Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thông tin về biến đổi khí hậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.2 KB, 9 trang )

Thông tin về biến đổi khí hậu
Theo nongnghiep.vn – 7 tháng trước
1. Giải mã bí ẩn liên quan đến những đám mây khi thời tiết thay đổi
Từ lâu những bí ẩn liên quan đến mây được xem là phức tạp nhất. Bởi vậy người ta coi biến
đổi khí hậu là một phương trình thì mây sẽ là những biến số cân bằng. Điều này cho thấy các
mô hình khí hậu toàn cầu là những mô hình không rõ ràng và chứa đựng nhiều bí ẩn, thậm chí
người ta đã dùng đến kỹ thuật có tên là Parameterization (thông số hoá) để giải mã sự hình
thành và phân rã của những đám mây song thực tế kết quả vẫn chưa đạt được là bao. Mới đây
các chuyên gia ở Trung tâm nghiên cứu khí hậu Calverton Mỹ đã giải mã được những bí ẩn
của các đám mây khi khí hậu thay đổi bằng cách dùng máy tính tạo ra một mô hình đại diện
cho các quá trình hình thành của mây. Sau khi phân tích dựa trên các chế độ khí hậu tiêu
chuẩn người ta biết được những thay đổi của các quá trình này, khám phá ra sự bốc hơi theo
mùa và những hình thái khí hậu khác và tìm ra nguyên nhân gây hiện tượng gió mùa ở châu Á
cũng như hiện tượng El-Nino ở vùng Nam bán cầu.
2. Biến đổi khí hậu làm giảm sản lượng cà phê Kenya
Kenya là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất châu Phi nhưng do thời tiết thay đổi,
đặc biệt là hạn hán kéo dài, không có mưa làm cho sản lượng cà phê giảm mạnh. Ví dụ trong
năm 2007/08 lượng mưa thất thường nên cà phê bị bệnh, làm giảm tới 23% sản lượng cà phê
(khoảng 42.000 tấn). Thông thường cà phê thường phát triển tốt ở mức nhiệt độ từ 19-25
o
C
nhưng nếu nhiệt độ tăng cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quang hợp và làm cho cây
chết khô. Khi cà phê nở hoa cần một vài tháng khô nhưng sau đó phải có mưa, song do khí
hậu thay đổi đã làm cho quá trình phát triển trên bị đảo ngược, làm gia tăng bệnh ở hạt cà phê
có tên là bệnh CBD.
3. Phát tán carbon làm thay đổi cấu trúc nguyên tử của thực phẩm
Việc thay đổi đồng vị carbon trong thực phẩm kéo theo nhiều quy trình tốn kém trong việc xử
lý, chế biến thực phẩm. Theo nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Nature do các chuyên gia ở ĐH
Colgate (Mỹ) thực hiện cho thấy cấu trúc nguyên tử của nước ngọt hoa quả đã có những thay
đổi đột biến so với những năm 70 ở thế kỷ trước. Nguyên nhân của quá trình thay đổi này là
do việc phát tán khí thải các bon gây ra. Nhờ có đồng vị carbon mà người ta biết được nguồn


gốc nguyên thuỷ của thực phẩm và chính sự thay đổi về đồng vị carbon đã làm cho thực
phẩm giảm chất lượng cả về mùi vị, độ ngọt lẫm độ đậm.
4. Đến giữa thế kỷ 21, băng tan ở Bắc Cực gây thiệt hại 24 nghìn tỷ USD
Các chuyên gia ở Cao đẳng Bard College (Mỹ) vừa hoàn tất một nghiên cứu về nhiệt độ trái
đất và phát hiện thấy đến năm 2050 băng tan ở Bắc Cực có thể gây thiệt hại cho con người tới
trên 24 nghìn tỷ USD. Đây là những tổn thất mang tính dây chuyền mà nguyên nhân chính là
do biến đổi khí hậu. Hậu quả làm cho nước biển trào dâng, làm tăng việc phát tán khí mê
tan vào bầu không khí, xói mòn đất, lụt lội, khô hanh và tạo ra những cơn sóng nhiệt… Theo
ông Eban Goodstein chủ nhiệm dự án nghiên cứu nói trên thì từ lâu băng ở vùng Bắc Cực
được xem là chiếc máy điều hoà nhiệt độ khổng lồ của trái đất, nhưng một khi nó gặp sự cố,
bị “tan ra” do nhiệt độ nóng lên sẽ kéo theo nhiều thiệt hại khó lường. Tại vùng biển Bắc Cực
hàng năm băng tan gây tổn thất từ 61 đến 381 tỷ USD, mức thiệt hại này sẽ tiếp tục tăng vì
nhiệt độ trái đất và quá trình phát tán khí CO
2
không hề giảm, riêng phát tán khí mê tan ở
vùng Bắc Cực trong những năm gần đây tăng tới trên 30%.
Nguyên nhân của biến đổi khí hậu

Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã
được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con người.
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều
năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải
vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng
nhiệt độ của trái đất.
Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được
khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng (khoảng
18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 -200ppm (phần
triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng
năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào
năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2

tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.
Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ
715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb
(17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với
tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn
bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm
lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển.
Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng
lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao
thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá
rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất
hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.
Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70% tổng
lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát
thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ.
Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng
lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2,
tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800
triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát
thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm
1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO2 của các nước
này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu
các nước đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước Biến đổi khí hậu.
Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn CO2,
tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm,
Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn,
Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn).
Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song vẫn ở
mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính tổng lượng phát
thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020,

tăng 93% so với năm 1998.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng
tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn cầu; các nước châu Phi và
cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân
số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà các nước đang phát
triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và
Nghị định thư Kyoto.
Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên hợp
quốc về BĐKH là: “Các bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hôm nay
và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có
phân biệt và bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống BĐKH và
những ảnh hưởng có hại của chúng”.
Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính
Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% khối lượng, khí oxy chiếm 21%,
còn lại khoảng 1% các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon, hêli, hyđrô,
ôzôn,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí CO2,
CH4, NOx, và CFCs - một loại khí mới chỉ có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát
triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì
các chất khí nói trên hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng
bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng
ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá
nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất.
Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí nhà
kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của chúng ta sẽ lạnh hơn
hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất sẽ khoảng 18oC. Hiệu ứng giữ cho
bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng
nhà kính”. Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành một lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quyển
có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và thông qua đó bảo vệ
sự sống trên trái đất.
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10.000 năm, nồng độ các chất khí nhà

kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát
thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ lệ từ 6,4 tỷ tấn
cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 45,9
tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 – 2005.
Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (bụi, cacbon hữu cơ, sulphat, nitrat…) gây ra hiệu
ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng trực tiếp là 0,5W/m2 và gián tiếp
phản xạ của mây là 0,7W/m2; thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, tạo ra
lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng 0,02W/m2; trái lại, sự gia tăng khí
ôzôn trong tầng đối lưu do sản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi trong hoạt động
của mặt trời trong thời kỳ từ năm 1750 đến nay được xác định là tạo ra hiệu ứng dương đối
với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m2. Như vậy, tác động tổng cộng
của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức âm. Vì thế, trên
thực tế, sự tăng lên của nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được trong thời gian qua đã bị
triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo
trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với những gì đã quan trắc được, và điều
đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là do các hoạt động của con người chứ
không phải do quá trình tự nhiên.
Nguyên nhân của nước biển dâng
Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm
triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao hơn hoặc thấp hơn
so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại dương và các yếu tố khác.
Mực nước biển được đo thông qua hệ thống thiết bị đo triều ký đặt tại các trạm hải văn hoặc
các máy đo độ cao vệ tinh.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự nóng lên của
hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng
lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của
lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu.
Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần chứa
nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt của các đại dương, các sông băng trên
núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.

Các kết quả nghiên cứu gần đây đưa ra dự báo mực nước biển sẽ cao hơn từ 0,5 – 1,4m vào
cuối thế kỷ XXI.
Động vật nhỏ dần vì biến đổi khí hậu
Kích thước cơ thể một giống cừu hoang ở Scotland giảm dần theo thời gian do tình trạng ấm
lên toàn cầu.
Những con cừu Soay trên đảo Hirta. Ảnh: BBC.
Giới chuyên gia về tiến hóa từng dự đoán rằng kích thước của cừu hoang sẽ ngày càng tăng vì
chỉ những con to và khỏe mới có cơ hội sống sót, trưởng thành và sinh sản. Nhưng trong một
nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học của Đại học Imperial (Anh) phát hiện ra rằng dự đoán
đó có thể không trở thành hiện thực bởi sự can thiệp của môi trường.
Nhóm chuyên gia nghiên cứu những con cừu Soay trên đảo Hirta, quần đảo St Kilda lần đầu
tiên vào năm 1985. Kể từ đó tới nay kích thước trung bình của cừu giảm 5%. Chiều dài chân
và trọng lượng cơ thể chúng giảm dần. Hiện tượng kỳ lạ ấy được công bố vào năm 2007,
song chưa ai tìm ra nguyên nhân.
Tim Coulson, trưởng nhóm nghiên cứu, cho rằng đảo là nơi lý tưởng để nghiên cứu các thay
đổi về mặt thể chất của động vật, bởi chúng bị cô lập với thế giới bên ngoài bởi nước. “Người
ta có thể ví đảo như phòng thí nghiệm thiên nhiên – nơi chỉ có cừu và thực vật”, Coulson
nhận xét.
Trong suốt 2 thập kỷ qua, nhóm của Coulson thu thập dữ liệu chi tiết về cừu Soay trên đảo
Hirta để đánh giá tác động của mọi nhân tố đối với sự thay đổi kích thước của chúng. Họ sử
dụng một công thức có tên “phương trình Price”. Công thức này được nhà sinh học tiến hóa
George Price lập ra để dự đoán những thay đổi về thể chất (như kích thước cơ thể) của động
vật qua các thế hệ.
Phương trình Price cho thấy, môi trường có ảnh hưởng lớn hơn áp lực tiến hóa đối với sự biến
đổi thể chất của cừu Soay. “Trong quá khứ, chỉ có những con cừu to, khỏe, không mắc bệnh
tật mới có thể sống sót qua mùa đông lạnh giá trên đảo Hirta. Nhưng do tình trạng ấm lên của
địa cầu mà mùa đông ngày càng trở nên bớt lạnh. Nhờ đó mà cỏ mọc quanh năm trên đảo
khiến thức ăn trở nên dồi dào. Cuộc sống của cừu trở nên dễ chịu đến nỗi ngay cả những con
bé, yếu, chậm chạp và mắc bệnh cũng có thể sống qua mùa đông. Dần dần những con bé
chiếm tỷ lệ lớn trong các đàn”, Coulson giải thích.

Coulson và cộng sự cũng nhận thấy cừu ít tuổi có xu hướng sinh ra những đứa con có kích
thước nhỏ hơn thế hệ trước. Nhóm nghiên cứu tin rằng kích thước của cừu Soay sẽ tiếp tục
giảm trong tương lai, vì trái đất vẫn tiếp tục ấm lên
Cây táo Newton sắp chết
Hàng nghìn cây cổ thụ tại nước Anh, trong đó có cây táo gắn liền với định luật vạn vật hấp
dẫn của nhà khoa học thiên tài Isaac Newton, đang chết dần do ô nhiễm môi trường, phát triển
đô thị và biến đổi khí hậu.
Cây táo trong điền trang Woolsthorpe, hạt Lincolnshire, Anh. Thiên tài khoa học Isaac
Newton phát triển định luật vạn vật hấp dẫn sau khi nhìn thấy một quả táo rụng từ cây này.
Hiện nay nó đã được gần 350 tuổi. Ảnh: Telegraph.
National Trust - tổ chức bảo tồn các di sản tự nhiên, kiến trúc và lịch sử trên lãnh thổ vương
quốc Anh - cho biết, xứ sở sương mù sở hữu một số cây cổ thụ nổi tiếng nhất thế giới. Chúng
mọc trong các lâu đài cổ, công viên quốc gia và thậm chí trong cả nhà dân.
Tuy nhiên, tình trạng sử dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp, xói mòn đất, ô nhiễm
trong các đô thị, tình trạng ấm lên toàn cầu có thể giết chết những cây cổ thụ nổi tiếng nếu
con người không nhanh chóng ra tay để cứu chúng.
Trong số những cây nổi tiếng nhất xứ sương mù đối mặt với nguy cơ diệt vong có cây táo gần
350 tuổi tại điền trang Woolsthorpe, hạt Lincolnshire. Người ta đồn rằng nhà khoa học thiên
tài Isaac Newton đã phát minh định luật vạn vật hấp dẫn sau khi nhìn thấy một quả táo từ cây
này rơi xuống đất vào năm 1665. Ngoài ra còn có một cây thủy tùng 2.000 tuổi ở hạt
Berkshire và một cây sung dâu vài trăm tuổi ở Dorset.
National Trust đã chỉ định một chuyên gia chịu trách nhiệm bảo đảm sự sống cho các cây cổ
thụ nổi tiếng bằng cách bảo vệ môi trường xung quanh chúng. Họ cũng trồng nhiều cây mới
gần những cây cổ thụ đã hoặc sắp chết.
"Tất cả cây cổ thụ nổi tiếng đều đối mặt với mối đe dọa từ thuốc trừ sâu, phân bón. Tình
trạng sử dụng hóa chất tràn lan khiến môi trường xung quanh chúng bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Khói, bụi từ các sân bay và đường sá, tình trạng xói mòn đất cũng làm tăng nguy cơ chết của
cây", Brian Muelaner, một chuyên gia về cây lâu năm của National Trust, phát biểu.
Theo Muelaner, cây cổ thụ không chỉ có giá trị về mặt lịch sử mà còn là môi trường sống của
nhiều loài chim, côn trùng và địa y. Những loài đó chỉ có thể tồn tại trên cây lâu năm.

Ngày càng có nhiều nhà khoa học bày tỏ lo ngại về tình trạng chặt phá cây cối để làm đường
và xây dựng nhà. National Trust cho hay Anh có ít nhất 100.000 cây cổ thụ. Ngoài 40.000 cây
thuộc sở hữu của National Trust, số cây còn lại hầu như không được biết đến và bảo vệ.
1.Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại
Khí hậu là trạng thái khí quyển ở nơi nào đó, được đặc trưng bởi các trị số trung bình nhiều
năm về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước, mây, gió...Như vậy, khí hậu
phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và nó thường có tính chất ổn định, ít thay
đổi. Trong lịch sử địa chất của trái đất chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xẩy ra
với những thời kỳ lạnh và nóng kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay
thời kỳ gian băng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là
giai đoạn ấm lên của thời kỳ gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi khí hậu này,
chúng ta có thể thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng trục quay trái đất, sự thay
đổi quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các lục địa và đại dương và đặc biệt là sự
thay đổi trong thành phần khí quyển.

×