Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Hàn Quốc vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.33 KB, 33 trang )

Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Hàn Quốc vào Việt Nam
I. Đặc điểm và nhân tố ảnh hưởng FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam
1. Đặc điểm FDI Hàn Quốc vào Việt Nam
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu trong công
nghiệp chế tạo, sử dụng nhiều lao động, sản phẩm được xuất khẩu là chính.Việc
tận dụng nguồn lao động rẻ vẫn là mục đích của nhiều nhà đầu tư nước ngoài
khi đầu tư vào Việt Nam. FDI của Hàn Quốc vào các ngành sản xuất ô tô, xe
máy, thiết bị điện tử, đồ dân dụng và các sản phẩm xuất khẩu.
- Các nhà đầu tư Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức 100%
vốn đầu tư nước ngoài, chiếm khoảng 80%, tiếp đến là hình thức liên
doanh,chiếm khoảng 15% và còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh...Có thể là
nhà đầu tư Hàn Quốc rất cẩn thận khi đầu tư vào đối tác và họ luôn cẩn trọng
trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh, lĩnh vực đầu tư và địa điểm.
- Các dự án đầu tư của Hàn Quốc nhìn chung hoạt động tốt, quy mô bình quân
vốn lớn, cao hơn mức bình quân chung của cả nước ( trên 40triẹu USD) và chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất vật chất.
-Dự án đầu tư của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào 3 tỉnh, thành phố lớn là
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đồng Nai, có thể nói, cho đến nay, hầu hết
các tập đoàn hàng đầu của Hàn Quốc (Chaebol) đều đã có mặt ở Việt Nam.
- Các dự án Hàn Quốc tập trung vào những địa bàn có cơ sở hạ tầng tương
đối tốt. Tỷ lệ các dự án bị giải thể của Hàn Quốc thấp (9%), nguyên nhân là các
nhà đầu tư Hàn Quốc rất thận trọng trong việc khảo sát, nghiên cứu trước khi
quyết định nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi vào hoạt động.
- Hạn chế của đầu tư của Hàn Quốc là khả năng chuyển giaocông nghệ còn
thấp và quy mô đầu tư vào Việt Nam thấp hơn nhiều so với đầu tư vào các nước
khác trong khu vực như Singapore, Malaixia, Thái Lan.
- Do khủng hoảng kinh tế của Hàn Quốc, nên trong giai đoạn 1996-2000,
nhiều dự án triển khai chậm hoặc xin tạm dừng triển khai. Các dự án trong giai
đoạn 1996-2000 gặp khó khăn chủ yếu trong lĩnh vực khách sạn, văn phòng,
căn hộ cho thuê, không loại trừ cả một số dự án công nghiệp. Cá biệt trong các
năm 1992-1996 một số doanh nghiệp của Hàn Quốc đã để xảy ra tranh chấp lao


động, gây phản ứng không tốt trong dư luận.
2. Nhân tố ảnh hưởng FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam
2.1 Chính sách của nhà nước Việt Nam về Đầu tư nước ngoài
2.1.1 Các văn bản điều chính về Đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam
• Doanh nghiệp được mua bán ngoại tệ ở các NH thương mại để đáp ứng
các giao dịch vãng lai
• Đối với những dự án quan trọng Nhà nước đảm bảo cân đối đủ ngoại tệ
cho doanh nghiệp hoạt động
• Doanh nghiệp đợc thế chấp tài sản tại các tổ chức tín dụng để vay vốn
• Luật đất đai mới đã tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển thị trường
bất động sản với sự tham gia của ĐTNN
 Danh mục dự án đầu tư
 Các dự án được khuyến khích đầu tư
Nhà đầu tư hết các lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó khuyến khích đầu tư
vào các dự án:
• Công nghệ cao và công nghệ thông tin
• Công nghiệp chế tạo
• Vật liệu mới và năng lượng mới
• Ngành công nghiệp phụ trợ
• Đầu tư phát triển giống cây trồng và giống vật nuôi mới
• Nuôi trồng và chế biến nông, lâm hải sản
• Xây dựng kết cấu
• Y tế, giáo dục đào tạo
 Các dự án bị hạn chế đầu tư
- Dự án liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội
- Dự án về tài chính, ngân hàng
- Dự án tác động đến sức khoẻ cộng đồng
- Dự án về lĩnh vực văn hoá thông tin, báo chí, xuất bản
- Dự án về dịch vụ giải trí

- Dự án về kinh doanh bất động sản
- Dự án về khảo sát, tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, môi trường sinh thái
- Dự án về phát triển GD và ĐT
 Các dự án bị cấm đầu tư
- Các dự án gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi
ích công cộng
- Các dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hoá, đạo dức, thuần
phong mỹ tục VN
- Các dự án gây tổn hại sức khoẻ nhân dân, làm huỷ hoại thiên nhiên, tài
nguyên phá huỷ môi trường.
- Các dự án sử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào VN; sx các loại
hoá chất độc hạibị cấm theo điều ước quốc tế
2.1.2 Chính sách hỗ trợ và ưu đãi Đầu tư
 Ưu đãi về thuế : thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp…
 Mức thuế suất 10%, 15%, 20%, và 28%, tuỳ theo lĩnh vực ngành nghề,
mục tiêu hoạt động và địa bàn đầu tư
 Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp: tối đa 4 năm và giảm 50% thuế
CIT trong 9 năm tiếp theo
 Các doanh nghiệp FDI được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập
khẩu để tạo tài sản cố định (thiết bị máy móc, phơng tiện vận tải chuyên
dùng, vật t xây dựng trong nớc cha sản xuất đợc).
 Dự án phát triển hạ tầng khu công nghiệp: thuế suất 10% trong 15 năm,
miễn 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 7 năm tiếp theo.
 Dự án sản xuất trong KCN : thuế suất 15% trong 12 năm, miễn 3 năm và
giảm 50% số thuế phải nộp trong 7 năm liên tiếp theo.
Dự án cung cấp dịch vụ trong KCN: thuế suất 20% trong vòng 10 năm, miễn
2 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 6 năm tiếp theo.
 Dự án Đầu tư vào KKT được hưởng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn 4

năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo.
 Dự án Đầu tư vào KKT có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng được
hưởng thuế suất 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án.
 Giảm 50% thuế thu nhập cá nhân.
 Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu giữa khu phi thuế quan với nước ngoài và
với KCX, doanh nghiệp chế xuất không phải nộp thuế xuât khẩu, nhập
khẩu.
 Hàng hoá sản xuất, tiêu thụ hoặc nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi
thuế quan không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
 Ưu đãi cao hơn về thuế thu nhập doanh nghiệp.
 Người nước ngoài được mua nhà ở và thuê đất ở trong KKT…
 Ưu đãi về sử dụng đất : thời gian sử dung đất, thuế sử dung đất, tiền
sử dụng đất, thuê mặt nước.
-Thời hạn sử dụng đất của dự án Đầu tư không quá năm mươi năm; đối với
dự án có vốn Đầu tư lớn nhưng thu hồi chậm, dự án Đầu tư vào địa bàn có điều
kiện kinh tế xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá 70 năm
-Khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà Đầu tư chấp hành đúng phát luật về
đát đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét ra hạn sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được
phê duyệt.
-Nhà Đầu tư Đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi Đầu tư, địa bàn ưu đãi Đầu tư
được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai và phát luật về thuế.
 Ưu đãi về chế độ chuyển lỗ
- Các doanh nghiệp sau khi quyết toán thếu với cơ quan thuế mà bị lỗ thì
được chuyển lỗ và trừ vào thu nhập chịu thuế của những năm sau. Thời gian
chuyển lỗ không quá 5 năm
- Thời điểm bắt đầu thời gian miễn thuế là năm tài chính đầu tiên mà doanh
nghiệp có thu nhập chịu thuế chua trừ số lỗ. Trường hợp năm tài chính đầu tiên

được miễn thuế giảm thuế có thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ dưới 6 tháng, doanh nghiệp có quyền đuợc miễn thuế ngay năm đó
 Ưu đãi về chế độ khấu hao tài sản cố định
Dự án Đầu tư trong lĩnh vực, địa bàn ưu đãi Đầu tư và dự án kinh doanh có
hiệu quả được áp dụng khấu hao nhanh đối với tài sản cố định; mức khấu hao
tối đa là hai lần mức khấu hao theo chế độ khấu hao tài sản cố định.
2.2 Môi trường Đầu tư của Việt Nam
Việt Nam là nước có môi trường chính trị ổn định và môi trường hòa bình,
hữu nghị, hợp tác trong quan hệ quốc tế đó mở rộng với hầu khắp các nước.
Môi trường pháp chế đang được tích cực và hoàn chỉnh. Trong điều kiện tình
hình chính trị thế giới biến động hết sức phức tạp như cuộc chiến ở Trung Đông
ngày càng gay gắt, các cuộc khủng bố nổ ra ở khắp nơi, đặc biết vụ khủng bố
ngày 11/9 vừa qua ở Mỹ làm cho tình hình chính trị kinh tế thế giới biến động
không ngừng. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có môi trường
chính trị ổn định nhất.
Về kinh tế tương đối ổn định, có khả năng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc loại cao trên thế giới (năm 2001 tốc
độ tăng trưởng là 7%). Đặc biệt trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực Đông Nam ở năm 1997, Việt Nam là nước ít chịu ảnh hưởng nhất, điều đó
chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam khá ổn định, những điều chỉnh kinh tế vĩ mô là
hợp lý.
Môi trường kinh tế - chính trị ổn định tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư
nước ngoài về những rủi ro do biến động kinh tế, chính trị. Đây chính là điểm
mạnh để ta tích cực khai thác dòng FDI vào Việt Nam.
2.3 Luật đầu tư nước ngoài ngày càng hoàn thiện .
Thực hiện đường lối mở cửa, phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, luật đầu tư
nước ngoài của Việt Nam đó được ban hành từ thỏng 12 năm 1987 trải qua hơn
10 năm đớ vào thực tiễn cuộc sống, đầu tư nước ngoài (FDI) đó phát huy nhiều
tác dụng như chúng ta đó thu hút được 3672 dự án, tổng vốn đăng ký 41603,8
triệu USD với tổng số vốn pháp định 19617,8 triệu USD; thu hút được khoảng

67 đối tác trên khắp thế giới đầu tư vào hầu hết các ngành nghề sản xuất. Vốn
FDI cũng được thu hút vào 61 tỉnh, thành phố, đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Kết quả đạt được là do luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng được
sửa đổi hoàn thiện theo hướng ngày càng thông thoáng và hấp dẫn các đối tác
đầu tư nước ngoài. Những sửa đổi tạo sức hấp dẫn thu hút FDI cụ thể một số
điểm sau:
* Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài được Quốc Hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 6 năm 2000 đó bổ
sung thêm điều khoản: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham
gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển
đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Chính phủ
quy định về điều kiện, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư, sát nhập, hợp nhất
doanh nghiệp.”
* Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31-7-2000 của Chính phủ: Theo nghị định
này, một số lĩnh vực đầu tư như xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đó được đưa ra khỏi doanh mục bắt
buộc phải liên doanh, thay vào đó nhà đầu tư có thể đầu tư dưới hình thức 100%
vốn nước ngoài.
Hiện nay, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam chỉ hạn chế đầu tư dưới hình
thức 100% vốn nước ngoài trong 8 lĩnh vực là:
- Xây dựng kinh doanh mạng viễn thông quốc tế, viễn thông nội hạt.
- Khai thác chế biến dầu khí, khoảng sản quý hiếm.
- Dịch vụ tư vấn (trừ tư vấn kỹ thuật).
- Vận tải đường hàng không, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công
cộng, xây dựng cảng, ga hàng không.
- Sản xuất thuốc nổ công nghiệp.
- Trồng rừng.
- Du lịch lữ hành.
- Văn hóa.

Ngoài những lĩnh vực này, nhà đầu tư nước ngoài được chủ động lựa chọn dự
án đầu tư, hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, địa bàn, thời hạn đầu tư, thị trường
tiêu thụ sản phẩm, tỷ lệ gúp vốn pháp định phù hợp với quy định của luật đầu tư
nước ngoài. Đối với hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác
kinh doanh, để tạo điều kiện cho triển khai các dự án và cho các nhà đầu tư
nước ngoài , nghị định 24/2000/NĐ-CP quy định rằng trong quá trình kinh
doanh, nếu xét thấy cần thiết các bên hợp doanh có thể thỏa thuận thành lập ban
điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài thì các
doanh nghiệp liên doanh không bắt buộc phải lấy ý kiến thống nhất của hội
đồng quản trị đối với quyết định liên quan đến bổ nhiệm và miễn nhiệm kế toán
trưởng, chấp thuận báo cáo tài chính, chi phí hàng năm và vay vốn đầu tư. Sự
điều chỉnh như trên tạo điều kiện lành mạnh hơn cho quá trính ra quyết định của
nhà đầu tư.
Theo luật mới sửa đổi thí doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên
hợp doanh thực hiện dự án đầu tư không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện về
hình thức đầu tư được chuyển đổi hình thức đầu tư.
Như vậy, với việc xây dựng và sửa đổi luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam
ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, tạo thế chủ động và có lợi cho đối tác đầu
tư, làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn hơn.
2.4 Môi trường đối với đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng.
Chính phủ Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong các chính sách đối với đầu tư
nước ngoài theo hướng có lợi hơn cho đối tác. Với mục đích đẩy nhanh tốc độ
thực hiện các dự án đã đăng ký trên tinh thần coi trọng vốn thực hiện hơn vốn
đăng ký, nghị định số 10 và chỉ thị số 11 của Chính phủ ra đời nhằm phát huy
nội lực, tận dụng FDI làm mọi việc giúp các nhà đầu tư yên tâm, trụ vững ở
Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn. Thời điểm bắt đầu là sau hội nghị đầu tiên
của Chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài vào khoảng tháng 2/1998, Nhà
nước chủ trương xóa bỏ một số thủ tục hành chính rườm rà như việc cấp giấy
phép đầu tư, thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh... thời gian làm thủ

tục kiểm hàng, giao nhận hàng ở hải quan cũng đã rút ngắn bằng nửa so với
trước đây.
Chính phủ thực hiện các chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài như:
Tăng mức thuế ưu đãi lợi tức cho một số doanh nghiệp, miễn thuế lợi tức 4 năm
và giảm 5% trong 4 năm tiếp theo, thậm chí thuế lợi tức đến 8 năm đối với các
dự án ưu đãi đặc biệt. Đông thời cũng tiến hành giảm giá thuê đất khoảng 25%
cho 170 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ đã cho phép điều chỉnh tỷ lệ nội
tiêu và khuyến khích xuất khẩu, đồng thời các doanh nghiệp có vốn FDI cũng
được mua hàng hóa Việt Nam để xuất khẩu...
Việc phân cấp giấy phép đầu tư cũng được phân cấp toàn diện cho tất cả các
tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương được cấp giấy phép đối với các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài với quy mô không quá 5 triệu USD cho một dự án
(riêng Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh là 10 triệu) không kể 10 ban quản lý đã được
ủy quyền trước đây, nay bộ Kế hoạch và đầu tư tiếp tục ủy quyền cho các ban
quản lý khu công nghệp khác. Cách phân cấp quản lý này đã rút ngắn thời gian
chờ đợi cho các doanh nghiệp có vốn FDI, đảm bảo thời gian tối đa là 30 ngày,
ở TP.Hồ Chí Minh chỉ mất có 9 đến 15 ngày để nhận được giấy phép. Bên cạnh
đó, do chủ trương ủy quyền cấp giấy phép mà việc nhập khẩu thiết bị, vật tư của
doanh nghiệp cũng diễn ra nhanh chóng hơn. Các địa phương thì có điều kiện
theo dõi ngay từ đầu khi các dự án mới hình thành và chủ động điều chỉnh, giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của dự án.
2.5 Môi trường và chính sách Đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc
Với nền kinh tế Hàn Quốc , tổng giá trị thương mại hàng xuất khẩu tương
đương với 70 % GDP của cả nước trong năm 2005, trong khi tổng doanh thu
của các công ty đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 14%. Như vậy, Hàn
Quốc đang cố gắng nỗ lực để hỗ trợ các công ty nước ngoài Ví dụ gần đây là
việc mở cửa cụm công nghiệp sản xuất LCD lớn nhất trên thế giới ở Paju,
cách khu vực phi quân sự vài km.
Chính phủ xây dựng đường sá và cơ sở hạ tầng dể hỗ trợ các khu công
nghiệp có tầm cỡ của Paju. Chính phủ nới lỏng hoặc bãi bỏ mà đã tồn tại

nhiều thập kỉ liên quan đến phát triển các vùng biên giới. Những ưu đãiđó và
các biện pháp khác được tiến hành với tốc độ khẩn trương nhất, một tín hiệu
của thiện chí và cam kết của chính phủ để giúp cho các doanh nghiệp nước
ngoài làm ăn tại Hàn Quốc.
Còn có những ví dụ thành công khác : nhà bán lẻ của Anh(Tesco) đã làm
ăn rất có hiệu quả tại Hàn Quốc chiếm tới 1/3 doanh thu ở nước ngoài của nhà
bán lẻ này; hoạt dộng xuất sắc của GM Daewoo. Công ty này trong quý I 2006
một lần nũa trở thành nhà sản xuấtô tô thứ hai của Hàn Quốc. Đây là một tiến
bộ to lớn vĩ đại chỉ trong vòng bốn năm. Trên thực tế GM Daewwo hoạt động
tốt cũng là để giúp cho tăng cường cho hình ảnh của hãng GM ở Châu á hy
vọng đạt 11 tỷ đô la Mỹ DTNN năm 2006- mức tương đương năm 2005. Bên
cạnh các lĩnh vực thông thường như tài chính và bảo hiểm, còn có các khu vực
khác mà các nhà đầu tư đang quan tâm trong lĩnh vực thiết bị nghiên cứu phát
triển, trung tâm giao vận và trụ sở các tập đoàn đa quốc gia. Các công ty sản
xuất nguyên vật liệu cũng rất quan tâm tới lĩnh vực điện tử phát triển cao của
Hàn Quốc. Sự quan tâm của các nhà đầu tư trong lĩnh vực này là đương nhiên
khi xem xét tới Đầu tư nghiên cứu và phát triển ( R & D) khổng lồ của Hàn
Quốc hàng năm, giúp cho Hàn Quốc đứng thứ 10 hàng năm. Việc công hiên
như vậy đã đem lại nhiều thành tựu trong nhiều lĩnh vực. Trong năm 2005, Hàn
Quốc đứng thứ 6 xét về số lượng xin cấp bằng phát minh sáng chế quốc tế nộp
tại tổ chức sở hữu trí tuệ (WIPO)
Nắm bắt được tầm quan trọng của đầu tư đối với tương lai của đất nước, Hàn
Quốc quyết tâmthực hiện tất cả những gì có thể để thoả mãn nhu cầu của nhà
Đầu tư . Hàn Quốc đang thực thi những biện pháp nhằm trợ giúp cải tiến môi
trường kinh doanh. Khu mới Invest Plaza ở Nam Seoul được hy vọng để giúp
đỡ các doanh nghiệp có Đầu tư nước ngoài thâm nhập dễ dàng vào nền kinh tế.
Có nhiều chương trình tới các nhà đầu tư tiềm năng, chương trình quan trọng
nhất là những tư vấn thực hiện và trợ giúp ban đầu cho các doanh nghiệp chuẩn
bị hoạt động tại Hàn Quốc. Plaza đạt mục tiêu trở thành địa chỉ dịch vụ một cửa
cho các nhà Đầu tư : nhà quản lí dự án sẽ giúp mọi thứ từ việc tìm ra địa điểm

tốt nhất để xây dựng nhà máy, xử lí chi tiết hành chính cho tới áp dụng tất cả
các chương trình và lợi ích của chính phủ tương ứng. Chính phủ nỗ lực để gia
tăng những khuyến khích mà doanh nghiệp Đầu tư vào lĩnh vực R&D công
nghệ cao hay những doanh nghiệp mong muốn đặt trụ sở ở khu vực Hàn Quốc
sẽ được nhận những ưu đãi về tiền bạc
Cuối cùng là Hàn Quốc đang tập trung nỗ lực vào hai mục tiêu: Thứ nhất, trợ
giúp các điều kiện thị trường và cho phép doanh nhân nhận ra đầy đủ tiềm năng
doanh nghiệp của họ ở Hàn Quốc. Thứ hai, thực hiện các cam kết của mình
nhằm giúp đỡ doanh nghiệp hoạt động tốt ở Hàn Quốc
Để nền kinh tế có lợi hơn cho Đầu tư nước ngoài, năm 1998, Chính phủ đã
thay thế Đạo. luật quản lí ngoại hối trước đây bằng Đạo luật quản lí ngoại hối
mới. Các biện pháp tự do hoá trong luật mới được thực hiện trong hai giai đoạn
trong khoảng hai năm và những mục tiêu ban đầu của luật mới gồm có sự tự do
hoá tài khoản vốn và phát triển hơn nữa thị trường giao dịch trong nước.
Nội dung chính của tự do hóa trong giai đoạn đầu là áp dụng” Hệ thống
danh mục phủ định”. Hệ thống này linh hoạt hơn hệ thống danh mục xác thực
trước đây, cho phép tự do hoá giao dịch các tài khoản vốn, trong đó các hoạt
động của doanh nghiệp lien quan với các cơ sở tài chính, bao gồm các khoản
vay ngắn hạn từ nước ngoài. Một nỗ lực tự do hoá thị trường khác của chính
phủ là cho phép uỷ quyền giao dịch ngoại hối nhằm giúp các tổ chức tài chính
đáp ứng một số yêu cầu nhất định.
Nội dung chính của tự do hoá giai đoạn hai gồm việc cho phép thực hiện các
giao dịch bằng tài khoản vốn vẫn còn bị hạn chế trong giai đoạn một, trừ những
giao dịch có liên quan đến an ninh quốc gia và nhằm ngan chặn các hoạt động
tội phạm. Nội dung này cho phép những người (nước ngoài) không cư trú ở Hàn
Quốc được Đầu tư vào các khoản tiền gửi bằng đông won ở Hàn Quốc với kì
hạn thanh toán dưới một năm và cho phép các cá nhân(nước ngoài) cư trú tại
Hàn Quốc Đầu tư vào các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài và chứng
khoán. Tuy nhiên các biện pháp tự do hoá này không phảI là không có những
rủi ro. Bởi vây, cùng với việc thực hiện những biện pháp trên, Chính phủ đang

tăng cường các quy chế giám sát thị trường và xây dựng một hệ thống cảnh báo
sớm. Chính phủ đã vạch ra các kế hoạch phát triển thị trường trung tâm và dài
hạn trong tháng 4 năm 2002 để biến Hàn Quốc trở thành một đất nước thân
thiệnvới kinh doanh và biến thi trường ngoại hối Hàn Quốc trở thành một trung
tâm tài chính Đông á. Những kế hoạch này sẽ được triển khai cho tới năm 2011
theo ba giai đoạn. Theo đó, nhiều hạn chế được áp dụng trong giai đoạn một và
hai cuă quá trình tự do hoá ngoại hối sẽ được bỏ dỡ trong năm 2011.
Trong năm 2002, thủ tục cấp phép của ngân hàng trung ương Hàn Quốc đã bị
bãi bỏ và các thủ tục giấy tờ cho giao dịch tài chính cá nhân và công ty đã được
đơn giản hoá. Cùng lúc này, quá trình lưu chuyển vốn đã được tự do hơn nhiều.
Nhằm phục hồi DTNN , Chính phủ đã tích cực làm việc về tự do hoá kể từ năm
2005. Ví dụ như nới lỏng các luật lệ về DTNN trực tiếp và việc mua bán bất
động sản ở nước ngoài bởi công dân Hàn Quốc . Trong năm 2006, tất cả các
giao dịch vốn được chuyển từ một hệ thống cấp phép sang một hệ thống báo cáo
đơn giản cho tự do hoá việc tái Đầu tư
II. Thực trạng Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Hàn Quốc vào Việt
Nam
1. Tổng quan về FDI của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
Năm 2006, Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt mức cao nhất trong
quá trình thu hút Đầu tư nước ngoài của chính phủ Việt Nam với 7,48 tỉ USD.
Đầu tư nước ngoài vào ngành Công nghiệp của Việt Nam trong năm 2006
chiếm 67,2%, trong đó Đầu tư cho nghành Công nghiệp nhẹ chiếm tới 79%,
Đầu tư nhằm mục tiêu sử dụng nguồn lao động rẻ vẫn chiếm tỉ lệ cao, ngoài
Đầu tư trong các ngành dịch vụ, kinh doanh khách sạn và du lịch, xây dựng
chung cư, văn phòng cũng chiếm tỉ lệ lớn.
Từ giai đoạn 1988 đến 2006 vốn Đầu tư thực hiện chiếm 47,6 tổng số vốn
Đầu tư .
Về địa bàn Đầu tư thì khu vực phía Nam vẫn thu hút chủ yếu và lớn nhất cả
nước, chiếm đến 67% tổng số vốn Đầu tư nước ngoài, còn lại là các địa phương
khác.

Trong năm 2006, con số cuối cùng về thu hút (FDI) là 9,927.9 tỷ USD, tăng tới
45% so với năm trước và vượt 32% kế hoạch cả năm, bao gồm cả dự án cấp
mới và tăng vốn. Trong đó có 797 dự án được cấp mới với tổng vốn đầu tư đăng
ký là 7,5 tỷ USD và 439 dự án tăng vốn với tổng cộng 2,121.7 tỷ USD

×