can thiệp của cơ quan quyền lực nhà nước như Tòa án, cơ quan Thi hành
án (trong trường hợp cần thiết) … Do đó, có thể nói rằng việc CNSTT của đương sự
trong TTDS thơng qua Tòa án sẽ giúp cá nhân/tổ chức hiểu hơn và tác động một
cách tích cực tới việc lựa chọn hành động pháp lý phù hợp khi giải quyết VVDS.
- Góp phần đảm bảo, nâng cao quyền tự quyết, tự định đoạt - một nguyên
tắc nền tảng của pháp luật TTDS.
Theo đó, khi tham gia vào một quan hệ dân sự thì các chủ thể hồn tồn tự
quyết việc có hay không tham gia/thực hiện một công việc nhất định. Đi kèm với đó
là những thỏa thuận liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên, phương thức thực
hiện các quyền, nghĩa vụ đó và cũng như tự định đoạt khi tranh chấp xảy ra. Theo
quan điểm của tác giả, có thể ghi nhận BLTTDS 2015 được xây dựng trên tinh thần
của thể chế chiến lược cải cách tư pháp, đổi mới, cải cách thủ tục TTDS theo hướng
công khai, minh bạch, dân chủ, bảo đảm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Theo đó những yếu tố này xuất phát từ việc đặc biệt chú
trọng tới tinh thần cải cách tư pháp được nhắc đến trong Nghị quyết 48-NQ/TW;
Nghị quyết số 49-NQ/TW; Kết luận số 79-KL/TW; Kết luận số 92-KL/TW của Bộ
Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI - hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp,
bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người...; khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thơng qua thương lượng,
hịa giải, Trọng tài, Tịa án hỗ trợ bằng quyết định cơng nhận việc giải quyết đó9.

9. Những nội dung mới của BLTTDS 2015 - Trang thông tin hướng dẫn nghiệp vụ Bộ Tư pháp (Website:
/>%20BLTTDS%202015.pdf)


18

- Giúp Tịa án giải quyết nhanh chóng các VVDS.
Bằng việc thỏa thuận được với nhau và/hoặc hòa giải thành (thơng qua Tịa
án) của các đương sự đã giúp tiết kiệm nguồn lực khá lớn cho Tịa án nói riêng và
xã hội nói chung. Cụ thể, đó là những chi phí cho nguồn nhân lực, thời gian giải
quyết, tốn kém phải thu thập chứng cứ (vì khi đó có thể hiểu các đương sự sẽ rất
hợp tác khi thực hiện thủ tục tố tụng)... việc này sẽ giúp giảm bớt một số giai đoạn
tố tụng kéo dài và phức tạp. Cùng với đó, việc CNSTT của đương sự sau khi thỏa
thuận/hịa giải thành rất có thể sẽ chấm dứt chuỗi thủ tục khiếu nại hoặc kháng cáo,
kháng nghị kéo dài. Trong một vài tranh chấp dân sự đặc thù như giải quyết các vấn
đề liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình thì ngay cả khi việc hịa giải không
thành và không thể tiến tới việc CNSTT của đương sự ở thời điểm ban đầu thì quá
trình giải quyết/hịa giải cũng giúp Tịa án được phân cơng phụ trách cịn có thể nắm
bắt rõ hơn nội dung sự việc và hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các bên liên quan
để có thể có định hướng giải quyết đúng đắn, đồng thời gián tiếp nâng cao chất
lượng xét xử.
- Giúp Tịa án có thể linh động thời gian và giúp giảm áp lực cơng việc của
Tịa án.
Như đã phân tích ở trên, khi có nhiều VVDS được giải quyết (dù là tự thỏa
thuận hay Tòa án hòa giải) tiến tới việc Tịa án CNSTT của đương sự thì Tịa án sẽ
khơng bị chồng lấn q nhiều vụ việc và bớt được nhiều thời gian thay vì phải giải
quyết VVDS theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đồng nghĩa với
đó, việc làm tốt cơng tác hòa giải cũng khiến số lượng vụ việc cần xét xử/xem xét
lại ở Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm giảm xuống một cách rõ rệt, hệ
quả là hiệu quả xét xử được nâng cao. Thông qua đó gián tiếp nâng cao hiệu quả xét

xử VVDS bằng Tịa án.
Như vậy có thể thấy, việc hồn thiện chế định CNSTT của các đương sự là
rất cần thiết cho quy trình giải quyết VVDS (bao gồm cả những tranh chấp phát
sinh trong cuộc sống), hạn chế các quá trình tố tụng kéo dài gây mệt mỏi, tốn kém
cho người tham gia tố tụng.


19
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc pháp luật quy định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự trong tố tụng dân sự
1.1.4.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự trong tố tụng dân sự
Đương sự - với vai trò là người khởi đầu và cũng là bên quyết định đi tới
kết thúc những tranh chấp phát sinh bằng thỏa thuận dân sự có vai trị đặc biệt trong
TTDS. Chính vì quyền và lợi ích của đương sự là ngun nhân và mục đích của q
trình tiến hành tố tụng để CNSTT này. Câu hỏi đặt ra là, nếu sự thỏa thuận của
đương sự gần như trở thành "tối thượng" như vậy thì tại sao vẫn cần phải có luật để
điều chỉnh? Chúng ta có thể tham chiếu Khoản 2 Điều 3 (Các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự) BLDS 2015 quy định: "Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, khơng
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác
tơn trọng". Câu trả lời đó là "Không phải mọi thỏa thuận đều được thực hiện một
cách đúng đắn và công bằng". Không phải thỏa thuận nào được đưa ra cũng là hợp
pháp và/hoặc phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Chính vì thế, việc thiết lập một cơ chế để giám sát và đảm bảo tuân thủ
thỏa thuận giữa các bên là rất cần thiết.
Ngay tại Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh và nhiệm vụ của BLTTDS) BLTTDS
2015 đã quy định rõ: "Bộ luật tố tụng dân sự góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật". Cùng với đó, Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh) BLDS 2015 cũng quy định: "Bộ
luật này quy định về địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân,
pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong
các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và
tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)".


×