MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN
TỔ CHỨC ỨNG DỤNG KTQT QUÁ
TRÌNH TIÊU THỤ VÀ KẾT QUẢ
TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY ĐIỆN MÁY KỸ
THUẬT CÔNG NGHỆ
A/ MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÔNG TY ĐIỆN MÁY VÀ KỸ
THUẬT CÔNG NGHỆ
I/ Nhận xét chung về công tác KT tại Công ty
1/ Công tác tổ chức quản lý
Công ty Điện Máy và Kỹ Thuật Công Nghệ có bộ máy quản lý chặt chẽ từ
giám đốc đến các nhân viên trong công ty. Công ty đã tổ chức quản lý vừa trực
tuyến vừa chức năng, đội ngũ nhân viên có trình độ lành nghề, năng động, nhiệt tình
tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý kiểm soát, phát triển Công ty ngày
càng lớn mạnh và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Các chi nhánh hoạt
động riêng lẻ, độc lập dưới sự quản lý của công ty nên đã tạo được tính tự chủ và
năng động của các chi nhánh nên các chi nhánh và Công ty đều phát triển ngày càng
lớn mạnh.
2/ Công tác tổ chức hạch toán tại Công ty
Nhìn chung, công tác hạch toán kế toán tại Công ty được thực hiện tuân theo
chế độ kế toán tài chính mới được ban hành và đã phần nào đáp ứng được nhu cầu
quản lý kinh tế trong nội bộ Công ty và của Nhà nước.
a/ Về tổ chức bộ máy kế toán
Bộ máy kế toán tại Công ty được tổ chức theo mô hình vừa tập trung vừa
phân tán phù hợp với đặc điểm tổ chức SX - KD trên địa bàn rộng của Công ty. Việc
tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình trên đã tinh giảm được khối lượng công việc ở
phòng kế toán Công ty, đảm bảo tính năng tự chủ trong hoạt động SX-KD của các
đơn vị trực thuộc ở xa. Đồng thời, đảm bảo cung cấp thông tin kế toán được kịp
thời, tăng cường hạch toán kế toán nội bộ. Tuy nhiên, loại hình này khi áp dụng
cũng có một số nhược điểm:
Kế toán tại văn phòng Công ty không trực tiếp giám sát các hoạt động kinh
tế tài chính ở cấp dưới, chỉ quản lý thông qua các báo cáo của cá đơn vị gửi về. Như
vậy thì việc hợp lý hoá số liệu diều có thể xảy ra. Thêm vào đó, do khoảng cách dịa
lý nên công tác kiểm tra kế toán chưa được chú trọng đúng mức, còn mang tính
chiếu lệ, chỉ kiểm tra 6 tháng/ 1 lần và một lần vào cuối niên độ kế toán. Điều này
sẽ làm cho công tác quản lý các đơn vị trực thuộc của Công ty lỏng lẻo. Trong quá
trình hoạt động các đơn vị có sai sót thì cũng khó phát hiện và ngăn ngừa kịp thời.
Tuy nhiên, các đơn vị trực thuộc đều có tổ chức hạch toán riêng, hạch toán độc lập
tạo điều kiện phát huy hết khả năng sáng tạo và chủ động trong kinh doanh của các
đơn vị nhằm lựa chọn ra phương án kinh doanh, đầu tư tối ưu đem lại hiệu quả cao
nhất cho Công ty.
b/ Về công tác tổ chức ghi sổ
Hình thức tổ chức sổ sách kế toán áp dụng tại Công ty là “Nhật ký chứng từ”
có cải biên phù hợp với yêu cầu quản lý, được áp dụng thống nhất cho toàn Công ty,
thuận tiện trong công tác hạch toán nói chung và công tác hạch toán giữa Công ty
với các đơn vị trực thuộc nói riêng. Với việc ứng dụng phần mềm kế toán vào trong
công tác hạch toán kế toán, Công ty đã tổ chức một hệ thống tài khoản, chứng từ, sổ
sách và báo cáo nhìn chung khá đầy đủ, phù hợp với đặc điểm
SX – KD.
c/ Về công tác tổ chức KTQT
Hiện nay, Công ty mới chỉ tổ chức hệ thống KTTC chứ chưa tổ chức KTQT,
tuy nhiên, do chịu áp lực cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, Công ty cũng đã tổ
chức lại hệ thống kế toán DN phù hợp với điều kiện thực tế đáp ứng được phần nào
công tác quản lý của đơn vị. Công tác KTQT tại Công ty chủ yếu là kiểm soát chi
phí thông qua các sổ chi tiết, báo cáo, ngoài ra còn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh
hàng năm. Tuy nhiên để công tác KT thực sự là công cụ hữu ích trợ giúp cho nhà
quản trị công ty thì công ty cần phải tổ chức lại cơ cấu bộ máy kế toán trong đó bao
gồm: KTQT và KTTC.
II/ Nhận xét chung về công tác tổ chức quá trình tiêu thụ và xác định kết
quả tiêu thụ tại Công ty
1/ Công tác tổ chức chi phí
Hiện nay, Công ty vẫn chưa tiến hành phân loại chi phí theo cách ứng xử chi
phí thành biến phí và định phí cũng như các cách phân loại chi phí khác trong
KTQT như chi phí kiểm soát được, không kiểm soát được… và công ty chỉ tổng
hợp chi phí phát sinh cho từng bộ phận, chung cho cả nhóm hàng và không phân bổ
cho từng mặt hàng cụ thể. Điều này làm cho việc lập kế hoạch chi phí tại Công ty
chưa sát với thực tế cũng như quá trình theo dõi chi phí thực tế phát sinh cho từng
bộ phận, từng nhóm hàng, mặt hàng chưa chính xác.
2/ Công tác lập kế hoạch
Kế hoạch chung của công ty được lập dựa trên các bản kế hoạch đăng ký từ
các đơn vị cấp dưới, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng đơn vị. Vì vậy, công tác
lập kế hoạch mang tính chủ động, linh hoạt, chính xác hơn dẫn đến hoạt động kinh
doanh hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Công ty mới chỉ lập kế hoạch chung mang tính tổng
quát chứ chưa cụ thể hoá một cách chi tiết.
Thực tế tại công ty chỉ lập kế hoạch hoạt động kinh doanh vào đầu mỗi năm
tài chính song chỉ là kế hoạch về sản lượng và doanh thu mà không chú trọng đến
vấn đề chi phí. Như vậy, các báo cáo dự toán được lập ở công ty còn thiếu rất nhiều
và việc lập kế hoạch chỉ do ban giám đốc lập chứ tại các phòng ban không lập các
kế hoạch cụ thể cho bộ phận của mình. Việc lập kế hoạch được tiến hành theo năm,
điều này dẫn đến sự thiếu chính xác và không phản ánh được tính thời vụ cũng như
ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... và một số dự toán
chủ yếu thuộc phạm vi KTQT hầu như không được lập. Như vậy, Công ty cần phải
lập thêm đầy đủ các báo cáo dự toán để công tác lập dự toán mang tính đồng bộ,
đảm bảo các hoạt động của công ty được tiến hành và kiểm soát tốt. Công ty có thể
tham khảo các mẫu báo cáo mà đề tài sẽ trình bày ở phần B.
3/ Tổ chức hệ thống sổ chi tiết, báo cáo
Việc tổ chức chi tiết doanh thu và kết quả tiêu thụ chưa được quan tâm nên
công tác này chưa đầy đủ, khoa học. Vì vậy, Công ty cần phải có tổ chức, sắp xếp
lại cho phù hợp hơn.
Hiện Công ty không mở Sổ chi tiết Doanh thu và Sổ chi tiết Giá vốn hàng
bán. Đối với doanh thu Công ty theo dõi theo sổ chi tiết phải thu khách hàng và còn
đối với giá vốn hàng bán thì theo dõi theo thẻ kho và tờ kê chi tiết TK 156 xuất.
Điều này làm cho công tác theo dõi doanh thu và giá vốn của từng nhóm hàng, mặt
hàng là rất phức tạp, việc tập hợp lại dễ gây nên sai sót.
Việc lập các báo cáo liên quan đến quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ chưa
được quan tâm đúng mức nên lãnh đạo công ty gặp khó khăn trong việc đưa ra
quyết định kịp thời, phù hợp và chính xác.
4/ Ứng dụng KTQT vào công tác định giá bán và lập kế hoạch
Chính vì việc tổ chức kế toán chi tiết doanh thu, chi phí và kết quả tiêu thụ
chưa đầy đủ nên những ứng dụng của nó vào công tác định giá và lập kế hoạch chưa
thực sự có ý nghĩa cũng như chưa cung cấp được thông tin cần thiết một cách đầy
đủ phục vụ cho việc ra các quyết định có liên quan. Thật vậy:
Việc định giá bán hàng hoá chủ yếu dựa vào thị trường, chưa lấy thông tin từ
kế toán cung cấp nên không chủ động về giá, gây khó khăn cho việc xây dựng một
cơ cấu giá linh hoạt do đó gặp khó khăn trong quá trình tiêu thụ… Chính vì thế, kế
toán công ty cần cung cấp thông tin một cách chi tiết, cụ thể hơn để quá trình định
giá của công ty có được tính chính xác và phù hợp hơn cũng như giúp lãnh đạo
công ty đưa ra các quyết dịnh đúng đắn hơn, hiệu quả hơn.
Công ty nên lập kế hoạch kết quả tiêu thụ với chi phí phân thành biến phí và
định phí. Định phí thể hiện dưới dạng tổng số, biến phí ở dạng đơn vị để khi điều
chỉnh kế hoạch sẽ không phải điều chỉnh định phí.
B/ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TỔ CHỨC ÁP DỤNG KTQT QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ VÀ
KẾT QUẢ TIÊU THỤ TẠI CÔNG TY ĐIỆN MÁY VÀ KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập hoá ngày nay, với sự cạnh tranh gay gắt
của các doanh nghiệp ( DN ) trong và ngoài nước, đòi hỏi Công ty phải luôn cố
gắng hết mình , phải biết tận dụng hết năng lực, cơ hội để có thể thích nghi và phát
triển. Trong đó, thông tin kế toán cung cấp cho nhà quản trị là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay công ty chỉ có hệ thống kế toán tài chính ( KTTC ), với hệ
thống kế toán này còn tồn tại một số hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho nhà
quản trị . Do đó, xây dựng hệ thống kế toán quản trị ( KTQT ) nhằm cung cấp
thông tin trong tương lai là không thể thiếu được. Đặc biệt, Công ty Điện Máy và
Kỹ Thuật Công Nghệ là một DN có thể nói là nặng về kinh doanh thương mại nên
thông tin về KTQT quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ cũng như những ứng dụng
của nó vào công tác định giá bán và lập kế hoạch là yếu tố quan trọng hàng đầu,
phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin của ban lãnh đạo. Để bộ máy kế toán tại
công ty thực sự là công cụ khoa học hữu ích thì công ty cần phải xây dựng lại tổ
chức bộ máy kế toán phù hợp hơn. Cụ thể:
I/ Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy kế toán tại công ty
Xuất phát từ yêu cầu thông tin của KTQT chỉ dùng để phục vụ cho các nhà
quản trị DN trong việc điều hành hoạt động SX – KD cho nên công tác tổ chức
KTQT cũng được tổ chức linh hoạt tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động SX – KD tại
mỗi DN sao cho đáp ứng thông tin của nhà quản lý.
Tuỳ theo quy mô hoạt động của mỗi DN mà lựa chọn phương thức tổ chức
bộ máy KTQT. Nếu là DN hoạt động quy mô lớn thì có thể tổ chức một bộ phận
chuyên đảm trách KTQT – phương thức riêng biệt. Nếu là DN hoạt động quy mô
nhỏ, vừa thì phần hành KTQT có thể do các kế toán viên của phần hành KTTC kiêm
nhiệm – phương thức kết hợp. Dù lựa chọn phương thức tổ chức riêng biệt hay kết
hợp phần hành KTQT và KTTC thì yêu cầu về công tác KTQT vẫn phải đảm bảo
thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ là dự toán, phân tích, đánh giá, lập báo cáo kế toán
quản trị, xem xét đánh giá các dự án và cung cấp thông tin cho lãnh đạo ra các quyết
định.
1/ Các nguyên tắc cơ bản khi xây dựng mô hình KTQT
Để xây dựng mô hình KTQT đem lại hiệu quả tốt nhất, Công ty phải dựa trên
những nguyên tắc sau:
- Không làm xáo trộn quá nhiều về mặt tổ chức hay phá vỡ hoàn toàn cơ cấu
tổ chức hiện tại của Công ty mà phải dựa vào cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán hiện
tại của Công ty để sắp xếp, phân công, bổ sung hoặc điều chỉnh nội dung công việc
cho hợp lý với yêu cầu mới, hoàn cảnh mới.
- Phải đảm bảo cho bộ máy kế toán mới hoạt động, vận hành bao quát được
tất cả nội dung của kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Phải đảm bảo lợi ích kinh tế nghĩa là lợi ích đem lại phải lớn hơn chi phí bỏ
ra.
- Mô hình phải đảm bảo được tính khả thi, tính thực tiễn đối với Công ty.
2/ Những yếu tố đặc trưng của Công ty ảnh hưởng đến công tác tổ chức
KTQT tại đơn vị
Xuất phát từ đối tượng phục vụ của KTQT là các nhà quản lý DN - Họ cần
những thông tin phản ánh tình hình cụ thể tại DN để đưa ra các quyết định điều
hành hoạt động sản xuất kinh doanh ( SX – KD ), cho nên công tác tổ chức KTQT
tại mỗi DN sẽ có sự khác biệt chịu ảnh hưởng của đặc điểm sản xuất kinh doanh tại
mỗi đơn vị. Vì vậy khi xây dựng mô hình tổ chức KTQT tại Công ty, nhà quản trị
cần phải chú ý các đặc diểm sau của Công ty:
- Công ty không đơn thuần là một DN thương mại và cũng không phải là một
DN sản xuất mà là một DN Nhà nước vừa kinh doanh thương mại vừa tiến hành
hoạt động sản xuất, lắp ráp.
- Công ty có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước gồm nhiều chi nhánh, xí
nghiệp, các cửa hàng, đại lý trực thuộc. Việc tổng hợp số liệu từ các đơn vị trực
thuộc nhằm đánh giá mức độ hoạt động cũng như xác định trách nhiệm của từng
đơn vị là điều cần thiết.
- Công ty kinh doanh nhiều loại mặt hàng cho nên việc tập hợp và phân bổ
chi phí cũng như xác định kết quả kinh doanh là rất phức tạp.
3/ Tổ chức bộ máy kế toán theo mô hình kết hợp KTQT và KTTC
Hiện nay có hai mô hình tổ chức bộ máy kế toán đang được ứng dụng là mô
hình kết hợp và mô hình riêng biệt. Với điều kiện của các DN Việt Nam và Công ty
hiện nay thì việc lựa chọn mô hình kết hợp là phù hợp nhất vì sẽ tiết kiệm được
nhân lực dẫn đến tiết kiệm được chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương,
như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí cho Công ty. Bên cạnh đó thì hiện nay hệ thống
kế toán Việt Nam tuy chưa có những quy định cụ thể về KTQT nhưng cũng đã có
những biểu hiện của KTQT như xây dựng các tài khoản chi tiết cấp 2,3, mở các sổ
chi tiết. Công việc này là để thuận tiện cho quá trình quản lý DN. Vì vậy, có thể nói
rằng, hệ thống KTTC tại các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự kết hợp với kế toán
quản trị nhưng đang ở quy mô nhỏ. Trên cơ sở đó thì việc triển khai mô hình KTQT
kết hợp với KTTC sẽ có nhiều thuận lợi cho Công ty.
Sơ đồ 6. Mối quan hệ chức năng và nhiệm vụ của mô hình kết hợp
KTTC
KTQT
Ghi sổ KT tổng hợp
và KT chi tiết
Lập dự toán, phân tích,
tư vấn dự án
Lập BCTC
Lập BCQT
Xử lý số liệu
tổng hợp
Xử lý số liệu
Chi tiết
4/ Thiết lập sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty
Để bộ máy kế toán theo mô hình kết hợp KTQT và KTTC đảm bảo hoàn
thành tốt công việc của KTQT và KTTC thì Công ty nên áp dụng mô hình động,
nghĩa là mỗi nhân viên sẽ không làm một công việc nhất định mà sẽ tham gia vào
các tổ làm việc khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu công việc và thời điểm khác
nhau trong kỳ. Bởi vì, một số công việc kế toán chỉ thực hiện vào những thời điểm
nhất định, do đó nếu bố trì công việc hợp lý thì việc tham gia vào nhiều tổ xử lý
công việc khác nhau sẽ giúp cho Công ty tận dụng được nhân công, tiết kiệm chi
phí.
Theo mô hình này, các bộ phận kế toán đảm nhận các phần hành KTTC và
tương ứng với các phần hành KTTC nói trên thì sẽ bao gồm cả các phần hành
KTQT. Các nhân viên kế toán từng phần hành vừa thực hiện các công việc của
KTTC đồng thời cũng được giao nhiệm vụ KTQT liên quan đến phần hành đó. Đối
với những trường hợp nhà quản trị yêu cầu các báo cáo KTQT liên quan đến nhiều
phần hành thì đòi hỏi phải có sự tham gia của các kế toán viên đảm nhiệm các phần
hành dó.
Công ty Điện Máy và Kỹ Thuật Công Nghệ có nhiều đơn vị trực thuộc, việc
hạch toán ở đó độc lập với văn phòng Công ty nên để điều hành hoạt động
SX - KD tại các đơn vị trực thuộc có hiệu quả thì ở các đơn vị này cũng phải tự xây
dựng cho mình một mô hình KTQT phù hợp. Qua thời gian tìm hiểu thực tế ở Công
ty thì với điều kiện hiện nay, quá trình vận dụng KTQT bước đầu chỉ nên tập trung
vào một số nội dung chủ yếu cần thiết. Công ty nên xây dựng bộ máy kế toán một
cách đơn giản thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 7. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN
Tổ KT
tổng hợp
Tổ nghiên
cứu dự
án
Kế toán trưởng
Kế toán
quản trị
KT các đơn vị trực thuộc
Kế toán
tài chính
Tổ KT
Công nợ
Tổ KT
Thanh toán
Tổ KT
Mua, bán hàng
Tổ
Dự
toán
Tổ
Phân
tích
đánh giá
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
5/ Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận
Trong mô hình này, mỗi tổ sẽ có một tổ trưởng phụ trách và số lượng người
tham gia vào tổ sẽ thay đổi tại các thời điểm khác nhau tuỳ thuộc vào yêu cầu của
công việc.
Kế toán trưởng: Chịu trách nhiệm về công tác kế toán toàn Công ty, chỉ
đạo hướng dẫn các nghiệp vụ, tổ chức kiểm tra tính trung thực của các báo cáo kế
toán và tư vấn các hoạt động quản trị cho hội đồng quản trị và ban giám đốc.
Tổ kế toán tổng hợp: Theo dõi chi phí phát sinh tại các đơn vị hạch toán
phụ thuộc, đồng thời tổng hợp số liệu từ các phần hành khác để vào sổ sách tổng
hợp, xác định kết quả kinh doanh, lập báo cáo tài chính và kiểm tra số liệu kế toán.
Công việc này được thực hiện vào cuối kỳ kế toán.
Tổ kế toán công nợ: Theo dõi công nợ phải thu khách hàng, phải trả nhà
cung cấp và các khoản phải thu, phải trả nội bộ .
Tổ kế toán thanh toán: Theo dõi các khoản thu chi bằng tiền mặt,
TGNH, theo dõi, phản ánh tiền lương, các khoản trích theo lương, các khoản tạm
ứng của cán bộ công nhân viên, theo dõi thuế và các khoản phải nộp cho NSNN.
Tổ kế toán mua hàng, bán hàng: Theo dõi, hạch toán tình hình mua
hàng, nhập, xuất hàng, theo dõi hàng tồn kho, theo dõi tình hình tiêu thụ hàng hoá,
xác định doanh thu.
Tổ dự toán: thực hiện các công việc: tập hợp chi phí, phân tích thành
biến phí, định phí, lập các dự toán SX – KD.
Tổ phân tích, đánh giá: Có nhiệm vụ lập các báo cáo KTQT, so sánh,
đánh giá kết quả thực hiện với kế hoach đề ra, tìm nguyên nhân gây ra biến động từ
đó đề xuất các phương án sửa đổi.
Tổ nghiên cứu dự án: Có nhiệm vụ phân tích, đánh giá tính khả thi của
các dự án đầu tư như sản xuất sản phẩm mới, mua sắm mới TSCĐ, mở rộng kinh
doanh… và đề xuất các giải pháp.
6/ Mối liên hệ cung cấp thông tin của KTQT
a/ Thiết lập mối liên hệ cung cấp thông tin giữa KTQT và KTTC
Giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau,
thông tin ban đầu của KTQT do kế toán tài chính cung cấp. Dựa trên những thông
tin này, KTQT xử lý số liệu bằng các phương pháp nghiệp vụ riêng để cung cấp
thông tin cần thiết cho nhà quản trị.
- Tổ dự toán: Lấy thông tin từ các báo cáo thực hiện của kỳ trước và những
thông tin khác do kế toán chi phí, kế toán doanh thu, kế toán tổng hợp,…cung cấp
để làm cơ sở xây dựng các bảng dự toán cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh
của công ty trong giai đoạn tiếp theo.
- Tổ phân tích, đánh giá: Lấy thông tin về toàn bộ chi phí và kết quả thực
hiện mà kế toán tài chính đã thu thập trong kỳ kinh doanh, trên cơ sở đó phân tích,
đánh giá hoạt động của Công ty trong kỳ qua và khả năng có thể đạt được trong
tương lai.
b/ Thiết lập mối liên hệ cung cấp thông tin giữa KTQT với các phòng
ban
KTQT thường xuyên sử dụng một khối lượng thông tin phong phú được
cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau. Bao gồm các thông tin thực tế xảy ra và các
thông tin dự đoán của tương lai. Bên cạnh nguồn số liệu được cung cấp từ KTTC,
KTQT cần phải xây dựng mối liên hệ thông tin với các phòng ban khác. Đây là mối
liên hệ thông tin hai chiều được thể hiện:
Bảng 17. MỐI QUAN HỆ GIỮA KTQT VỚI CÁC PHÒNG BAN
KTQT Nhận thông tin Cung cấp thông tin
Tổ dự toán Nhận các thông tin kế hoạch về Cung cấp các dự toán cho các
số lượng hàng hoá, giá bán từ tổ
thị trường phòng kinh doanh,
phòng kế hoạch, tình hình sản
xuất từ các xí nghiệp…
phòng ban làm căn cứ lập kế
hoạch cụ thể tổ chức hoạt động.
Tổ
phân tích,
đánh giá
Nhận các báo cáo thực hiện của
các bộ phận, sử dụng các phương
pháp nghiệp vụ để tiến hành
phân tích, đánh giá.
Cung cấp thông tin kết quả
phân tích, đánh giá cho các bộ
phận kịp thời điều chỉnh.
Tổ
nghiên cứu
dự án
Nhận thông tin từ phòng kế
hoạch, phòng thị trường, phòng
kinh doanh xuất nhập khẩu và
ban giám đốc về các dự án.
Cung cấp thông tin phân tích
các phương án khác nhau của
các dự án.
Để tạo được mối liên hệ thường xuyên, liên tục thì nhà quản trị cần thiết lập
các mẫu báo cáo định kỳ giữa KTQT và các phòng ban liên quan bên cạnh các báo
cáo đột xuất khi có yêu cầu.
II/ Tổ chức công tác KTQT quá trình tiêu thụ và kết quả tiêu thụ
1/ Nhận diện và phân tích chi phí phát sinh tại công ty
Do hiện nay Công ty mới chỉ bắt đầu áp dụng KTQT nên công ty vẫn chưa
tiến hành phân loại chi phí mà chỉ theo dõi chung cho các khoản mục chi phí. Vì
vậy, theo em để việc áp dụng KTQT mang lại hiệu quả cao nhất Công ty cần phải
tiến hành phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí. Trong quá trình kinh doanh
có nhiều loại chi phí phát sinh nhưng có thể chia làm hai loại chính. Chi phí phát
sinh tỷ lệ với khối lượng hàng tiêu thụ thì gọi là biến phí. Chi phí phát sinh cần thiết
cho hoạt động kinh doanh của Công ty nhưng không thay đổi tỷ lệ với số lượng
hàng bán ra gọi là định phí. Ngoài ra còn có chi phí hỗn hợp bao gồm biến phí và
định phí. Với cách phân loại này sẽ giúp cho nhà quản trị xác định đúng đắn
phương hướng để nâng cao hiệu quả kinh doanh như: đối với biến phí thì phương
hướng chính là tiết kiệm tổng chi phí và chi phí cho một đơn vị hàng hoá. Còn đối
với định phí thì cần phải phấn đấu nâng cao hiệu quả của chi phí trong hoạt động
kinh doanh. Công ty có thể phân loại chi phí như sau: ( xem trang 54 )
Trong đó: - Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ là chi phí hỗn hợp vì: BHXH và
BHYT được tính trên lương cơ bản nên xem là định phí, còn KPCĐ được tính trên
lương thực trả nên xem là biến phí.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài gồm tiền điện, nước, điện thoại. Là
chi phí hỗn hợp vì trong giới hạn cho phép là định phí, khi vượt qua giới hạn thì là
biến phí.
- Chi phí tiền lương là chi phí hỗn hợp vì có bao gồm cả các khoản
phụ cấp theo lương.
Bảng 18. BẢNG PHÂN LOẠI CHI PHÍ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Khoản mục chi phí Biến phí Định phí Chi phí hỗn hợp
CP tiền lương
Các khoản trích theo lương
- BHXH, BHYT
- KPCĐ
CP Khấu hao TSCĐ
CP Văn phòng phẩm
CP dịch vụ mua ngoài
CP lãi vay
CP vận chuyển, bốc dỡ, bảo
quản
Công tác phí
CP tiếp khách
CP quảng cáo, tiếp thị
Thuế môn bài, phí, lệ phí
trước bạ
Bên cạnh đó, Công ty cũng cần tiến hành tổ chức chi tiết lại hệ thống tài
khoản cho khoản mục chi phí như sau để thuận tiện cho việc theo dõi, hạch toán:
- Đối với chi phí bán hàng: Từ TK 641- chi phí bán hàng, Công ty nên sử
dụng thêm các TK chi tiết cấp 2:
+ TK 6411: Chi phí nhân viên bán hàng.
+ TK 6412: Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ TK 6413: Chi phí vận chuyển, bốc dỡ.
+ TK 6414: Chi phí quảng cáo, tiếp thị.
+ TK 6415: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ TK 6416: Chi phí văn phòng phẩm.
+ TK 6418: Chi phí bán hàng khác.
- Đối với chi phí QLDN: Từ TK 642- Chi phí QLDN, chi tiết:
+ TK 6421: Chi phí nhân viên quản lý.
+ TK 6422: Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ TK 6423: Công tác phí.
+ TK 6424: Chi phí tiếp khách.
+ TK 6425: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ TK 6426: Chi phí văn phòng phẩm.
+ TK 6428: Chi phí quản lý khác.
2/ Tổ chức kế toán chi tiết doanh thu và kết quả tiêu thụ
Hiện nay, Công ty mở sổ theo dõi doanh thu, giá vốn hàng bán không phù
hợp với công tác KTQT. Việc theo dõi doanh thu chỉ được thực hiện trên các sổ chi
tiết phải thu khách hàng, phải thu nội bộ và các sổ chi tiết liên quan cho nên việc tập
hợp doanh thu theo từng nhóm hàng không khoa học, dễ thiếu sót. Hơn nữa, việc
theo dõi GVHB chỉ được theo dõi trên “tờ kê chi tiết TK 156 xuất” và Thẻ kho, mà
mỗi mặt hàng có nhiều Thẻ kho nên việc tổng hợp GVHB cho từng nhóm hàng hoá
dễ dẫn đến sai sót. Vì vậy, để thuận tiện cho việc theo dõi và báo cáo vào bất kỳ thời
điểm nào theo yêu cầu quản lý, kế toán Công ty phải thiết lập lại sổ chi tiết doanh
thu và giá vốn hàng bán. Tuy nhiên, việc mở sổ chi tiết phải tiến hành sao cho dễ
theo dõi, đảm bảo tính hiện thực của công tác kế toán nói chungvà kế toán quản trị
nói riêng. Với những gì hiểu biết về lý luận và thực tiễn tại Công ty, theo em, có thể
mở các sổ chi tiết sau:
Sổ theo dõi chi tiết giá vốn hàng bán
Do công ty kinh doanh nhiều nhóm hàng nên để thuận tiện cho việc theo dõi,
hạch toán, công ty nên mở sổ theo dõi theo từng mặt hàng của từng nhóm hàng. Đối
với giá vốn hàng bán bị trả lại cũng cần theo dõi chi tiết trên sổ chi tiết giá vốn hàng
bán để cho việc báo cáo GVHB vào một thời điểm bất kỳ được thuận tiện và khoa
học hơn. Giá trị của GVHB bị trả lại thì sẽ được ghi số âm để dễ theo dõi và tổng
hợp.
Định kỳ, vào thời điểm cuối quý, kế toán sẽ tổng hợp GVHB chung theo
từng nhóm hàng.
Kết hợp với Bảng kê hàng bán bị trả lại mà công ty đã mở ( trang 35 ), công
ty có thể tham khảo mẫu sổ sau: ( xem trang 56, 57 )
Sổ theo dõi chi tiết doanh thu
Cũng giống như giá vốn hàng bán, Công ty phải tiến hành theo dõi doanh thu
theo từng mặt hàng của từng nhóm, và mỗi mặt hàng được theo dõi trên một hay
một số tờ sổ nhất định và được lập theo từng quý. Đối với các khoản giảm trừ
doanh thu cũng cần phải được theo dõi chi tiết trên sổ chi tiết doanh thu để thuận
tiện cho việc báo cáo doanh thu vào bất kỳ thời điểm nào khi nhà quản lý yêu cầu.
Định kỳ vào thời điểm cuối quý, kế toán sẽ tổng hợp doanh thu chung theo
từng nhóm hàng.
Sau đây là mẫu sổ mà công ty có thể tham khảo: ( xem trang 60, 61 )
Sổ theo dõi chi tiết chi phí BH và QLDN
Đối với sổ chi tiết chi phí BH &QLDN thì cùng với việc tổ chức hệ thống tài
khoản chi tiết ( xem trang 54, 55 ), công ty nên tổ chức lại sổ chi tiết theo tài khoản
để dễ kiểm soát chi phí. ( Xem trang 62, 63 )
Hiện nay, Công ty không tiến hành phân bổ chi phí cho từng mặt hàng mà
chỉ phân bổ chi phí phát sinh chung cho cả nhóm. Điều này là không hợp lý vì sẽ
không chỉ ra cho nhà quản trị thấy được mặt hàng nào kinh doanh có hiệu quả và
mặt hàng nào thì không để từ đó có phương hướng kinh doanh cụ thể cho từng mặt
hàng trong nhóm để đem lại lợi nhuận lớn nhất cho công ty. Vì vậy, ngoài quá trình
phân bổ chi phí cho từng nhóm hàng ( trang 39 ), Công ty cần phải tiến hành phân
bổ chi phí cụ thể cho từng mặt hàng trong từng nhóm để xác định được mức độ
đóng góp của từng nhóm hàng vào tổng doanh thu và mức độ đóng góp của từng
mặt hàng vào doanh thu tiêu thụ của nhóm.
Chi phí BH và QLDN được phân bổ theo tiêu thức số lượng hàng hóa tiêu
thụ như sau:
CPBH (CPQLDN) CPBH (CPQLDN) phân bổ cho nhóm hàng Số lượng
phân bổ cho từng tiêu thụ
mặt hàng Tổng số lượng tiêu thụ của nhóm hàng từng loại
Trong quý I/2007, chi phí phân bổ cho mặt hàng xe máy là: Tổng chi phí bán
hàng là 1.906.861.473 đ, tổng chi phí quản lý DN là 849.063.365 tương ứng với
tổng số lượng xe tiêu thụ là 737 xe. Hiện tại,công ty kinh doanh các mặt hàng xe
máy sau: Deahan Smart, Deahan Super, Deahan Noval 110, Sunny, Halley, Union
150. Vậy:
- Chi phí bán hàng phân bổ cho từng mặt hàng xe máy như sau:
1.906.861.473
Xe Deahan Smart 146 377.750.034 đ
737
1.906.861.473
Xe Deahan Super 289 747.738.081 đ
737
Tương tự với các mặt hàng còn lại.
- Chi phí quản lý DN phân bổ cho từng mặt hàng xe máy như sau:
849.063.365
Xe Deahan Smart 146 168.199.798 đ
737
849.063.365
Xe Deahan Super 289 332.943.436 đ
12.008.700.000
Tương tự với các mặt hàng xe máy khác.
Từ các kết quả trên, ta có kết quả tiêu thụ chi tiết của nhóm hàng xe máy như
sau: ( xem trang 64 )
Qua bảng kết quả tiêu thụ quý I/2007 của nhóm hàng xe máy ta thấy, tổng lợi
nhuận của nhóm hàng này trong quý I là + 438.114.204 đ. Trong đó, 3 mặt hàng xe
Deahan Smart, Deahan Super, Deahan Nova 110 là kinh doanh có lãi.
Đồng thời, để phục vụ cho công tác phân tích, kiểm soát chi phí của KTQT,
đồng thời để tin nhanh cho nhà quản trị thì cùng với quá trình tổng hợp chi phí BH
và QLDN vào sổ cái, hàng tháng kế toán tổng hợp cũng phải đồng thời tổng hợp số
liệu cho hai khoản mục chi phí này theo từng yếu tố chi phí phát sinh để lập báo cáo
nhanh cho lãnh đạo Công ty về tình hình doanh thu, chi phí cuối mỗi tháng. Do đó,
để phục vụ thông tin một cách có hiệu quả, ngoài sổ kế toán chi tiết chi phí BH và
QLDN mà công ty đã lập, kế toán có thể lập thêm bản báo cáo nhanh như sau ( xem
trang 65 )