Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.6 KB, 28 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG
1.1. Khái quát về Ngân hàng Thương Mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng Thương Mại
1.1.1.1. Khái niệm:
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân
hàng thương mại được định nghĩa dựa vào tính chất và mục đích của nó trên thị
trường tài chính, thêm vào đó mỗi nước sẽ đưa ra những khái niệm riêng cho
phù hợp với đặc điểm của nước mình.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương
diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó thì: Ngân hàng
thương mại là tổ chức cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Trải qua rất nhiều sự thăng trầm của lịch sử, cùng với sự phát triển của
kinh tế và công nghệ, hoạt động Ngân hàng thương mại đã có những bước tiến
rất nhanh. Nhiều dịch vụ truyền thống vẫn đươc giữ vững bên cạnh các dịch vụ
mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ cho vay ngắn hạn
là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động
sản… các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú.
Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu
của khách hàng. Công nghệ ngân hàng cũng đang góp phần làm thay đổi các
hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh
toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các
loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ Ngân hàng 24 giờ, Ngân hàng tại
nhà… đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho dân chúng.
1.1.1.2. Đặc điểm:
Quá trình phát triển của Ngân hàng diễn ra nhanh chóng như vậy nhưng
các Ngân hàng thương mại vẫn luôn giữ được những đặc điểm chung mang tính
đặc thù:
- Thực hiện chức năng trung gian tài chính:
+ Trung gian tín dụng: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với


hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư giữa các cá nhân và tổ chức
tạm thời thâm hụt chi tiêu với các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu.
+ Trung gian thanh toán: Ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực
hiện thanh toán dưới nhiều hình thức như: Séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại
thẻ…Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân
hàng Trung ương hoặc các trung tâm thanh toán. Ngày nay, công nghệ thanh
toán hiện đại qua Ngân hàng, cũng như sự chuyển hoá nhiều hình thức thanh
toán đã được quan tâm để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi
phí và biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng có hiệu quả,
phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
+ Trung gian rủi ro: Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn
tại của Ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính.
Một đóng góp khác của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản vay
nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền
+ Trung gian thông tin: Một lý do nữa làm cho Ngân hàng phát triển
mạnh và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Tình trạng “thông tin
không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường, nhưng tạo ra một khả
năng sinh lợi cho Ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các
công cụ với các yếu tổ rủi ro – Lợi nhuận hấp dẫn nhất.
- Ngân hàng thực hiện kinh doanh có điều kiện:
+ Điều kiện về vốn: Để bắt đầu hoạt động, Ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định để hình thành các trang thiết bị ban đầu. Sau đó, để duy trì hoạt
động của mình, các Ngân hàng không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu và huy
động các nguồn vốn khác.
+ Điều kiện về nhân lực: Bất cứ Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển
cũng cần phải có nguồn nhân lực giàu kinh nghiệm, đạo đức tốt và nắm vững
được các nghiệp vụ Ngân hàng.
+ Điều kiện về chi nhánh: Việc mở nhiều chi nhánh sẽ giúp cho Ngân
hàng dễ dàng thực hiện được vai trò là thủ quỹ trong nền kinh tế của mình, đi

đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện.
- Ngân hàng thực hiện các hoạt động về Vốn và Tài sản: Nói chung, các
Ngân hàng đều hoạt động chủ yếu ở thị trường tiền tệ. Nó thu lợi nhuận bằng
cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng,
rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính
khác. Như thế, Ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành
một loại tài sản khác cho công chúng.
- Ngân hàng cung cấp một loạt các sản phẩm dịch vụ như mua bán
ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản
giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ hoạt động của chính
phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch
vụ môi giới đầu tư chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ đại lý… Nếu một Ngân
hàng tạo ra những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao
nhờ vào tài sản có của mình, thì ngân hàng đó thu được lợi nhuận, nếu không,
Ngân hàng sẽ phải chịu tổn thất.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ
tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
- Huy động vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động, các ngân hàng phải có
một lượng vốn nhất định để sử dụng lâu dài, hình thành nên các trang thiết bị,
nhà cửa cho Ngân hàng. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng:
+ Nguồn hình thành ban đầu: Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà
nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nó có thể do Ngân sách Nhà
nước cấp nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, thông qua mua cổ phần hay
cổ phiếu nếu là Ngân hàng cổ phần, do các bên liên doanh góp nếu là Ngân
hàng liên doanh, hoặc là vốn thuộc sở hữu tư nhân đối với Ngân hàng tư nhân.
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt
động, Ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau

tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập
ròng thành vốn đầu tư (Nguồn từ lợi nhuận). Hoặc nguồn được bổ sung từ phát
hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
+ Các quỹ: Các quỹ này thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng, nguồn hình
thành là từ thu nhập của ngân hàng và được trích lập hàng năm nhằm bù đắp
những tổn thất xảy ra.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Nguồn này có thể
được coi là vốn sở hữu của Ngân hàng do có thể sử dụng lâu dài và có thể
không phải hoàn trả khi đến hạn.
- Nguồn tiền gửi: Đây là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Trong môi trường
cạnh tranh ngày càng cao, các Ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau nhằm gia tăng tiền gửi và có được nguồn tiền chất
lượng ngày càng cao.
+ Tiền gửi thanh toán: Là tiền của các cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi,
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi suất
rất thấp hoặc có thể bằng không.
+ Tiền gửi có kì hạn: Là khoản tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định (có thể 1 tháng, 3 tháng…, 1 năm, 2
năm…) với một lãi suất tương ứng với kì hạn đó nếu khách hàng rút tiền đúng
hạn. Nếu cần chi tiêu, người gửi vẫn có thể rút tiền ra trước hạn nhưng sẽ hưởng
mức lãi suất thấp hơn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Là khoản tiền tiết kiệm của dân cư vào
ngân hàng nhằm mục đích bảo toàn và sinh lời với những khoản thu nhập tạm
thời chưa dùng đến. Để khuyến khích dân cư đi gửi tiết kiệm, các Ngân hàng đã
đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
+ Tiền gửi của các Ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và
một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng
khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn.

- Nguồn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương
mại, song khi cần, Ngân hàng vẫn có thể vay mượn thêm.
+ Vay Ngân hàng Nhà nước (Vay Ngân hàng trung ương): Khi cần giải
quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự
trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), các ngân hàng thương mại có thể vay Ngân
hàng Nhà nước với hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa
các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách. Trong nhiều
trường hợp nó có thể bổ sung và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng
Nhà nước.
+ Vay trên thị trường vốn: Đây là nguồn vay nợ bổ sung nhằm đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn của ngân hàng với hình thức chủ yếu là
phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tin phiếu, trái phiếu).
- Các nguồn khác:
+ Nguồn ủy thác: Việc thực hiện các dịch vụ như cho vay, ủy thác đầu tư,
giải ngân và thu hộ…hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng vốn của ngân hàng
+ Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động trong thanh toán có thể hình
thành trong nguồn thanh toán (séc trong chi trả, tiền kí để quỹ mở L/C…)
+ Nguồn khác: Gồm các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa
trả…
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động
chính là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.
- Hoạt động Ngân quỹ: Ngân quỹ của ngân hàng thường bao gồm:
+ Tiền mặt trong két: Các ngân hàng thương mại luôn phải giư một lượng
tiền trong két để chi trả nhanh chóng khi cần, đặc biệt với thói quen sử dụng tiền
mặt trong thanh toán của đại đa số dân chúng và doanh nghiệp nhỏ.
+ Tiền gửi tại Ngân hàng khác: Không chỉ có tiền mặt trong két, các
ngân hàng thương mại dũng cần phải gửi tiền tại ngân hàng Nhà nước, tại ngân

hàng và các tổ chức tín dụng khác, có thể do bắt buộc hoặc vì mục tiêu thanh
toán tiện lợi.
- Hoạt động chứng khoán: Ngân hàng thương mại nắm giữ chứng khoán
vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán mà ngân hàng
thường nắm giữ là: chứng khoán chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng
khác, các công ty tài chính và của các công ty khác. Ngân hàng nắm giữ chứng
khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng (lớn hơn so với tiền gửi tại
ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có thể bán đi để gia tăng ngân
quỹ khi cần thiết. Nhưng ta cần chư ý rằng đầu tư chứng khoán ở đây là đầu tư
vào trái phiếu, tín phiếu... chứ không phải là đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ
phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng.
- Hoạt động tín dụng: Đây là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất và phản
ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Loại hoạt động này được phân chia
theo nhiều tiêu thức khác nhau:
+ Theo thời gian: Gồm tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống), tín
dụng trung hạn (trên 1 năm đến 5 năm), tín dụng dài hạn (trên 5 năm).
+ Theo hình thức tài trợ tín dụng: Được chia thành cho vay, bảo lãnh và
cho thuê…
+ Tín dụng được chia theo đảm bảo: Gồm có không đảm bảo và có đảm
bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Tín dụng phân loại theo rủi ro: Bao gồm các khoản có độ an toàn cao,
khá, trung bình và thấp.
+ Tín dụng theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…), theo đối tượng
tài trợ (hàng hóa,bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
- Các hoạt động khác: Ngân hàng có thể thực hiện một số hoạt động khác
như thanh toán, ủy thác, hùn vốn (tham gia góp vốn với các tổ chức khác), các
hoạt động sử dụng khác như mua sắm nhà cửa, trang thiết bị phục vụ cho quá
trình kinh doanh của ngân hàng và cho thuê.
1.1.2.3. Các hoạt động khác:
Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng

thương mại còn tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như:
cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại
lý, dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn...
1.2. Chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng thương mại :
1.2.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại:
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Thuật ngữ này được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy góc độ nghiên cứu, nhưng nhìn chung thì:
Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai bên, họ cam kết với nhau như sau:
- Một bên trao một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại lượng giá trị đó sau một thời gian nhất
định và theo một số điều kiện nhất định nào đó (nhưng lượng giá trị hoàn lại
phải lớn hơn lượng giá trị ban đầu)
Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay nhưng
hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng tài sản và cũng là hoạt động mạng lại lợi nhuận chủ yếu cho các Ngân hàng
. Vì lẽ đó nên khi nhắc đến tín dụng Ngân hàng người ta thường hiểu là hoạt
động cho vay.
Quan hệ tín dụng của Ngân hàng có những đặc trưng sau:
- Tín dụng Ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa một bên là Ngân hàng và
một bên là các thành phần còn lại của nền kinh tế, gồm Nhà nước, tổ chức kinh
tế, xã hội, cá nhân… Tài sản tín dụng trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình
thức cho vay (bằng tiền), cho thuê (máy móc, thiết bị..)
- Quan hệ tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay chỉ được
sử dụng trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn, người đi vay phải trả cho
người vay, do đó khi Ngân hàng xem xét việc cho vay thì điều quan trọng nhất
là xem xét yếu tố trả nợ của khách hàng vay.
- Nguyên tắc của quan hệ tín dụng là giá trị thông thường phải lớn hơn giá
trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm một phần lãi, phần lãi này được
Ngân hàng xác định dựa trên phần lãi suất cho vay. Thông thường Ngân hàng

phải xác định một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát để đạt một lãi
suất thực dương.
1.2.1.2. Phân loại tín dụng:
- Phân chia theo thời gian: Đây là một trong những cách phân chia phổ
biến vì có liên quan mật thiết tới tính an toàn, sinh lợi của Ngân hàng và khả
năng hoàn trả của khách hàng.
+ Tín dụng ngắn hạn: Nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu
sử dụng vốn ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống). Ngân hàng có thể cho vay trực
tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món, theo hạn mức, có hoặc không đảm bảo.
+ Tín dụng trung hạn: Thường từ trên 1 năm – 5 năm và tài trợ cho các
tài sản cố định như máy móc thiết bị vận tải, thiết bị chống hao mòn.
+ Tín dụng dài hạn: Có thời gian trên 5 năm, thường tài trợ cho các công
trình, máy móc thiết bị có giá trị sử dụng lớn và thời gian sử dụng lâu
Tuy vậy, việc xác định thời hạn nhiều khi cũng chỉ tương đối.
- Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng
+ Chiết khấu thương phiếu: Là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng khi cầm thương phiếu chưa đến hạn (hoặc giấy nợ) đến xin chiết khấu,
khoản tiền ứng trước được xác định dựa trên giá trị thương phiếu trừ đi phần thu
nhập của Ngân hàng (có tính đến các yếu tố rủi ro)
+ Cho vay: Là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết hoàn
trả cả gốc và lãi sau một thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất trong
khoản mục tín dụng.
+ Cho thuê: Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là cho khách hàng vay
bằng tiền để mua tài sản, nhưng trong trường hợp khách hàng không đủ điều
kiện để vay, Ngân hàng đứng ra mua tài sản rồi cho khách hàng thuê lại.
+ Bảo lãnh: Là hoạt động cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng như đã cam kết.
- Phân loại theo mức tín nhiệm với khách hàng.
+ Cho vay không có đảm bảo: Là hình thức cho vay tín chấp, thường áp

dụng với những khách hàng có uy tín hay các khoản cho vay theo chỉ thị của
Nhà nước không cần tài sản đảm bảo
+ Cho vay có đảm bảo: Là các khoản vay đối với các khách hàng có tài
sản cầm cố hoặc thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba.
- Căn cứ vào đối tượng khách hàng vay:
+ Cho vay chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ
cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên thông qua việc mua trái phiếu do kho bạc
phát hành.
+ Cho vay các đơn vị kinh doanh: Đối tượng vay là các doanh nghiệp
quốc doanh và ngoài quốc doanh.
+ Cho vay các tổ chức tài chính khác (Ngân hàng, Công ty Tài chính,
quỹ tín dụng…) là hoạt động cho vay chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thanh khoản
hoặc thanh toán liên Ngân hàng.
+ Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá
nhân, người tiêu dùng để mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc kinh doanh
– Căn cứ theo phương thức cho vay
+ Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay mà Ngân hàng cho phép người
vay được chi trội (vượt) trên số tiều gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định (Hạn mức thấu chi) và trong khoảng thời gian xác định.
+ Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hoặc mở
rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó
Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức về số dư.
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
+ Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó Ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận, thường
áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định…

- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
+ Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các
chủ thể kinh tế với mục đích tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Cho vay tiêu dùng: Là tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cũng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại…Cho vay tiêu dùng
được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bán chịu hàng hoá
Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng còn một số cách phân loại khác như: Phân
loại theo rủi ro, theo nền kinh tế, theo mục đích…
1.2.2. Chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho Ngân hàng
thương mại. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân nhưng đều gây ra tổn thất lớn,
thậm chí đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ
lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là
quá trình phân tích tín dụng, bao gồm qúa trình thẩm tra trước, trong và sau khi
cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh. Và khi sự cân nhắc, ước lượng khả
năng sinh lời cũng như khả năng rủi ro được đo lường chính xác, đầy đủ là
Ngân hàng đã có một chất lượng phân tích tín dụng tốt.
Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua hợp đồng tín dụng với
trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc
thực hiện hợp đồng. Do đó, mục tiêu của phân tích tín dụng là thu thập và phân
tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm xác định
vị trí thị trường so sánh của người nhận tín dụng, sức cạnh tranh, rủi ro, mức độ
thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay…
trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cho phép ngân hàng để điều chỉnh các giá
trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng.
Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ, quy
trình tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Được xây dựng và thống nhất toàn ngân hàng, tránh tùy tiện, duy ý chí. Quy
trình này phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua và phổ biến đến các

phòng có liên qua cũng như các cán bộ tín dụng
- Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng
chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ ngân hàng cần biết mình phải làm
gì, đến mức nào.
Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện nguyên tắc tín dụng ngân hàng
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tín dụng:
Để đánh giá chất lượng phân tích tín dụng có tốt hay không, người ta sẽ xem
xét thông qua các chỉ tiêu được hình thành trong quy trình phân tích tín dụng.
Vì vậy, để biết được các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tín dụng, ta
nghiên cứu quy trình phân tích tín dụng như sau:
 Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng

×