Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.81 KB, 7 trang )

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong
triết học xã hội của chủ nghĩa Mác. Tầm quan trọng đó khơng chỉ ở chỗ: “Quan
điểm về đời sống về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
về nhận thức”. Kinh nghiệm đấu tranh, bảo vệ và xây dựng tổ quốc xã hội chủ
nghĩa đã đem lại cho chúng ta bài học vô giá là: “Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành
động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của đảng”. Chính
vì vậy việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là cần thiết.
Để giải quyết vấn đề nêu trên, theo chúng tôi trước hết cần phải xác định rõ khái
niệm thực tiễn phân biệt nó với khái niệm hoạt động, sau đó là với khái niệm hoạt
động lý luận. Trong các tài liệu khoa học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thực
tiễn, nhưng có thể nói, chưa có một ý kiến thống nhất về vấn đề này. Tính đến các
quan điểm khác nhau, chúng tơi xin trình bày vắn tắt quan điểm của chúng tôi về khái
niệm thực tiễn như sau.
Thứ nhất, thực tiễn là hình thức hoạt động đặc thù người. Khái niệm thực tiễn
đặc trưng cho hoạt động sống của xã hội loài người.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đây là
điểm khác biệt của thực tiễn so với hoạt động nhận thức.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động được chủ thể tiến hành để đạt tới mục đích được
đặt ra từ trước.
Thứ tư, thực tiễn mang tính chất lịch sử xã hội. Đó là những đặc điểm chung của
thực tiễn mà nhiều tác giả đã nhất trí.
Vậy thực tiễn là gì? Theo chúng tơi, có thể xác định thực tiễn là hoạt động của
một chủ thể lịch sử cụ thể, trong q trình hoạt động ấy nó tiến hành cải tạo vật chất
đối với hiện thực một cách phù họp với các mục đích của bản thân, với mơ hình lý
tưởng và với trí thức của nó về hiện thực và nhờ mối liên hệ giữa đối tượng hóa và
giải đối tượng hố trong q trình này mà nó tự cải tạo chính bản thân mình. Định
nghĩa này có thể hơi dài, song nó cho phép thâu tóm được mọi hình thức đa dạng của
thực tiễn xã hội và phân biệt nó với các hoạt động khơng phải là hoạt động thực tiễn.
Điều cơ bản trong định nghĩa này là ở chỗ khẳng định rằng bằng hoạt động của mình,


chủ thể chuyển cái tinh thần, ý niệm thành cái vật chất và qua đó, thể hiện ra là lực
lượng tích cực của sự cải tạo.
Vậy thực tiễn và hoạt động khác nhau ở điểm nào? Phải lưu ý rằng có nhiều tác
giả đã đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Theo chúng tôi, hoạt động hiểu theo
nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Một số tác giả
đã dựa vào câu nói của C.Mác – “Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực
tiễn” – để đồng nhất hai khái niệm “thực tiễn” và “hoạt động”. Theo chúng tơi, khơng
có cơ sở để đồng nhất hai khái niệm đó. Câu nói mang tính ngun tắc đó của C .Mác
cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với
thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của


chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là
cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã
hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố
không thể tách rời được của thực tiễn. Song, khơng nên đồng nhất bản chất của q
trình với bản thân q trình. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào
(lý luận chẳng hạn) cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát
triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn.
Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý
niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là q trình ngược lại, mặc dù nó bắt
nguồn từ thực tiễn.
Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù “hoạt động”, xét về ngoại điên, là rộng hơn
phạm trù “thực tiễn”. Vậy thì vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động
thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu
như thế nào?
Đây là hai phương thức quan hệ khác nhau với thế giới. Kết quả của quan hệ lý
luận là tái hiện lại đối tượng trong ý thức, là mơ hình lý luận của đối tượng. Còn kết
quả của hoạt động thực tiễn là sự cải tạo vật chất đối với đối tượng. Thực tiễn chỉ có
mặt ớ nơi có các hình thức hoạt động có đối tượng cảm tính, có sự cải tạo đối tượng

trên chực tế, chứ không phải là trong suy nghĩ. Do vậy theo chúng tôi, hoạt động lý
luận khoa học, giáo dục, tuyên truyền không phải là thực tiễn. Bản thân khoa học chỉ
có khả năng đem lại bức tranh lý tưởng về thế giới trong nhưng đặc trưng, bản chất
của nó. Vấn đề cũng khơng thay đổi cả khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất vật
chất trực tiếp. Bởi khi đó, bản thân lực lượng sản xuất tồn tại với tư cách là hình thức
được đối tượng hố của khoa học, cịn khoa học vân tiếp tục là hình chức hoạt động
tinh thần của con người, là sự phản ánh lý tưởng hiện thực.
Vậy phải chăng thực tiễn chỉ đơn giản là sử dụng đối tượng mà khơng có tính
chủ quan, tính hướng đích? Theo chúng tơi, đây là vấn đề quan trọng để phân biệt
hoạt động /ý luận với thực tiễn. Đúng là thực tiễn không thể thiếu ý thức. Song luận
điểm đó khơng chứng tỏ sự đồng nhất của hai hình thức hoạt động khác nhau là thực
tiễn và lý luận. Thứ nhất cần lưu ý rằng tham gia vào thực tiễn chỉ gồm có các kết quả
đã đạt được trong quá trình nhận thức trước đó. Các kết quả đó đối với hoạt động lý
luận có một giá trí độc lập, cịn đối với hoạt động thực tiễn thì chỉ là cơ sở lý luận, có
giá trị như là một mơ hình của tương lai. Ý thức và sản phẩm của nó ( mục đích, mơ
hình, lý tưởng), trong trường hợp này, khơng có một giá trị độc lập, nó khơng có
nhiệm vụ cải biến đối tượng cảm tính của tự nhiên hay xã hội. Thứ hai, đương nhiên
là có một cơ chế (cho dù nó chưa được nghiên cứu đấy đủ) để đưa các kết quả hoạt
động lý luận vào thực tiên. Chính cơ chế này đã chế định một khuynh hướng nghiên
cứu mới – nghiên cứu triển khai. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, địi hỏi chúng ta phải
có những nỗ lực to lớn. Song một điều hiển nhiên là thực tiễn cải tạo xã hội do quần
chúng tiến hành đòi hỏi phải hoạch định mục đích, chương trình, phải nhận thức các
nhiệm vụ chiến lược và sách lược. Chính vì vậy mà nó khơng thể thiếu lý luận, lý luận


được tiếp biến vào các mục đích và các chương trình, phục tùng nhiệm vụ cơ bản của
thực tiễn cải tạo xã hội.
Như vậy, giữa lý luận và thực tiễn bao giờ cũng tồn tại một mối liên hệ không
thể tách rời. Song cho dù thực tiễn có hàm lượng lý luận nhiều đến đâu đi chăng nữa,
thì thực tiễn và lý luận vẫn tồn tại với tư cách là hai lĩnh vực tương đối độc lập của

hoạt động xã hội và bao giờ hình ảnh lý tưởng (kết quả của hoạt động lý luận) cũng đi
trước hoạt động thực tiên. Nói cách khác, hoạt động bao giờ cũng bao hàm hai khâu
cơ bản và mối liên hệ giữa chúng ln mang tính lịch sử – cụ thể – đó là khâu nhận
thức lý luận (sản xuất ra tri thức) và khâu thực tiễn (cải tạo hiện thực ).
Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, theo chúng tôi, còn được làm sáng tỏ hơn
và cụ thể hơn khi chúng ta xét nó từ quan hệ chủ thề – khách thể. Thực tiễn là khâu
trung gian cơ bản giữa chủ thể và khách thề. Chủ thể ở đây không đơn giản là con
người có tư duy lý luận, con người bằng xương thịt. Chủ thể được thể hiện qua tồng
thể các đặc trưng xã hội của nó, cịn thực tiễn là phương thức cơ bản để nó tác động
đến khách thể. Thực tiễn có thề nói, là hình thức liên hệ thực tại khách quan, nhờ đó
mà chủ thể tự đối tượng hoá bản thân, các ý định và mục đích của mình trong khách
thề, phát triển các năng lực của mình. Như vậy, ngồi thực tiễn, chủ thể khơng có một
phương thức nào để chuyển từ bức tranh lý tưởng về thế giới sang việc thực hiện nó
trong thế giới.
Nếu ở phần trên chúng ta đã nói rằng thực tiễn là quá trình cải tạo vật chất hiện
thực, thì thơng qua quan hệ chủ thể – khách thể, thực tiễn thể hiện là phương thức chủ
thể chuyển hoá cái ý mệnh mục đích, động cơ…) thành cái vật chất (khách thể được
cải tạo phù hợp với mục đích). Trọng tâm ở đây được đặt vào hai mặt của một quá
trình thống nhất: Từ cái ý niệm đến cái vật chất. Nếu chúng ta nhấn mạnh, tuyệt đối
hoá sự cải tạo vật chất, thì sự định hướng thực tiễn bởi ý thức sẽ bị biến mất, và do
vậy, thực tiễn bị biến thành một hành vi máy móc, vơ thức. Cịn nếu tuyệt đối hố sự
sự chuyển biến cái ý niệm thành cái vật chất, thì chúng ta khơng thể quan niệm thực
tiễn là một quá trình khách quan, và như vậy sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Từ đó suy ra rằng thực tiễn và lý luận khơng thể là tuyệt đối đối lập với nhau.
Tính tương đối của sự đối lập ấy trước hết được quy định bởi điều là: Quan hệ lý luận
của con người với thế giới khơng bao giờ có thề là quan hệ tuyệt đối biệt lập với thực
tiễn. Hơn nữa, quan hệ lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát
triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Nó, rốt cuộc, phải dựa trên cơ sở quan hệ thực
tiễn với hiện thực. Đến lượt mình vốn là hoạt động của chủ thể có ý thức và ý chí,
thực tiễn ln bao hàm quan hệ lý luận của chủ thể với khách thể với tư cách là vịng

khâu đặt mục đích của hoạt động thực tiễn.
Song, sự đối lập tuyệt đối đó khơng có nghĩa là khơng có sự đối lập tuyệt đối
giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận do thực tiên chế định và phục vụ thực tiễn, song
chúng có tính độc lập tương đối, mang những đặc trưng riêng của hoạt động. Cả khi
tạo thành một thể thống nhất trong khuôn khổ của hoạt động xã hội, chúng vẫn là
những mặt khác nhau của hoạt động đó. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư
tưởng, lý luận mới có thể “cải tạo” thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng


khơng có khả năng cải biến một cái gì ngồi khả năng ý thức. Các tư tướng, tự chúng,
không phải là thực tiễn, mơ hình lý tướng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất
chỉ là mô. hình lý luận. Theo chúng tơi, cần phái nhấn mạnh tính đặc thù, tính độc lập
của lý luận để khơng rơi vào chủ nghĩa thực dụng thiển cận, để phát hiện ra các quy
luật phát triển của riêng lý luận, tính kế thừa lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội
khác nhau.
Song, cũng cần nhấn mạnh một điều khác là: Tính độc lập tương đối của lý luận
là có tính chất tương đối. Thí dụ, lý luận cách mạng hồn tồn khơng phải là thực tiễn
cách mạng. Tuy nhiên vốn được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã hội, lý luận
cách mạng trở thành một bộ phận cấu thành tất yếu của thực tiễn xã hội. Khi tiên đoán
tương lai, bản thân lý luận bắt nguồn từ thực tiễn quá khứ và hiện tại. Lý luận hồn
thành một chức năng nào đó trong xã hội khơng phải là ở ngồi khn khổ của thực
tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, theo chúng tơi cần được-vạch rõ cả trên
các bình điện bản thể luận lẫn nhận thức luận. Trước hết cần phải phân biệt tính chất
của mối liên hệ này với tính chất của mối liên hệ giữa ý thức và vật chất. Vật chất có
thể tồn tại thiếu ý thức, song thực tiễn không thể tồn tại thiếu ý thức, đương nhiên là
hình thức vả trình độ của ý thức có thể rất khác nhau ( cho tới tư duy lý luận). Nếu các
đặc tính “thử nhất” và “thứ hai” áp dụng được vào quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì
chúng lại khơng áp dụng được vào quan hệ giữa thực tiễn và ý thức. Theo chúng tôi, ở
đây chỉ có thể nói tới phương diện chủ đạo của một chủ thể thống nhất. Nói cách

khác, xét về phương diện bản thể luận, lý luận và thực tiễn tạo thành một thể thống
nhất trong hoạt động xã hội tổng hợp. Sự đối lập của chúng trong khuôn khổ của sự
thống nhất này là tương đối. Mặc dù vật chất và ý thức là các mặt đối lập tương đối về
mặt bản thể luận, song vật chất là tiên đề, là nguyên nhân phát sinh của ý thức, trong
khi đó thực tiễn không thể thiếu ý thức.
Xét về phương diện nhận thức luận, nếu vật chất và ý thức là tuyệt đối đối lập ,
thì thực tiễn và lý luận lại không tuyệt đối đối lập nhau. Mọi ý kiến khác đều có nghĩa
rằng thực tiễn, về ngun tắc, khơng thể là phương tiện đối chiếu tri thức về hiện thực
và bản thân hiện thực. Trong lý luận nhận thức, tri thức về đối tượng tuyệt đối độc lập
với bản thân lý luận. Các nhà duy vật trước Mác đã nhìn thấy điều đó nhưng họ khơng
biết đối chiếu tri thức với đối tượng và do vậy, họ đã bất lực trước các lý lẽ của chủ
nghĩa duy tâm và bất khả lý luận. Nếu tuyệt đối đối lập thực tiễn với lý luận, thì chúng
ta cũng sẽ vấp phải vấn đề đó. Vậy, đâu là bước chuyển từ lý luận đến thực tiễn?
Trong khi đó cuộc cách mạng được C.Mác thực hiện trong nhận thức luận chính là ở
chỗ: ơng đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức ở lĩnh vực mà ý thức tuyệt đối đối lập
với vật chất, Mác đã phát hiện ra khâu trung gian, bước chuyển từ cái ý niệm đến cái
vật chất và từ cái vật chất đến cái ý niệm. Thực tiễn xã hội hồn thành vai trị thước
đo chân lý và cơ sở của nhận thức chính là do nó khơng đối lập tuyệt đối mà đối lập
tương đối với ý thức về mặt nhận thức luận và do nó ln là hệ thống những hoạt
động nhằm đạt tới mục đích xác định. Do vậy, khơng nên tuyệt đối hố cả tính chủ
quan lẫn tính khách quan của thực tiễn.


Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một q trình mang tính lịch sử – xã hội cụ
thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng
của q trình đó, theo chúng tôi, là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta ln có
được một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận,
cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
 LỜI MỞ ĐẦU

Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao phản
ánh thực tại khách quan ,hình thức mà riêng con người mới có .Tác động của ý thức
xã hội đối với con người là vô cùng to lớn.
Nền kinh tế nước ta đi từ một điểm xuất phát thấp ,chúng ta phái làm gì để tránh
nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đăt cho
mỗi chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên để phát triển kinh
tế, như vậy chúng ta cần có tri thức vì tri thức làkhoa học .Tuy nhiên chỉ chú trọng
vào tri thức mà bỏ qn cơng tác văn hóa tư tưởng thì sẽ khơng phát huy được sức
mạnh
của truyền thống dân tộc
Hiện nay nước ta đang trên con đường xây dưng xã hội chủ nghĩa cho nên việc
tìm hiểu các hình thái ý thức xã hội ,tồn tại xã hội là rất cần thiết. Ngoài ra nước ta
đang phát triển một nền kinh tế thị trường, đất nước ngày càng mở cửa vì thế cho nên
chúng ta có cơ hội được tìm hiểu các nền văn hóa của các nước ,tuy nhiên đó cũng là
một phần lý do dẫn đến những vấn đề không tốt của tâm lý xã hội của con người Việt
Nam hiện nay. Chính vì vậy em muốn được tìm hiểu thêm về vấn đề này .Đó là lý do
em chọn đề tài :
“Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vận
dụng tìm hiểu tâm lý xã hội con người Việt Nam”
Sau đây là một số ý kiến em xin được trình bày:
CHƯƠNG I
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ
Ý THỨC XÃ HỘI
I.Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
1. Tồn tại xã hội :
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất ,điều
kiện tự nhiên-hoàn cảnh địa lý ,dân số và mật độ dân số… trong đó sản xuất
vât chất là yếu tố cơ bản nhất .
2 . Ý thức xã hội:

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội,bao gồm tồn bộ những quan
điểm,tư tưởng cùng những tình cảm tâm trạng ,… của những cộng đồng xã hội ,nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất


định. Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội ,ý thức xã hội bao gồm
những lĩnh vực khác nhau : ý thức chính trị,ý thức pháp quyền,ý thức đạo đức ,ý thức
tôn giáo ,ý thức thẩm mỹ…Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội
thông thường và ý thức luận
Ý thức xã hội thơng thường là tồn bộ những tri thức , những quan niệm của
nhưng con người trong một cộng đồng người nhất đinh ,được hình thành một cách
trực tiếp từ hoạt đông thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa ,khái niệm hóa
thành lý luận .Theo ý thức xã hội thông thường ,tâm lý xã hội là một phận xã hội quan
trọng .
Ý thức xã hội thông thường thường phản ánh sinh động trực tiếp nhiều mặt cuộc
sống hàng ngày của con người ,thường xuyên chi phối cuôc sống đó
.
Ý thức lí luận là những tư tưởng đã được hệ thống hóa , khái quát hóa thành
những học thuyết xã hội được trình bày dưới dạng những khái niệm,phạm trù ,quy
luật … .Ý thức lí luận có khả năng đánh giá hiện thực khoa học một cách khái quát và
sâu sắc và chính xác ,vạch ra những mối liên hệ về bản chất của các sự vật và hiện
tượng
II. Mối quan hệ biện chứng giưa tồn tại xã hội vá ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội ,ý
thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội , phụ thuộc vào tồn tại xã hội .Mỗi khi
tồn tạ xã hội ,nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì tư tưởng và lý luận xã
hội,những quan điểm về chính trị, pháp quyền ,triết học ,đạo đức,văn hóa nghệ thuật
…sớm muộn sẽ biến đổi theo
Các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học trong lĩnh vực xã hội. Tồn tại xã hội là đời sống vật chất của xã hội, là sự sản

xuất của cải vật chất và những quan hệ của con người trong quá trình sản xuất ấy. Tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là phản ánh của tồn tại xã hội, bao
gồm nhiều trình độ khác nhau (ý thức thong thường, ý thức lí luận) và nhiều hình thái
khác nhau (chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học, v
v.). Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng có tính độc lập tương đối của
nó, thể hiện trên những nét cơ bản là :
-) Có tính kế thừa, có lơgic phát triển nội tại, có sự tác động qua lại giữa các hình
thái ý thức xã hội.
-) Ý thức khoa học, tiến bộ có thể dự báo triển vọng của xã hội, cũng có thể cải
tạo tồn tại xã hội thông qua thực tiễn của con người; ngược lại, ý thức sai lầm, lạc
hậu, có thể xun tạc, kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
1. Mối quan hê biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1.1 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội :
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở
chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội ,mà còn chr ra rằng tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian .Không phải bất cứ tư tưởng quan điểm ,lý luận ,hình


thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của
thời đại ,mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ
kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy
1.2. Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu ,nhưng ý
thức xã hội cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng.Tính độc lập tương đối này biểu hiện
đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống ,tập quán ,thói quen …Ý
thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây:
- Một là : sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thường xuyên và
trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ
nhanh mà ý thức xã hội có thể khơng phản ánh kịp và trở nên lac hậu .Hơn nữa ý thức

xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi
của tồn tại xã hội
- Hai là :do sức mạnh của thói quen .truyền thống ,tập quán cũng như do tính lạc
hậu ,bảo thủ của một số hình thái xã hội
- Ba là : Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tập đồn
người ,những giaii cấp nhất định trong xã hội.
1.3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội :
Trong những điều kiện nhất định ,tư tưởng của con người đặc biệt là những tu
tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người ,hướng
hoạt động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi
của đời sống vật chất của xã hội đặt ra
1.4. Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội :
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối
hóa vai trị của ý thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ
nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã
hội
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó
tư tưởng nảy sinh
2.Ý nghĩa phương pháp luận :
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biên chứng của đời
sống xã hội .Cần thấy rằng ,thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi
ý thức xã hội ,mặt khác ta cũng thấy rằng không chỉ những biến đổi trong



×