Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.77 KB, 53 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
giảng viên - Tiến sĩ Nguyễn Thành Đức. Thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên và
tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp
này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến q thầy cơ, gia đình và bạn
bè đã bên cạnh ủng hộ, động viên, giúp đỡ để tác giả có thế vượt qua khó khăn và
hồn thành tốt khóa luận của mình.
Do hạn chế về trình độ nghiên cứu, chắc chắn khóa luận khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy, cô và các bạn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 7 năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của
riêng em, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn
Thành Đức. Nội dung khóa luận được em nghiên cứu và viết một cách độc
lập, không sao chép bất cứ một khóa luận, luận văn hay loại văn bản tương tự
nào. Các số liệu và thơng tin trong khóa luận là hoàn toàn trung thực và tuân
thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 7 năm 2018
Sinh viên

Phan Quỳnh Giao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ ......................................6


TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ...............................................................................6
1.1. Khái niệm cổ đông trong công ty cổ phần.....................................................6
1.1.1. Khái niệm ....................................................................................................6
1.1.2. Phân loại cổ đông trong công ty cổ phần ....................................................6
1.2. Khái niệm cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ......................................7
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ cổ đông thiểu số .....................................................9
1.3.1. Thực trạng về quyền lợi cổ đông thiểu số hiện nay ....................................9
1.3.2. Ý nghĩa việc bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ...................14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ
PHẦN........................................................................................................................18
2.1. Bảo vệ quyền tài sản của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ............18
2.1.1. Quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành cổ phần mới..............18
2.1.2. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần ...................................................22
2.1.3. Quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi ........................................................24
2.2. Bảo vệ quyền quản lý của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ..........27
2.2.1. Quyền yêu cầu hủy các quyết định của ĐHĐCĐ .....................................27
2.2.2. Quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ ......................................................29
2.2.3. Quyền bầu dồn phiếu ................................................................................31
2.2.4. Quyền đưa nội dung vào các cuộc họp ĐHĐCĐ ......................................35
2.3. Bảo vệ một số quyền khác của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ...37
2.3.1. Quyền tiếp cận thông tin của cổ đông thiểu số .........................................37
2.3.2. Quyền khởi kiện người quản lý công ty....................................................41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................45
KẾT LUẬN ..............................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................48



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, công ty cổ phần (CTCP) đã trở
thành một trong những loại hình cơng ty phổ biến, có vai trị đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy mà cơ cấu tổ chức và vận hành của công ty
này, trong đó có khía cạnh bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số (CĐTS)
cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà luật học.
Đến năm 2016, sau hơn 1 năm Luật doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, Việt Nam
đã có bước tiến bộ rõ rệt, chỉ số bảo vệ CĐTS đã tăng 38 bậc, đứng thứ 122 trong
bảng xếp hạng quốc tế1. Trong chỉ số bảo vệ CĐTS, các chỉ số thành phần Việt
Nam đạt cao nhất là về yêu cầu công khai minh bạch và chỉ số quyền của cổ đơng là
7/10. Trong khi đó, thấp nhất là chỉ số về sự dễ dàng trong việc khởi kiện người
quản lý, thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) chỉ là 3/10.2
Tuy đã có sự tiến bộ nhưng rõ ràng chúng ta có thể nhận ra rằng, chỉ số bảo vệ
CĐTS ở Việt Nam vẫn còn rất thấp so với các nước khác trên thế giới. Cụ thể là
theo nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2013 thì số điểm quản trị công ty của công
ty niêm yết tại Việt Nam thấp nhất trong 6 quốc gia được đánh giá bao gồm:
Indonesia, Malaysia, Philiphin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Điểm bình quân
của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam năm 2012, 2013 tương ứng là 28,42 và
33,87 trên tổng 100 điểm, chỉ bằng một nửa so với bình qn tồn khu vực, trong
khi đó Thái Lan có điểm bình quân cao nhất (67,66 và 75,39). Nếu đo lường điểm
bình qn theo lĩnh vực quản trị cơng ty, Việt Nam cũng là quốc gia có điểm bình
qn thấp nhất trong 6 quốc gia trên cả 5 lĩnh vực (quyền của cổ đơng, đối xử bình
đẳng giữa các cổ đơng giữa các cổ đơng, vai trị của các bên liên quan, công bố
thông tin và minh bạch, trách nhiệm của HĐQT)3.
Bảo vệ CĐTS là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong pháp luật CTCP,
vì vai trị quan trọng của nhóm cổ đơng này đối với CTCP nói riêng và cả nền kinh
tế nói chung, cụ thể là họ thường chiếm đa số về mặt số lượng và thậm chí tổng số
vốn cổ phần của họ thường chiếm tỷ lệ đa số trong vốn điều lệ, đặc biệt là trong

Phan Hồng Ngọc,” Bảo vệ quyền của cổ đơng CTCP theo Luật doanh nghiệp 2014”.
Phan Hoàng Ngọc,” Bảo vệ quyền của cổ đông CTCP theo Luật doanh nghiệp 2014”.
3
Nguyễn Thị Thùy, “ Quản trị công ty của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cộng đồng kinh tế
Asean: Thực trạng và kiến nghị”, tạp chí kinh tế và phát triển, số 7/ 2007.
1
2


2
cơng ty đại chúng hay nói cách khác, tập hợp các CĐTS có thể trở thành lực lượng
đầu tư rất lớn vào cơng ty. Mặc dù có vai trị quan trọng như vậy, nhưng CĐTS lại
hầu như khơng có tiếng nói trong CTCP vì CTCP thường chịu sự chi phối của các
cổ đông lớn. Như vậy, bảo vệ quyền lợi của CĐTS chính là bảo vệ cho sự phát triển
bền vững của CTCP, đảm bảo tính hấp dẫn của nó đối với các nhà đầu tư, tạo điều
kiện phát triển nền kinh tế nước nhà.
Dù rằng đề tài bảo vệ CĐTS đã được nghiên cứu rất nhiều trước đây nhưng
trước những sự thay đổi khách quan từ tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện
nay, tác giả nhận thấy mình cần phải đi sâu hơn nữa về đề tài này dưới sự tiếp thu,
học hỏi có chọn lọc từ những cơng trình nghiên cứu trước đây kết hợp với thực tiễn
hiện tại của đất nước để có thể bảo vệ tốt hơn quyền lợi của CĐTS. Đó cũng chính
là lý do mà tác giả đã chọn đề tài “ Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
CĐTS trong CTCP” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi khảo sát tình hình nghiên cứu, tác giả nhận ra rằng, đề tài này đã được
rất nhiều chuyên gia nghiên cứu và xuất bản với các dạng khóa luận tốt nghiệp, luận
văn thạc sĩ, sách chuyên khảo, các bài báo, tạp chí khoa học. Tuy nhiên, trong khả
năng nghiên cứu hạn chế của mình, tác giả chỉ xin đề cập đến một số nghiên cứu
trước đây đã đề cập trực tiếp về đề tài này và dưới góc độ pháp lý, cụ thể như sau:
1. Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2008), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty

cổ phần - So sánh giữa pháp luật Vương quốc Anh và pháp luật Việt Nam”, luận
văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
2. Lê Văn Qua (2008), “Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong cơng ty cổ
phần”, khóa luận cử nhân luật, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2008), “Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiếu số trong
cơng ty cổ phần”, khóa luận cử nhân luật, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Bùi Xuân Hải - Chủ nhiệm đề tài (2011), “Bảo vệ nhà đầu tư - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh.


3
5. Đỗ Tấn Hùng (2011), “Bảo vệ cổ đông thiểu số”, khóa luận cử nhân luật,
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
6. Bùi Xuân Hải (2011), “Luật doanh nghiệp - Bảo vệ cổ đông: Pháp luật và
thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
7. Trương Thị Hồng Hoa (2012), “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam”, luận văn cử nhân luật, trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh.
8. Trần Thị Ngọc Thảo (2014), “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông
thiểu số trong cơng ty cổ phần ở Việt Nam”, khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
9. Trần Quốc Hồi (2006), “Pháp luật bảo vệ lợi ích nhà đầu tư trên thị trường
chứng khốn”, luận văn thạc sĩ học, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
10. Đinh Thị Thúy Hồng (2009), “Cơ chế giám sát hoạt động trong công ty cổ
phần theo Luật doanh nghiệp 2005”, khóa luận cử nhân luật, trường đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh.
11. Bành Quốc Tuấn (2001), “Địa vị pháp lý của cổ đông công ty cổ phần theo

Luật doanh nghiệp Việt Nam”, khóa luận cử nhân luật, trường Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh.
12. Quách Thúy Quỳnh (2010), “Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật
Việt Nam”, tạp chí luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, số 4/ 2010.
13. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhận diện cổ đông thiểu số trong công
ty cổ phần ở Việt Nam”, tạp chí dân chủ và pháp luật, bộ tư pháp số 7/2014.
14. Nguyễn Thị Thu Hương (2014), “Nhu cầu bảo vệ cổ đông thiểu số trong
cơng ty cổ phần ở Việt Nam”, tạp chí dân chủ và pháp luật, bộ tư pháp số 271/
2014.
15. Cao Đình Lành (2012), “Xung đột lợi ích của cổ đơng thiểu số trong hoạt
động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, viện Nhà
nước và Pháp luật, số 8/ 2012.
16. Huỳnh Thị Trúc Linh (2016), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ
phần theo Luật doanh nghiệp 2014”, tạp chí nghiên cứu và lập pháp, viện nghiên
cứu lập pháp, số 6/2012.


4
17. Nguyễn Trọng Quý (2013), “Lý thuyết về cổ đông thiểu số và quyền khởi
kiện của cổ đông trong công ty cổ phần”, tạp chí luật học, số 6/ 2012.
Để bảo vệ cổ đông thiểu số, các tác giả nêu trên đã nghiên cứu dưới các khía
cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến
vấn đề bảo vệ CĐTS dưới góc độ Luật doanh nghiệp là chủ yếu. Cụ thể, luận văn
của tác giả Đỗ Tuấn Hùng có trọng tâm là nghiên cứu những bất cập trong việc bảo
vệ CĐTS trong pháp luật Việt Nam. Luận văn của tác giả Trương Thị Hồng Hoa tập
trung vào bảo vệ CĐTS tại cuộc họp ĐHĐCĐthông qua cơ chế bầu dồn phiếu và
quyền đề cử người vào HĐQT, ban kiểm soát, quyền khởi kiện của cổ đông. Luận
văn của tác giả Trần Thị Ngọc Thảo lại đề cập về sự khác biệt về các quy định bảo
vệ CĐTS giữa Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014. Dưới góc nhìn
của Luật chứng khốn, tác giả Trần Quốc Hoài đã bảo vệ CĐTS trên thị trường

chứng khoán, đi sâu vào các giao dịch trên thị trường chứng khốn. Như vậy, trong
các cơng trình nghiên cứu khác nhau ở các thời điểm khác nhau, các tác giả đều cố
gắng phân tích pháp luật và thực tiễn để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của CĐTS. Kế thừa những tinh hoa từ những cơng trình nghiên cứu trên, đặt
trong mối liên hệ với thực tiễn, tác giả sẽ nghiên cứu đề tài này ở góc độ khá mới,
tác giả sẽ tập trung vào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CĐTS trong CTCP
theo pháp luật Việt Nam, đồng thời có liên hệ với pháp luật nước ngoài để học tập
kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Khóa luận sẽ nghiên cứu các quy định của pháp luật
bảo vệ quyền lợi của CĐTS trong CTCP theo pháp luật Việt Nam, trong đó trọng
tâm là Luật doanh nghiệp 2014, Luật chứng khoán 2006, Luật chứng khoán sửa đổi
bổ sung 2010 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan quy định về vấn đề bảo
vệ CĐTS trong CTCP.
Về phạm vi nghiên cứu: Những cơng trình nghiên cứu trước đây đã trình bày
tương đối đầy đủ về quy định của pháp Luật doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến
việc bảo vệ CĐTS. Vì vậy, trong phạm vi khóa luận này, tác giả sẽ khơng đi sâu
nghiên cứu tồn bộ các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi của CĐTS mà chỉ tập
trung vào một số quy định của pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP theo pháp luật
Việt Nam.


5
4. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, Bình luận được sử dụng
để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo vệ CĐTS theo pháp luật Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, quy nạp, hệ thống, diễn
dịch, thống kê, đối chiếu, suy luận logic, nghiên cứu vụ án được sử dụng để làm rõ
thực trạng pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP theo pháp luật Việt Nam.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic... được sử dụng

nhằm đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật bảo vệ CĐTS trong CTCP theo
pháp luật Việt Nam.
1. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
bảo vệ cổ đơng thiểu số trong cơng ty cổ phần.
Chương 3: Hồn thiện quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số của công
ty cổ phần.


6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm cổ đông trong công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm
Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật doanh nghiệp 2014, quy định: “Cổ
đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của CTCP”. Như vậy, cùng là
người đồng sở hữu công ty nhưng trong CTCP người sở hữu phần vốn góp trong
công ty lại được gọi là cổ đông chứ không phải thành viên góp vốn như trong cơng
ty TNHH. Đây cũng là khái niệm đặc trưng duy nhất chỉ có ở lại hình doanh nghiệp
CTCP.
Số lượng cổ đơng trong CTCP tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối
đa. Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân và phải sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát
hành của công ty. Tuy nhiên để xác lập tư cách cổ đông của CTCP, tổ chức, cá nhân
phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện (i) tổ chức cá nhân phải sở hữu ít nhất một cổ
phần đã phát hành của CTCP và (ii) những thông tin về nhân thân quy định tại
khoản 2 điều 121 Luật doanh nghiệp 20144 được công ty hoặc thành viên của trung

tâm lưu ký chứng khoán ghi đúng và đủ vào sổ cổ đông của công ty.
1.1.2. Phân loại cổ đông trong công ty cổ phần
Trong CTCP, cổ đông được phân chia thành nhiều loại phụ thuộc vào loại cổ
phần mà cổ đông đó nắm giữ. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 tại điều
113, CTCP bắt buộc phải có cổ phần phổ thơng, ngồi ra CTCP cịn có thể có các
loại cổ phần ưu đãi như cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần
ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần khác theo quy định của điều lệ cơng ty. Nếu dựa
vào tiêu chí phân loại cổ phần nêu trên thì cổ đơng sẽ được chia thành cổ đông phổ
thông và cổ đông ưu đãi ( Điều 116 Luật doanh nghiệp 2014). Tuy nhiên, dưới góc
độ thực tiễn, người ta thường quan tâm đến tiêu chí tỷ lệ cổ phần mà cổ đơng sở
hữu để phân loại cổ đơng hơn. Theo tiêu chí này thì cổ đơng sẽ được chia thành cổ
đơng sở hữu nhiều vốn hay cịn gọi là cổ đơng lớn (majority shareholder) và cổ
đơng sở hữu ít vốn hay cịn gọi là CĐTS (minority shareholder) 5. Việc xác định cổ

4
5

Theo khoản 2 điều 121 luật doanh nghiệp 2014.
/tu-vung-chuyen-nganh-kinh-te-chu-de-tien-lai-co-phan-2981.html.


7
đơng nhỏ hay cổ đơng lớn khơng có ý nghĩa khi góp vốn, mà có ý nghĩa khi các cổ
đơng thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.6
1.2. Khái niệm cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần
Hiện nay, việc xác định khái niệm CĐTS là điều không dễ dàng, bởi vì có rất
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm CĐTS.
Trước hết, khoản 25 điều 2 Nghị định 48-1998/ NĐ-CP ngày 11/07/1998 về
chứng khoán và thị trường trực tiếp định nghĩa: “CĐTS là người nắm giữ dưới 1%
cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”. Theo qui định này, 1% cổ

phiếu là ranh giới để xác định cổ đông lớn và CĐTS.
Đến Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị
trường, khoản 25 điều 3 khơng cịn nêu khái niệm CĐTS nữa mà lại quy định: “Cổ
đông lớn là cổ đông nắm giữ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ
chức phát hành”. Qua đó ta có thể hiểu như thế nào là CĐTS bằng phương pháp loại
trừ.
Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp 2005 hồn tồn khơng có khái
niệm về CĐTS.
Đến Luật doanh nghiệp 2014 cũng khơng có đề cập đến khái niệm cổ đông lớn
và CĐTS nhưng từ khái niệm cổ đơng lớn trong Luật chứng khốn 2006 “Cổ đông
lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền
biểu quyết của tổ chức phát hành”. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp loại trừ để
hiểu CĐTS là cổ đông sở hữu trực tiếp hay gián tiếp dưới 5% số phiếu có quyển
biểu quyết của tổ chức phát hành.
Theo quan điểm của tác giả, nếu chúng ta tiếp cận khái niệm CĐTS trong mối
quan hệ với cổ đông lớn nêu trên, dựa trên ranh giới là 5% là chưa thật sự hợp lý.
Bởi vì con số 5% chỉ là con số ước lệ mà các nhà làm luật đưa ra để ghi nhận quyền
lợi của các cổ đông lớn, chứ không phản ánh đầy đủ bản chất của cổ đơng lớn hay
CĐTS.
Lấy ví dụ: Một cổ đơng chiếm 5% vốn điều lệ thì họ sẽ là cổ đơng lớn trong
CTCP chỉ có 5 cổ đơng. Tuy nhiên, họ cũng có thể là CĐTS trong CTCP có hàng
ngàn cổ đơng. CĐTS được hiểu là cổ đơng sở hữu ít vốn, chiếm tỷ lệ phần trăm nhỏ
trong cổ phần có quyền biểu quyết trong CTCP.
6

/>

8
Song, nếu xem xét vấn đề dưới góc độ thực tiễn chúng ta có thể hiểu rằng:
“CĐTS thì khơng chi phối đến cơng ty, họ khơng có khả năng áp đặt quan điểm,

đường lối chiến lược của mình cho cơng ty, không thể quyết định được việc lựa
chọn ra số thành viên trong HĐQT hay ban kiểm sốt, khơng có khả năng ảnh
hưởng trong việc quản lý và điều hành công ty”7. Cho nên, bên cạnh đề cập đến
phần vốn góp của họ, chúng ta cần phải nói đến khả năng của họ trong việc tác
động đến chính sách, kế hoạch kinh doanh của cơng ty, hay nói cách khác là nói
đến vai trị của họ khi biểu quyết thơng qua các vấn đề tại cơ quan có quyền quyết
định cao nhất của công ty - ĐHĐCĐ”8.
Nhận thức được tầm quan trọng của CĐTS đối với sự tồn tại và phát triển của
CTCP, không chỉ riêng Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm
đến nhóm cổ đông này. Khái niệm CĐTS ở các quốc gia trên thế giới cũng có
những cách hiểu khác nhau.
Ở Pháp, CĐTS là cổ đơng nắm giữ ít hơn một phần ba số vốn và số cổ phiếu
biểu quyết đối với cổ đơng đa số và họ khơng có ảnh hưởng gì trong việc đưa ra các
quyết định của cơng ty, nhưng cũng có quan điểm cho rằng CĐTS là cổ đơng nắm
giữ ít hơn 50% số phiếu có quyền biểu quyết của doanh nghiệp9.
Theo Ủy ban luật pháp của Anh ( Law commission), CĐTS chỉ là một hay
nhiều cổ đông khơng nắm giữ đa số cổ phiếu có quyền biểu quyết để có thể được
tính tại ĐHĐCĐ10.
Theo Luật thương mại Nhật Bản 1999, Điều 48 quy định về CĐTS như sau: (i)
cổ đơng sở hữu ít nhất một cổ phần trong thời hạn 06 tháng liên tục; (ii) cổ đông sở
hữu ít nhất 1% tổng số phiếu biểu quyết tại cơng ty liên tục ít nhất trong thời hạn 06
tháng liên tục; (iii) cổ đơng sở hữu ít nhất 3% tổng số phiếu biểu quyết tại cơng ty
liên tục ít nhất trong thời hạn 06 tháng liên tục11.

Bùi Xuân Hải (2009), “Bảo vệ cổ đông- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật doanh nghiệp 2005”,
tạp chí Khoa học pháp lý 01- tr17
7

Bùi Xuân Hải, “Bảo vệ CĐTS một số vấn đề và thực tiễn (2011)”, tr.129.
Nguyễn Thị Thu Hương (2014),”Nhận diện cổ đông thiểu số trong công ty cố phần ở Việt Nam”, Tạp chí

pháp luật và kinh tế, số 7(268)/2014, tr.29
10
Nguyễn Hoàng Thùy Trang (2009), “Bảo vệ cổ đông thiếu số trong công ty cổ phần- So sánh giữa pháp
luật Việt Nam và Vương Quốc Anh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật TP.HCM, tr.06
8
9

11

Chapter 4, Ministry of justice, Japan 1999, English translation of the Commercial Code- Law No.48 pf
March 9,1999


9
Tóm lại, từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra cách nhìn của mình về
khái niệm CĐTS như sau: CĐTS là cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong
CTCP và khơng có khả năng chi phối kiểm sốt hoạt động của cơng ty một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ cổ đông thiểu số
1.3.1. Thực trạng về quyền lợi cổ đông thiểu số hiện nay
Về mặt pháp lý, tại khoản 5 điều 113 Luật doanh nghiệp 2014 có nêu rõ các cổ
đông sở hữu cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức,
cổ phần ưu đãi hồn lại ln có sự bình đẳng về quyền lợi so với các cổ đông sở
hữu cùng loại cổ phần của mình. Với tư cách là chủ sở hữu, cổ đơng có những
quyền năng rất lớn đối với các vấn đề quan trọng, trong đó có các vấn đề về tổ chức
quản lý và quyết định sự tồn tại, phát triển của công ty. Mặc dù CĐTS có số vốn ít
ỏi trong cơng ty, xét dưới góc độ pháp lý thì dù tỷ lệ vốn góp thế nào đi nữa thì
CĐTS cũng được quyền có những quyền cơ bản của một cổ đông như những cổ
đông khác. Đó là các quyền được quy đinh tại điều 114 Luật doanh nghiệp 2014,
bao gồm: Quyền chuyển nhượng cổ phần; quyền tiếp cận thông tin; quyền dự họp

và biểu quyết tại ĐHĐCĐ; quyền bầu, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành viên
HĐQT; quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần; quyền khởi kiện. Dù sở hữu 1%
hay 99% tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết, dù là cổ đơng đa số hay CĐTS theo quy
định của pháp luật thì mọi cổ đơng có quyền được tham gia và quyết định các vấn
đề của công ty tại ĐHĐCĐ.
Mặc dù CĐTS rất quan tâm đến các vấn đề của công ty, muốn tham gia quyết
định các vấn đề của công ty nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, nhưng với số
vốn ít, đơi khi quyền biểu quyết của CĐTS khơng thật sự được chú ý tới. Với tỷ lệ
vốn góp khơng đáng kể đó, họ ln là “kẻ đứng ngồi cuộc”. Nếu họ tập hợp lại thì
cho dù tỷ lệ cổ phần phổ thơng cao đến mấy thì quyền biểu quyết của họ tại
ĐHĐCĐcũng là vơ nghĩa. Và do đó, các CĐTS luôn đứng trước nguy cơ bị chèn ép
và bóc lột bởi các cổ đơng lớn và người quản lý cơng ty.
Thực trạng CĐTS bị chèn ép lợi ích bởi cổ đông lớn với tư cách là người sở
hữu vốn.
Hiện nay, việc chèn ép quyền lợi của CĐTS bởi các hành vi lạm dụng quyền
lực của các cổ đông lớn đang liên tục diễn ra gây bức xúc, nản lòng các nhà đầu tư,


10
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự lành mạnh trong môi trường kinh doanh và hiệu
quả của việc huy động nguồn vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong những
năm gần đây, mặc dù có các quy định pháp luật nhằm bảo vệ CĐTS nhưng với địa
vị yếu thế nên họ vẫn luôn bị các doanh nghiệp “coi thường” về quyền lợi. Cùng là
những người đóng góp tài chính cho cơng ty nhưng quyền lợi của họ hồn tồn
khơng được bảo vệ.
Thứ nhất, một hình thức vi phạm phổ biến của các doanh nghiệp, đó là tước
đi quyền dự họp ĐHĐCĐ của các cổ đông nhỏ. Họ “quên” gửi thư mời họp, trong
khi yêu cầu cổ đông tham dự phải mang theo thư mời. Đó là trường hợp vụ việc của
công ty thương mại và dịch vụ Vinacomin-V-Itasco. Theo báo cáo kết quả sản xuất
kinh doanh của CTCP Đầu tư, thương mại và dịch vụ Vinacomin – V-Itasco, năm

2012 cơng ty khơng hồn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh khi lợi nhuận sau
thuế chỉ đạt hơn 6,4 tỷ đồng ( kế hoạch 24 tỷ đồng ) và cổ tức chỉ đạt 5% ( kế hoạch
là 12% trở lên ). Bên cạnh sự thay đổi quá lớn trong kết quả sản xuất, kinh doanh so
với kế hoạch, điều khiến nhiều cổ đông nhỏ cảm thấy thực sự bức xúc là theo Luật
doanh nghiệp, trước khi họp đại hội cổ dông 7 ngày công ty cần phải gửi tài liệu cho
cổ đông. Tuy nhiên công ty lại không gửi, chỉ gửi giấy mời và mẫu ủy quyền, thông
tin trên website cũng ít, đến ngày ĐHCĐ mới được phát tài liệu12. Một cổ đông của
công ty này chia sẻ: “Là cổ đơng của một cơng ty chứng khốn đang niêm yết và
nắm giữ cổ phiếu trong nhiều năm, nhưng chưa bao giờ tôi nhận được thư mời họp
ĐHĐCĐ của công ty. Khơng biết có bao nhiêu cổ đơng nhỏ như tơi bị đối xử như
thế này. Có lần, tơi muốn cơng khai thông tin này ra rộng rãi thị trường nhưng vì
mình mở tài khoản giao dịch chứng khốn tại cơng ty, đồng thời đầu tư vào chính
cổ phiếu của cơng ty, e ngại có thể ảnh hưởng đến quyền lợi, nên tôi đành thôi”13 .
Không chỉ dừng lại ở vụ việc trên, các doanh nghiệp khác cũng có hành vi
tương tự đó là vụ của cơng ty Xi măng La Hiên. Cơng ty Xi măng La Hiên là doanh
nghiệp có vốn điều lệ 100 tỷ đồng, phần vốn Nhà nước chiếm 51% do tổng công ty
công nghiệp mỏ Việt Bắc nắm giữ. Xi măng La Hiên 3 năm liền không hoàn thành
kế hoạch sản xuất kinh doanh: Năm 2010 trả cổ tức 1,5%, năm 2011 không cổ tức,
năm 2012 lợi nhuận âm 20,3 tỷ đồng, nhờ có khoản 10 tỷ đồng lợi nhuận khác (từ
12

truongchungkhoan/phobientinhtrangchenepcodongnho-363888182.chn
/>13


11
thanh lý tài sản) nên tổng kết công ty chỉ cịn bị lỗ 9,96 tỷ đồng. Khơng những bức
xúc về hoạt động kinh doanh bê bết, các cổ đơng cịn bức xúc vì khơng được phát
tài liệu và khơng có bất kỳ thông báo nào về cuộc họp ĐHĐCĐ. Trước sức ép của
cổ đông, năm 2012 công ty đã lập website nhưng thơng tin cơng bố trên đó vẫn

chưa đầy đủ như quy định14.
Thứ hai, cổ đông lớn bỏ phiếu quyết định hay thơng qua người của mình
trong HĐQT để đưa ra các quyết định “vô lý”. Họ thành lập cơng ty thuộc sở hữu
của mình, rồi sau đó chuyển lợi ích dưới đủ mọi hình thức sang cho cơng ty con
hưởng lợi. Cổ đơng lớn có thể chấp nhận cho cơng ty mẹ thua lỗ, thiệt thịi để cơng
ty con được hưởng lợi, mà lợi ích đó lẽ ra thuộc về CĐTS 15. Gần đây nhất, CTCP
Viwaseen xin ý kiến cổ đơng bầu bổ sung 2 vị trí trong HĐQT do 2 vị thành viên cũ
từ nhiệm sau khi chuyển cơng tác. Phiếu lấy ý kiến có ghi: “Nếu sau ngày 5/10, cổ
đơng khơng có ý kiến gửi về cơng ty thì được coi đã đồng ý với kết quả xin ý kiến
của công ty”.Theo Luật doanh nghiệp 2014, khơng có quy định nào cho phép các
cơng ty ràng buộc rằng, cổ đơng khơng có ý kiến gửi về cơng ty thì được coi là đã
đồng ý với các nội dung trong phiếu lấy ý kiến. Số lượng phiếu khơng gửi về phải
được ghi nhận là “khơng có ý kiến”.16
Thứ ba, cổ đơng lớn cịn sử dụng vị thế của mình để biểu quyết cho mình
quyền mua cổ phần mới phát hành nhiều hơn, với giá ưu đãi hơn khi công ty phát
hành thêm cổ phiếu mới. Trên thực tế đã diễn ra khơng ít các vụ việc các cổ đơng
lớn sử dụng sức mạnh của mình để đưa ra những quyết định có lợi cho bản thân họ,
xâm phạm đến quyền ưu tiên mua cổ phần của CĐTS. Chúng ta có thể kể đến vụ
CTCP Giao nhận Vận tải và Thương mại (Vinalink), khi thực hiện tăng vốn điều lệ
từ 36 tỉ đồng lên 90 tỉ đồng, đã đề ra phương án bán 162.000 cổ phiếu cho công ty
Giao nhận kho vận Ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh (Vinatrans) với mệnh giá
100.000 đồng. Tuy nhiên giá thị trường của cổ phiếu Vinalink là 1.500.000 đồng/cổ
phiếu. Việc bán cổ phiếu với giá quá thấp so với giá thị trường này đã khiến cổ
đơng của Vinalink bất bình. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng vẫn là giá cổ phiếu
14

/>T.S Nguyễn Hữu Long(2010), “Bảo vệ cổ đông- Những vấn đề lí luận và thực tiễn trong pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam, Tham luận kỷ yếu hội thảo”, ngày 8/5/2010, tr 71-72
15


16

/>

12
Vinalink đem bán cho Vinatrans chỉ được tăng lên thành 150.000 đồng/ cổ phiếu,
chỉ bằng 10% so với giá thị trường17.
Thứ tư, cổ đơng lớn cịn sử dụng lợi thế về số phiếu biểu quyết của mình để
đưa những người thân quen vào giữ các vị trí trong cơng ty. Thơng qua việc này, cổ
đơng lớn có thể chi phối và kiểm sốt hầu hết các hoạt động cơng ty và dễ dàng thâu
tóm cơng ty. Qua đó đủ để ta thấy sự “ chèn ép” CĐTS vô cùng gay gắt, điều này
càng làm mâu thuẫn giữa các cổ đông ngày càng trở nên căng thẳng. Các trường
hợp trên đây chỉ là những vụ việc được báo chí đưa tin. Còn rất nhiều hành vi xâm
phạm CĐTS khác nữa. Điều đáng nói là cơ quan chức năng vẫn chưa có biện pháp
xử lý kịp thời, nên CĐTS chèn ép thì vẫn bị chèn ép, doanh nghiệp thì vẫn tiếp tục
thờ ơ như khơng biết. Vì vậy, hơn bao giờ hết, CĐTS rất cần được pháp luật bảo vệ
để đảm bảo được những quyền mà họ vốn dĩ được hưởng.
Thực trạng CĐTS bị bóc lột bởi người quản lý điều hành công ty với tư cách
người trực tiếp quản lý sử dụng vốn, tài sản của công ty.
Bên việc luôn bị “chèn ép” bởi các cổ đơng lớn, CĐTS cịn đứng trước nguy
cơ bị “bóc lột” bởi người quản lý cơng ty mà điển hình là HĐQT và Giám đốc cơng
ty. Trên thực tế không thể phủ nhận rằng HĐQT và giám đốc có quyền hành rất lớn
và hầu hết các cổ đông lớn đều là thành viên của HĐQT. Và dĩ nhiên nơi nào tập
trung nhiều quyền lực về khách quan, nơi đó dễ dẫn đến nguy cơ lạm dụng quyền
lực nhằm phương hại đến cổ đông nhiều nhất18.
Do sự phân biệt về quyền quản lý nên người quản lý công ty mới là người trực
tiếp điều hành hoạt động của cơng ty. Do đó, họ có rất nhiều cơ hội để tư lợi cho
bản thân mình bằng nhiều cách thông qua các giao dịch, hợp đồng… và sẵn sàng
tước đi quyền và lợi ích chính đáng của cổ đơng nhỏ. Trường hợp CTCP Đầu tư và
Xây dựng số 18 (Licogi 18), mã chứng khoán L18, niêm yết trên sở giao dịch chứng

khốn Hà Nội là một ví dụ minh họa. Tại mục “Quan hệ cổ đông” trên website
licogi18.com của L18 vẫn cịn lưu thơng báo về ĐHĐCĐ thường niên năm 2009, do
Chủ tịch HĐQT Đặng Văn Giang công bố. Trong đó, điều kiện mà các cổ đơng phải
đáp ứng nếu muốn tham dự đại hội là: “Những cổ đông nắm giữ hoặc được đại diện
Bùi Xuân Hải(2010), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ CĐTS”, Tạp chí Khoa học pháp lý
,(03),tr 27.
18
Theo Phó giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Như Phát (2007), “Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp- Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” , tạp chí Dân chủ và pháp luật.
17


13
sở hữu từ 15.000 cổ phần L18 trở lên có quyền tham dự ĐHCĐ năm 2009. Trường
hợp cổ đông không thể trực tiếp tham dự hoặc không đủ điều kiện tham dự thì có
thể uỷ quyền hoặc nhận uỷ quyền để đủ điều kiện tham dự đại hội”. Trong khi đó,
pháp luật khơng định ra bất kỳ điều kiện nào mà các cổ đông phải đáp ứng để được
tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ. Việc doanh nghiệp đặt ra điều kiện mà các cổ đơng
nhỏ phải đáp ứng thì mới được tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ không chỉ xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đơng, mà cịn làm xấu hình ảnh của chính cơng ty,
cũng như thị trường chứng khốn19.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, vụ việc về ông Nguyễn Thanh Hải là Giám đốc
CTCP Xây dựng Thương mại và Dịch vụ THA cũng xảy ra tình trạng tương tự.
Trong thời gian đầu được thành lập từ năm 2010, ơng đã thực hiện bán hóa đơn trái
phép với số lượng lớn. Theo thống kê ban đầu, số lượng hóa đơn khống mà cơng ty
THA bán ra là 114 tờ, doanh số 27 tỉ đồng. Nội dung hóa đơn mà công ty THA xuất
bán chủ yếu là nhân công, cước vận chuyển, vật tư xây dựng. Qua đó, Nguyễn
Thanh Hải đã thu lợi bất chính từ việc mua bán hóa đơn trái phép khoảng gần 2 tỉ
đồng. Ngồi ra, Nguyễn Thanh Hải còn mượn chứng minh nhân dân của một người
khác thành lập công ty TNHH một thành viên TBL (trụ sở đóng tại xã Ba, huyện

Đơng Giang, tỉnh Quảng Nam ) để xuất hóa đơn đầu vào cho cơng ty THA nói trên
và phục vụ bán hóa đơn cho chính Cơng ty TBL. Đến chiều ngày 19/ 12/ 2016,
phịng cảnh sát kinh tế Cơng an thành phố Đà Nẵng đã thực hiện lệnh bắt tạm giam
đối với Nguyễn Thanh Hải về hành vi mua bán hóa đơn giá trị gia tăng, chứng từ
trái phép. Chính những hành vi này đã gây thiệt hại về vật chất cho công ty, đồng
thời cũng gây thiệt hại cho các cổ đông trong đó có CĐTS20.
Tại ĐHCĐ của tổng cơng ty cổ phần Phân bón và Hóa chất Dầu khí năm
2009, mỗi khi cổ đông nhỏ muốn phát biểu ý kiến, Giám đốc lại u cầu cổ đơng
phải “khai” rõ danh tính. Trong khi, bên ngồi những cổ đơng này đã qua khâu
thẩm tra tư cách tức là đủ điều kiện để tham dự. Thật khó để nói là cách làm này
đúng hay sai nhưng có thể thấy rằng điều này đã gây ức chế hoặc làm nhụt chí
những ai muốn đứng lên phát biểu21.
19

/>20
/>21
/>

14
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng quan hệ giữa CĐTS và cổ đông lớn,
cũng như mối quan hệ giữa CĐTS và người quản lý công ty là mối quan hệ không
công bằng. Một bên là kẻ mạnh ln tìm mọi cách chèn ép, bóc lột để xâm phạm
quyền và lợi ích của kẻ yếu, một bên chịu sự chèn ép kép bởi quyền quản lý22. Cho
nên, việc bảo vệ CĐTS là hết sức cần thiết. Họ không thể nói lên tiếng nói của mình
bởi vì số phiếu biểu quyết của họ gần như là vô nghĩa trước các quyết định đưa ra
bởi cổ đông lớn và người quản lý cơng ty. Vì vậy, hơn bao giờ hết pháp luật cần có
một cơ chế pháp lý hồn thiện để trao cho CĐTS công cụ tốt nhất để tự bảo vệ
mình.
1.3.2. Ý nghĩa việc bảo vệ cổ đơng thiểu số trong công ty cổ phần
Bảo vệ CĐTS sẽ bảo vệ được nguồn vốn và tạo sự phát triển ổn định cho nền

kinh tế.
Trong CTCP, CĐTS có số vốn ít ỏi nhưng lại chiếm đa số trong những nhà
đầu tư. Tổng số lượng vốn họ góp vào là khơng hề nhỏ, họ cũng giữ vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của cơng ty. Vì vậy, nếu tạo ra hành lang pháp lý hiệu
quả để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các CĐTS, khuyến khích các nhà
đầu tư bỏ tiền ra để đầu tư kinh doanh thì nguồn vốn của đất nước sẽ ngày càng tăng
nhanh.
Theo đánh giá về mức độ thuận lợi môi trường kinh doanh do Ngân hàng thế
giới World Bank (WB) thực hiện dựa trên những tiêu chí: Thành lập doanh nghiệp;
xin cấp phép xây dựng; tiếp cận điện năng; đăng ký tài sản; vay vốn; bảo vệ nhà đầu
tư nhỏ; nộp thuế; giao thương quốc tế; thực thi hợp đồng; xử lý khi mất khả năng
thanh toán. Vào năm 2006, thứ hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam là
98/155 nền kinh tế và con số này đã tụt hạng nghiêm trọng vào năm 2007 khi xếp ở
vị trí 104/175. Năm 2008, mức độ thuận lợi kinh doanh của Việt Nam đã có một
bước tiến xa khi lần đầu tiên chúng ta xếp thứ 91/178 quốc gia, đây là thứ hạng cao
nhất mà Việt Nam có được trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, một lần nữa chúng
ta phải thêm phần lo lắng khi mức độ cạnh tranh của môi trường kinh doanh của
Việt Nam lại liên tục tụt hạng xuống vị trí 92/181 nền kinh tế vào năm 2009 và
93/183 nền kinh tế vào năm 2010. Đến năm 2018 thì Việt Nam chỉ ở vị trí 68 trong
22 Nguyễn Hồng Thùy Trang(2008), “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần - So sánh giữa pháp
luật Việt nam và pháp luật Vương quốc Anh”, Luận văn thạc sỹ Luật học, ĐH Luật Thành phố Hồ Chí
Minh,tr 13


15
tổng số 190 nền kinh tế được đánh giá23. Trong khi đó, các nền kinh tế trong khu
vực ln thể hiện sự ổn định về môi trường kinh doanh. Điển hình là Singapore quốc gia ln kiên trì cải cách đã dẫn đầu bảng xếp hạng các môi trường kinh doanh
thuận lợi tồn cầu bốn lần liên tục, cịn Niu di lân thì giữ vững ở vị trí thứ hai. Thái
Lan trong thời gian qua cũng đã có nhiều cải cách quan trọng để lành mạnh hố mơi
trường kinh doanh và đã đứng ở vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng toàn cầu năm

2018. Trên cơ sở nhận thức muốn nền kinh tế phát triển thì phải nhanh chóng hồn
thiện thị trường chứng khốn, thúc đẩy sự phát triền của CTCP, chúng ta cần có
cách nhìn nhận đúng đắn hơn về việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ. Bởi vì
một khi quyền lợi của cổ đơng khơng được đảm bảo thì họ sẽ chuyển sang đầu tư
các lĩnh vực khác an toàn hơn như: Gửi tiết kiệm ngân hàng, kinh doanh bất động
sản…Lúc đó, các doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn vì khơng huy động
được nguồn vốn. Vì thế, bảo vệ CĐTS sẽ bảo vệ được nguồn vốn và tạo sự phát
triển ổn định cho nền kinh tế.
Bảo vệ CĐTS sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế việt Nam
trên trường quốc tế.
Trong thời kỳ mở cửa, một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế cần phải
tranh thủ được nguồn vốn bên ngoài, bao gồm nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA)
và nguồn vốn từ thu hút trực tiếp nước ngồi (FDI), trong đó có các CĐTS là nhà
đầu tư nước ngồi. Chúng ta khơng thể phủ nhận lợi ích to lớn khi được đầu tư bởi
các doanh nghiệp nước ngồi đó là:
Thứ nhất, thu hút vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến. Đồng thời với việc thu
hút vốn đầu tư nước ngồi vào nước ta, thì kéo theo đó chính là các thành tựu khoa
học cơng nghệ, dây chuyền sản xuất cũng như cách thức quản lý tiên tiến để có thể
có được sự phát triển toàn diện nhất. Sự tham gia của những chuyên gia hàng đầu
thế giới về các lĩnh vực sẽ tạo điều kiện học hỏi tối đa cho đội ngũ nhân viên ở Việt
Nam, từ đó làm tăng chất lượng lao động trong nước. Nhưng dĩ nhiên cấp độ tiếp
thu và áp dụng được tới đâu lại do chính nhân lực trong nước quyết định.
Thứ hai, giải quyết vấn đề việc làm. Là một quốc gia đang phát triển nên Việt
Nam gặp khá nhiều khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cho người lao động, đơng
dân nhưng lại khơng có điều kiện sử dụng nhân lực. Nên sự thành lập công ty liên
23

/c/23803895.epi, truy cập ngày 24/3/2018



16
doanh, hay thành lập cơng ty 100% vốn nước ngồi sẽ là bàn đạp tích cực giúp
người lao động có thêm việc làm, giúp dân cư có thêm thu nhập và giúp chính
doanh nghiệp đó khai thác được nguồn lao động giá rẻ. Đồng thời cũng góp phần
nâng cao tay nghề của chính những lao động này.
Thứ ba, tăng doanh thu cho ngân sách nhà nước. Đối với việc kêu gọi được
vốn đầu tư nước ngồi, cũng sẽ góp phần tăng doanh thu cho ngân sách nhà nước từ
chính các công ty này. Bởi hoạt động kinh doanh đa dạng và được thực hiện bằng
mọi điều kiện tốt nhất, mang đến doanh thu cao thì cũng sẽ giúp cho ngân sách Nhà
nước được tăng lên đáng kể24.
Thứ tư, bằng việc thu hút vốn, cơng nghệ nước ngồi, chúng ta cũng sẽ có
điều kiện tốt hơn để giao lưu, trao đổi công nghệ với các nước, nâng cao năng lực
quản lý của chính nhân sự trong nước, nâng cao sự uy tín và vị thế của chính các
doanh nghiệp trong nước. Việc có thêm nhiều CĐTS là nhà đầu tư nước ngoài trong
CTCP của Việt Nam sẽ tạo ra một động lực mới thúc đẩy thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển bởi đây là nhóm đầu tư rất tiềm năng cho nền kinh tế nước nhà
trong tương lai.
Tuy nhiên điều này cũng mang đến cho doanh nghiệp Việt Nam không ít
những thách thức bởi vì hiện nay, chỉ số bảo vệ cổ đông mà đặt biệt là CĐTS quá
thấp, đang là một rào cản lớn cản trở sự đầu tư vốn của các doanh nghiệp nước
ngồi. Khơng nhà đầu tư nào muốn góp vốn cho một doanh nghiệp mà họ không
được đảm bảo về quyền lợi, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Như
vậy, sẽ khiến cho doanh nghiệp Việt Nam khó tiếp cận nguồn vốn quốc tế kéo theo
việc giảm mức độ đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy, cần phải nhanh chóng bảo vệ
CĐTS bởi vì việc đẩy mạnh và hồn thiện cơ chế pháp lý về bảo vệ nhà đầu tư, đặc
biệt là các nhà đầu tư nhỏ sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt
Nam trên trường quốc tế.

24


/>

17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Cho đến nay, vẫn chưa có khái một khá khái niệm cụ thể được quy định trong
pháp luật về khái niệm CĐTS. Dù có nhiều cách hiểu về khái niệm này nhưng nhìn
chung đều có điểm chung đó là “CĐTS là cổ đơng nắm giữ quyền biểu quyết thiểu
số chứ không phải là phần vốn thiểu số. Họ sở hữu một tỷ lệ nhỏ của phần dưới 5%.
Tỷ lệ cụ thể tùy thuộc vào quy mô của CTCP, và dưới bất kỳ hình thức nào họ cũng
khơng thể tham gia kiểm sốt cơng ty”. Tuy chiếm số lượng đơng đảo và có vai trị
rất quan trọng trong CTCP, nhưng quyền lợi của nhóm cổ đơng này thường xuyên
bị xâm phạm nghiêm trọng bởi hai nhóm chủ thế chủ yếu đó là cổ đơng lớn và
người quản lý cơng ty. Từ thực tế đó đặt ra vấn đề phải bảo vệ CĐTS. Tác giả đã
trình bày một cách khái quát nhất về thực trạng bảo vệ CĐTS ở nước ta hiện nay và
sự cần thiết phải bảo vệ CĐTS. Những nội dung trong quy định của pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam hiện hành thể hiện sự bảo vệ quyền lợi CĐTS, sẽ được tác giả
trình bày ở Chương 2 của khóa luận này.


18

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Bảo vệ quyền tài sản của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần
2.1.1. Quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành cổ phần mới
Trong q trình hoạt động kinh doanh, khơng phải doanh nghiệp nào cũng có
đủ nguồn tài chính để đầu tư, mở rộng hoạt động kinh doanh và sản xuất cho cơng
ty của mình. Chính vì vậy, pháp luật luôn cho phép các doanh nghiệp được tăng

nguồn vốn của mình theo cách thức mà luật quy định cho từng loại doanh nghiệp.
Đối với CTCP, tại điểm c khoản 1 điều 114 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Khi
CTCP muốn huy động thêm nguồn vốn hoặc tăng vốn điều lệ thì CTCP có quyền
phát hành thêm cổ phần mới. Và khi đó, tất cả các cổ đơng hiện hữu có quyền mua
thêm cổ phần mới phát hành đó theo một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần
của mình trong cơng ty”, Nghị định số 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn về quản trị công
ty áp dụng đối với công ty đại chúng cũng ghi nhận rằng cổ đơng có quyền được ưu
tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần trong công ty”.
Sau đây tác giả sẽ dẫn ra quy định của pháp luật 1 số nước liên quan đến quyền ưu
tiên mua cổ phần của cổ đông.
Điều L225-132 Bộ luật thương mại Pháp trao cho các cổ đông quyền ưu tiên
mua cổ phần mới chào bán. Tuy nhiên, điều luật này cũng quy định rõ là một cuộc
họp ĐHCĐ bất thường để quyết định về việc tăng vốn của công ty có thể quyết định
loại bỏ quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán của cổ đông. Cuộc họp ĐHCĐ đó
(được 2/3 số cổ đơng có mặt chấp thuận) có thể quyết định phân bổ số cổ phần phát
hành thêm cho một số đối tượng cụ thể.
Theo Luật công ty của Đức, cổ đơng có quyền ưu tiên đối với cổ phần và
quyền phát hành và phải có ít nhất hai tuần để thực hiện quyền sau khi giá phát
hành được cơng bố. Tuy nhiên, quyền ưu tiên có thể bị loại trừ bằng biểu quyết bởi
số cổ đông đại diện cho 3/4 tổng số cổ phần tham gia cuộc họp ĐHCĐ. Việc loại bỏ
quyền ưu tiên phải được xác nhận bằng văn bản của HĐQT và cổ đơng có thể phản
đối quyết định này.


19
Luật của Anh cũng quy định nguyên tắc ưu tiên cho cổ đông hiện hữu khi phát
hành cổ phần mới tại điều 561 Luật cơng ty 2006. Theo đó, cổ đông hiện hữu được
quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành theo tỷ lệ cổ phần của họ trong cơng ty.
Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp miễn trừ nguyên tắc này được quy định trong
luật.

Như vậy, pháp luật của các nước nêu trên đều quy định, cổ đông hiện hữu có
quyền ưu tiên mua cổ phần khi cơng ty phát hành thêm và có thêm 1 số điều kiện
kèm theo. Nhưng tại điều 114 Luật doanh nghiệp 2014 chỉ nêu khái quát: “ Tất cả
các cổ đông hiện hữu có quyền mua thêm cổ phần mới phát hành theo một tỷ lệ
tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình trong cơng ty”. Điều này càng làm cho
các cổ đơng lớn có nhiều cơ hội để thực hiện ý đồ của mình.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp các cổ đông lớn và người quản lý công ty
thường sử dụng việc phát hành thêm cổ phần mới để thực hiện ý đồ tăng tỷ lệ sở
hữu của mình trong cơng ty nhằm thâu tóm cơng ty và lấy đi một phần tài sản chung
của tất cả cổ đơng trong cơng ty. Trong đó, đối tượng chính bị bóc lột là CĐTS. Khi
cơng ty phát hành thêm cổ phần mới thì khơng phải CĐTS nào cũng có thông tin rõ
ràng về việc phát hành này. Cổ đông lớn và thành viên HĐQT là người của họ, lợi
dụng ưu thế về số phiếu biểu quyết của mình để thông qua những quyết định bất lợi
cho cổ đông nhỏ, ngăn cản, hạn chế CĐTS thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phần khi
cơng ty phát hành cổ phần mới.
Có rất nhiều CTCP quyết định giá bán cổ phần mới cho cổ đông lớn thấp hơn
nhiều lần so với giá bán cho CĐTS và thấp hơn giá thị trường sao cho có lợi nhất
cho cổ đơng lớn. Các cổ đơng lớn thường sử dụng nhiều chiêu thức và mánh khóe
tinh vi để xâm phạm quyền ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành của phần
mới của CĐTS. Biểu hiện dưới các hình thức như:
Thứ nhất, với tư cách là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn đã thông qua HĐQT
để đưa ra những nghị quyết để mình có quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành
của công ty với tỷ lệ cao hơn và giá rẻ hơn so với các cổ đơng bình thường khác
trong cơng ty.
Thứ hai, thông qua HĐQT, cổ đông lớn bỏ phiếu thông qua nghị quyết phát
hành thêm cổ phần mới, nhưng lại theo phương thức phát hành nội bộ, từ đó dành


20
cho mình phần được mua nhiều cổ phiếu mới hơn so với cổ đông khác trong công

ty.
Thứ ba, phát hành cổ phần dưới hình thức “Ưu tiên cho người lao động” dạng
thứ ba này chủ yếu xảy ra trong CTCP được cổ phần hóa từ doanh nghiệp Nhà
nước, chủ yếu là người lao động trong công ty. Ở đây, ĐHĐCĐ biểu quyết ưu tiên
cho người lao động mua cổ phần nhưng thực chất là ưu tiên cho mình được quyền
mua đó. Thường tỷ lệ mua lại khơng tương ứng với tỷ lệ số cổ phần mà họ có quyền
sở hữu. Mà ở đây “Những cổ đông đã làm việc lâu năm, thường là thành viện
HĐQT và những người quản lý khác được hưởng lợi nhiều hơn so với các cổ đông
khác”25. Như vậy, với những thủ đoạn này, cổ đông lớn đã không ngừng tăng thêm
tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình trong cơng ty. Qua đó tăng thêm khả năng chi phối,
thâu tóm cơng ty của mình. Sau đây là một số ví dụ điển hình.
Cơng ty vận tải xăng dầu VIPCO, theo phương án phát hành mới được thông
qua, VIPCO sẽ phát hành 178,8 tỷ đồng mệnh giá cổ phiếu để tăng vốn điều lệ,
trong đó Petrolimex được mua 51% số lượng phát hành mới tương ứng với tỷ lệ
51% cổ phiếu mà đơn vị này đang nắm giữ tại VIPCO. Giá mua mà cổ đông nắm
51% cổ phiếu là 15.000 đồng/ cổ phiếu ( gấp 1,5 lần mệnh giá). Các cổ đơng cịn lại
được mua phần còn lại (8,7612 triệu cổ phiếu) theo tỷ lệ 50:21( sở hữu 50 cổ phiếu
được mua thêm 21 cổ phiếu) với giá là 40.000 đồng/ cổ phiếu (gấp 4 lần so với
mệnh giá). Như vậy, giá mua của cổ đông nhỏ cao gấp 2,67 lần so với giá mua của
đại cổ đơng là Petrolimex. Bên cạnh đó, chỉ đến ngày đi dự họp ĐHĐCĐ, các cổ
đông của VIPCO mới được biết về phương án phát hành cổ phiếu mới này của công
ty.
Tại CTCP bê tông X.M khi phát hành cổ phiếu mới, các cổ đông hiện hữu đều
được mua với giá bằng nhau 20.000 đồng/ cổ phần ( giá thị trường là 80.000 đồng/
cổ phần), nhưng tỷ lệ mua lại khác nhau. Cổ đông sáng lập được mua theo tỷ lệ 1:1,
cịn các cổ đơng khác được mua theo tỷ lệ 2:126.
Một ví dụ khác về phát hành cổ phần mới của CTCP vận tải xăng dầu V năm
2007 đã gây xôn xao dư luận. Cụ thể, HĐQT thông qua phương án phát hành cổ
phần tăng vốn điều lệ thêm 178,8 tỷ đồng, theo đó tất cả các cổ đơng sẽ được mua
cổ phần với tỷ lệ 50/21. Tuy nhiên các cổ đông sẽ phải lựa chọn một trong hai

25
26

/>.


21
phương án đó là (i’) Nếu chấp nhận bị hạn chế chuyển nhượng trong 10 năm thì
được mua với giá 15.000 đồng/cổ phiếu; (ii’) Nếu muốn được tự do chuyển nhượng
ngay thời điểm phát hành thì phải mua với giá 30.000 đồng/ cổ phiếu. Dĩ nhiên cổ
đông lớn nhất là tổng công ty xăng dầu Việt Nam sẵn sàng cam kết không bán cổ
phần được mua trong 10 năm. Nhưng đối với cổ đơng khác, thì đây quả là
một thách thức quá lớn, phải chấp nhận chôn vốn tại CTCP xăng dầu V khơng được
chuyển nhượng trong vịng 10 năm27. Ở đây, CTCP vận tải xăng dầu V đã phân biệt
giá bán theo điều kiện là hạn chế chuyển nhượng cổ phần sau khi mua, chứ không
phân biệt giữa cổ đông lớn hay CĐTS. Nhưng bản chất vẫn là dùng kỹ thuật của
mình để cho cổ đơng lớn có khả năng mua được cổ phần mới phát hành theo giá rẻ
hơn, có lợi hơn. Và với điều kiện kèm theo như vậy, nếu các CĐTS từ bỏ quyền
mua cổ phần của mình thì cổ đơng lớn lại có cơ hội tăng lên theo tỷ lệ sở hữu của
mình trong cơng ty. Cịn nếu họ chấp nhận điều kiện thì họ phải mua với giá cao
hơn cổ đông lớn hoặc họ phải bị hạn chế quyền sở hữu của mình trong 10 năm. Ở
đây, ta thấy rõ quyền được ưu tiên mua cổ phần khi công ty phát hành của phần mới
của CĐTS có thể bị xâm phạm, hạn chế bởi một điều kiện đi kèm.
Ngồi ra, các cổ đơng lớn trong một số CTCP còn sử dụng chiêu thức chia cổ
tức bằng cách phát hành cổ phiếu thưởng tính theo mệnh giá, hoặc quyền ưu tiên
mua với giá ưu đãi, thấp hơn giá thị trường ngay khi cổ phiếu của công ty đang tăng
lên. Chẳng hạn, tại CTCP dịch vụ Sài Gòn - Savico (SVC) đã cho cán bộ lãnh đạo
mua cổ phiếu ưu đãi với giá 30.000 đồng/ cổ phiếu, trong khi đó giá thị trường là
118.000 đồng/ cổ phiếu. Mặc dù các CĐTS của công ty đã phản đối, nhưng với với
ưu thế là cổ đông Nhà nước và cổ đông là nhân viên Savico chiếm đa số vốn điều lệ

nên việc này vẫn được đa số thông qua28.
Qua đây, có thể thấy rằng bằng lợi thế của mình cổ đơng lớn trắng trợn xâm
phạm quyền và các lợi ích của CĐTS. Và bản chất của những hiện tượng này, chính
là việc các cổ đơng lớn tìm mọi cách để giành quyền ưu tiên mua cổ phần cho mình.
Nếu nhìn từ khía cạnh pháp luật thì tất cả những hiện tượng này là vi phạm nguyên
tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đơng cùng loại. “ Mỗi cổ phần của cùng một loại
đều tạo cho người sở hữu nó các quyền nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau” và vi phạm
27



28

truy cập ngày 20/06/201


22
điểm a khoản 1 điều 4 Nghị định 71/2017/NĐ-CP hướng dẫn quản trị công ty đại
chúng: “Quyền được đối xử công bằng, mỗi cổ phần của cùng một loại nào tốt cho
cổ đông sở hữu các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau”.
Do đó, tác giả xin đưa ra đề xuất: Để bảo vệ CĐTS thì luật Doanh nghiệp
2014 cần phải bổ sung điều khoản UBCKNN cần phải kiểm soát chặt chẽ việc phát
hành thêm cổ phiếu, cổ phiếu thưởng hay việc thực hiện các chương trình ưu đãi
của các CTCP. Khi các CTCP nộp hồ sơ xin phép phát hành cổ phiếu mới, phát
hành cổ phiếu riêng lẽ, cổ phiếu thưởng, thì UBCKNN phải xem xét kỹ phương án
phát hành của công ty. Đồng thời, UBCKNN phải yêu cầu cơng ty giải trình về nhu
cầu, kế hoạch, mục đích của việc phát hành đó. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi
của mình, các CĐTS phải biết liên kết với nhau để tạo thành nhóm cổ đơng sở hữu
tỉ lệ cổ phần nhất định, để thể hiện ý kiến phản đối của mình về việc phát hành thêm
cổ phiếu mới, cổ phiếu thưởng hay những cổ phiếu ưu đãi mang tính khơng cơng

bằng. Trong một chừng mực nhất định, tùy theo tỉ lệ cổ phần mà nhóm CĐTS sở
hữu, có thể ngăn chặn được việc thơng qua các phương án phát hành cổ phiếu mới
không công bằng này.
2.1.2. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Với nguyên tắc làm việc tập thể và quyết định theo đa số, ĐHĐCĐ là cơ quan
có quyền quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của công ty. Trong q
trình thơng qua các quyết định, việc có nhiều cổ đông biểu quyết phản đối quyết
định của ĐHĐCĐ là điều khơng tránh khỏi. Do đó nhằm đảm bảo quyền lợi của
những cổ đông này và không làm cản trở hoạt động của cơng ty, pháp luật cho các
cổ đơng có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần, được qui định rõ tại điều 129
Luật doanh nghiệp 2014.
Khoản 2 điều 129 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Công ty mua lại cổ
phần theo yêu cầu của cổ đông với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên
tắc quy định tại điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì cổ đơng đó có thể bán cổ phần
cho người khác hoặc các bên có thể yêu cầu một tổ chức định giá chuyên nghiệp để
định giá. Cơng ty giới thiệu ít nhất ba tổ chức định giá chuyên nghiệp để định giá.
Cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng”. Bản chất của việc yêu
cầu công ty mua lại cổ phần là việc rút vốn ra khỏi công ty của CĐTS khi họ không


×