Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TẠI VPBANK CHI NHÁNH ĐÔNG ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.84 KB, 47 trang )

CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TẠI VPBANK CHI NHÁNH
ĐÔNG ANH
2.1 Giới thiệu sơ lược về ngành Ngân hàng
2.1.1 Định nghĩa ngân hàng thương mại
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có
một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương
mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động
trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ
sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch
vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho
vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu
hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam
xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
2.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn của NHTM
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác;
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giáy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước;
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam,các tổ chức nước ngoài;
- Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các


hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho
vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
A, Cho vay
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
- Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
B, Bảo lãnh
NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu
thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình
đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của
một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM
C, Chiết khấu
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
C, Cho thuê tài chính
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công
ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khỏan cho khách hàng trong và ngoài nước.
Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước,
ngân hàng thương mại phải mở tài khỏan tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi ngân
hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo
quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khỏan tiền gửi tại
chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động

dịch vụ thanh tóan và ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép;
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng;
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh tóan liên ngân
hàng trong nước;
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
2.1.2.4 Các hoạt động khác của NHTM
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số hoạt
động khác bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần – Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ
dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác
trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được
góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng
liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ - Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền
tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công
cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được pháp kinh doanh hoặc thành
lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác – Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm
đại lý trong các lính vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản,
vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm – Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo
hiểm, đươch thanh lập công ty trực thuộc hoặc lien doanh để kinh doanh bảo hiểm theo

quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính – Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài
chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư
vấn trực thuộc ngân hàng. Bảo quản vật quý giá – Ngân hàng thương mại được thực
hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch
vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
2.1.3 Đặc điểm của các NHTM
2.1.3.1 NHTM giữ vị trí quan trọng nhất thị trường tài chính
NHTM đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong toàn
bộ nền kinh tế nói chung. Trong đó NHTM giữ vị trí quan trọng nhất trên thị trường tài
chính với việc nắm giữ khoảng 80% tài sản có trong hệ thống ngân hàng, có khả năng
chi phối hoạt động của hệ thống tài chính và các tổ chức tín dụng. So với các tổ chức
tín dụng khác NHTM được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác mà một số trung gian tài chính khác không thể thực hiện được bao
gồm việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ bao thanh toán, do đó tạo nên sự
đa dạng về nghiệp vụ kinh doanh và các sản phẩm dịch vụ cung ứng của NHTM. Đối
tượng khách hàng phong phú cùng với địa bàn hoạt động rộng khắp hoạt động của
NHTM càng trở nên quan trọng hơn.
NHTM là công cụ của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến
lược, là công cụ thực hiện chinh sách tiền tệ.
Do có vai trò quan trọng nhất, tác động đến tất cả các chủ thể cùng với sự đa dạng
về khách hàng cũng như các nghiệp vụ và địa bàn hoạt động rộng lớn nên NHTM có
khả năng thoả mãn tốt nhất lợi ích của mọi chủ thể tham gia trên thị trường tài chính và
toàn bộ nền kinh tế. Thể hiện thông qua vai trò của nó.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất
hiện nay, là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vài trò là trung gian tài
chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho
những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng
thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán (checkable deposits),
tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time deposits). Vốn huy động

được dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans), cho vay tiêu dùng
(consumer loans), cho vay bất động sản (mortage loans) và để mua chứng khoán chính
phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào
cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, cũng là trung gian tài chính mà các chủ
thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.
2.1.3.2. NHTM đảm nhiệm những chức năng quan trọng trong nền kinh tế
Chức năng trung gian tín dụng, khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng thì
ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu
cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi
vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa
lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay.
- Đối với người gửi tiền, NHTM thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm
bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
- Đối với người đi vay, NHTM sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện
lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực
thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.
- Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại.
Chức năng tạo tiền: Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm
tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương
mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín
dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại
ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong
các giao dịch.
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ

thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số
mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của
công chúng.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng
thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền
cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong
khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ
phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ
ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành
mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng
thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông
tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả
năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Chức năng trung gian thanh toán, ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là
thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khác thu khác theo lệnh của khách hàng.
Hoạt động của các ngân hàng liên quan hầu hết đến các chủ thể kinh tế trong xã
hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi
tiền đồng thời đến toàn hệ thống. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau rất chặt chẽ, chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân
hàng cũng sẽ gây lên vấn đề thanh khoản của cả hệ thống. Mặt khác sự sụp đổ của
ngân hàng sẽ gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền.
2.1.3.3. Chứa đựng nhiều rủi ro do trong hoạt động kinh doanh của NHTM
- Đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ – một hàng hoá đặc biệt với đặc
điểm rất nhạy cảm dễ bị tác động ảnh hưởng bởi những thay đổi, biến động của các
yếu tố môi trường. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn đi vay dưới
hình thức tiền với tính chất ổn định tương đối thấp.
- NHTM sử dụng vốn chủ yếu là cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức cá
nhân, hoặc đầu tư vào tài sản tài chính;
- Cường độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng cao;
- Khách hàng của các ngân hàng có quan hệ tiếp tục, thường xuyên, gắn bó mật
thiết và lâu dài với ngân hàng;
- Sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ tài chính với những đặc điểm vô hình,
không ổn định và không dự trữ;
- Tuy mức dư nợ trong những năm gần đây, tăng trưởng khá phù hợp với tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn
còn tồn tại nhiều vướng mắc. Các rủi ro này chủ yếu là do thủ tục pháp lý và yếu tố chủ
quan làm kéo dài thời gian thu hồi nợ và gây lỗ cho ngân hàng vì thời gian kéo dài, tài
sản hư hao, vốn tồn đọng.
Vì vậy các hoạt động ngân hàng luôn song hành với các rủi ro, mức lợi nhuận
luôn tỉ lệ thuận với độ rủi ro nên luôn cần sự quản lý vĩ mô cần thiết để hạn chế rủi
ro cho hệ thống ngân hàng. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, nhưng rủi ro tín dụng, thanh khoản và tác nghiệp đang là những rủi ro chính
mà các ngân hàng Việt Nam đối mặt:
A, Rủi ro tín dụng
Dù danh nghĩa là hoạt động đa năng, nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng hiện
vẫn chiếm trên/dưới 90% tổng thu nhập của từng NHTM Việt Nam. Rủi ro tín dụng của
các NHTM chủ yếu là do thất bại của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ đã
cam kết với NHTM.
Những rủi ro tín dụng như vậy ngoài nguyên nhân từ chủ quan của khách hàng còn
có nguyên nhân từ phía NHTM đã vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động

của TCTD, và trong một số vụ còn có sự tiếp tay của một số cán bộ NH cho đối tác lợi
dụng việc kinh doanh BĐS để lừa đảo.
Hiện nay thì các yêu cầu về thông tin phục vụ phân tích tín dụng vẫn chưa được
đáp ứng đáng tin cậy, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài
chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán do vậy độ chính xác của
báo cáo chưa cao.
Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn, tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ
biến (cán bộ tín dụng chủ yếu lấy thông tin từ chính sự khai báo của khách hàng). Thiếu
các trung tâm dữ liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, DNVN... (Trung tâm thông tin
tín dụng của NHNN mới chỉ cung cấp thông tin về DN).
B, Tiềm ẩn rủi ro tác nghiệp
Theo Hiệp ước Basel II thì rủi ro hoạt động/rủi ro tác nghiệp là rủi ro thiệt hại xuất
phát từ việc các quy định nội bộ, con người và hệ thống không đầy đủ/hoặc không hoạt
động/hoặc xuất phát từ các sự kiện bên ngoài. Định nghĩa này bao gồm rủi ro pháp lý
nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và uy tín. Dạng rủi ro này ở Việt Nam tuy chưa
nhiều, nhưng với sự phát triển của kinh tế thị trường và CNTT thì đây được coi là rủi ro
tiềm ẩn.
Ngoài ra còn đã xảy ra một số vụ kẻ xấu nổ súng, dùng dao đe dọa cướp tiền NH
trên đường vận chuyển hoặc của khách hàng vừa giao dịch với NH...
C, Thanh khoản là vấn đề nhạy cảm
Rủi ro thanh khoản NH là tình trạng NH mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ của
mình khi đến hạn hay là khả năng NH không có được đủ vốn khả dụng (cung thanh
khoản) với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà NH cần để đáp ứng cầu thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản làm giảm thu nhập, uy tín, mất khả năng thanh toán. Trong
ngắn hạn, có lẽ các Ngân hàng sợ nhất tình trạng này, đặc biệt khi thông tin rủi ro bị lọt
ra bên ngoài. Liên quan đến rủi ro thanh khoản, có chuyên gia ngân hàng cho rằng có
mối quan hệ giữa lãi suất và thanh khoản. Mỗi khi thanh khoản hệ thống có vấn đề, Lãi
suất, đặc biệt là Lãi suất huy động và Lãi suất liên ngân hàng lại bị đẩy lên cao khiến
ngân hàng gặp rủi ro về thu nhập và giá trị tài sản của Ngân hàng chịu ảnh hưởng bất
lợi của những biến động Lãi suất. Từ đó lại dẫn đến rủi ro thanh khoản. Đây là một cái

vòng luẩn quẩn, nếu không có khung quản trị rủi ro tốt thì các ngân hàng không thể
thoát ra được.
Rủi ro chính sách đối với thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói
riêng ở Việt Nam thời gian qua cũng được nhiều chuyên gia nêu ra. Rủi ro chính sách
có thể làm tăng rủi ro về lãi suất và tỉ giá của các NHTM. Tuy nhiên, theo một số ý kiến
thì NHTW nước nào cũng mong muốn chính sách đưa ra ổn định, có tính dự báo để hỗ
trợ thị trường, vấn đề ở đây là những diễn biến khó lường của môi trường kinh tế (trong
và ngoài nước) ngoài dự kiến. Vì vậy, công tác thống kê, xử lý thông tin, chất lượng dự
báo rất cần được quan tâm đúng mức.
2.1.3.4. Các NHTM hoạt động mang tính hệ thống
Hình thức hoạt động mang tính hệ thống của các ngân hàng thương mại dễ dẫn đến
rủi ro sụp đổ cả hệ thống khi thị trường có những biến động xấu. Thị trường liên ngân
hàng hiện nay hoạt động chủ yếu để giao dịch, vay nợ lẫn nhau nhưng cũng không thể
phủ nhận khả năng hoạt động của thị trường này, tuy nhiên cũng luôn phải chú ý điều
chỉnh để hệ thống ngân hàng hoạt động tốt không gây ảnh hưởng xấu đến thị trường.
Việc sụp đổ có hệ thống có thể khiến tình trạng lạm phát tăng cao dẫn đến khủng
hoảng kinh tế như năm 2007 vừa qua tại Mỹ.
Qua những phần trên, đã đưa ra một cách tổng quan nhất về hoạt động, cũng như
các rủi ro mà hệ thống NHTM thường gặp phải, sau đây em xin đề cập đến rủi ro tỷ
giá nói chung và rủi ro tỷ giá với một NHTM nói riêng.
2.2 Giới thiệu sơ lược về rủi ro tỷ giá với một ngân hàng
2.2.1 -->

×