Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.83 KB, 10 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
I. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP
VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
Nếu như so với các nghiệp vụ phi nhân thọ khác như BH hàng hải, BH
cháy… thì BH TBĐT là một nghiệp vụ ra đời muộn nhất và cho đến nay còn
khá mới mẻ, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, khi mà TBĐT được
ứng dụng chưa lâu và BH TBĐT mới được triển khai như Việt Nam.
Hợp đồng BH TBĐT đầu tiên trên thế giới xuất hiện vào những năm đầu
tiên của thế kỷ XX. Ban đầu, nó được coi là phân bổ sung cho các hợp đồng
thuê và bảo trì TBĐT. Công ty chuyên BH TBĐT đầu tiên trên thế giới được
chính thức thành lập vào năm 1921.
Tại Đức, vào những năm 20 của thế kỷ XX, loại hình BH chuyên biệt cho
thiết bị điện thoại đã hình thành với cái tên là “bảo hiểm điện áp thấp” với mục
đích là bảo vệ các công ty cho thuê bao điện thoại chống lại áp lực tài chính do
những tổn thất đối với thiết bị điện thoại gây ra.
Sau đó, vào những năm 30 cùng thế kỷ đó, người ta đã mở rộng phạm vi
các thiết bị được BH bao gồm cả các hệ thống tín hiệu ánh sáng (như hệ thống
đèn biển), hệ thống loa chuyên dùng và hệ thống báo cháy, các thiết bị viễn
thông (điện thoai, điện báo…) rồi đến các máy tính điện tử.
Cũng tại Đức, vào năm 1941, công nghệ máy tính đã phát triển và hoàn
chỉnh bởi KONZADZNSE. Vào thời gian đó, tại Mỹ cũng đã hình thành chuỗi
máy tính điêu khiển tự động, bước tiếp theo là sử dụng hệ thống các ống điện tử
cho việc tính toán. ENIAC, một máy tính khổng lồ sử dụng 18.000 ống điện tử,
15.000 thiết bị ngoại vi khác và tiêu thụ với công suất 150KW được hoàn thành.
Sau đó là một chương trình ghi nhớ được phát triển bởi nhà toán học John
Newman trong năm 1948.
Vào những năm 1950, người ta đã phát minh ra thiết bị bán dẫn và từ đây
có sự thay thế trandiot và diot cho các ống điện tử này. Đến năm 1960, một
bước ngoặt đáng kể cho sự phát triển của ngành điện tử đó là sáng kiến về vi
mạch điện tử. Sáng kiến này đã thực sự mở đường cho “Cách mạng công
nghiệp” lần thứ III.


Kể từ đó, nhiều rủi ro mới đã xuất hiện và nhu cầu cho loại hình BH
TBĐT ngày càng lớn. Hợp đồng BH TBĐT trở thành hợp đồng BH được yêu
cầu nhiều nhất trong lĩnh vực BH kỹ thuật vào những năm 80 của thế kỷ XX.
Riêng tại Đức, vào năm 1992, BH TBĐT đã tạo ra doanh thu phí hơn
450.000.000 USD, chiếm gần 33% tổng doanh thu phí BH kỹ thuật.
Sang thế kỷ XXI, với sự bùng nổ thông tin cũng như công nghệ thông tin;
hệ thống máy tính được sử dụng rộng rãi không chỉ trong các công sở, cơ quan,
các công ty mà ngay tại gia đình; các thiết bị cũng như nhu cầu Viễn thông tăng
mạnh mẽ… thị trườngbh TBĐT được giới chuyên gia đánh giá là thị trường còn
đầy tiềm năng.
Tại Việt Nam, BH TBĐT là một loại hình BH phi nhân thọ mới nhất và
còn khá mới mẻ đối với cả các công ty BH lẫn khách hàng BH. Nghiệp vụ này
mới được Tổng công ty BH Việt Nam (Bảo Việt) nghiên cứu, triển khai từ cuối
năm 1996, đầu năm 1997. Thị phần lớn nhất đối với nghiệp vụ này vào thời
gian đó là các công ty: Bảo Việt, Bảo Minh,Pjico. Tuy nhiên, sau đó, vào năm
1998, PTI- công ty cổ phần BH với cổ đông lớn nhất là Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam (VNTP)- ra đời, với ưu thế lớn là kinh nghiệm cũng như
là nguồn dịch vụ về TBĐT hết sức dồi dào nhận được từ VNPT, đã nhanh
chóng chiếm được vị trí số 1 về nghiệp vụ BH TBĐT.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
1. Sự cần thiết của bảo hiểm thiết bị điện tử
TBĐT là các loại thiết bị có chứa linh kiện bán dẫn và các mạch điện tử.
Chúng không phải thực hiện bất cứ một hoạt động cơ học nào mà hoạt động của
chúng chỉa thực hiện qua các linh kiện điện tử, các mạch và vi mạch… như
truyền và lưu trữ thông tin, điều khiển, thử nghiệm, thẩm định hay báo động…
TBĐT có thể được nối với các thiết bị cơ học khác để thực hiện các hoạt động
cơ học.
TBĐT có khả năng thực hiện công việc cực nhanh và chính xác bởi tốc
độ lan truyền tín hiệu qua các linh kiện điện tử là tốc độ của các hạt điện tử.
Hơn thế nữa, nó còn có ưu điểm rất lớn nữa là kích cỡ của các linh kiện điện tử

là rất nhỏ, thậm chí là siêu nhỏ. Người ta từng biết đến những Robot có khả
năng “thám hiểm” cơ thể người để tìm ra các mầm bệnh bằng cách chuyển động
cùng dòng máu lưu thông trong cơ thể. Ngày nay,với sự phát triển của ngành
Bưu chính viễn thông, truyền thanh, truyền hình, y tế, khoa học về vũ trụ…
những ngành cần rất nhiều TBĐT hiện đại, và bản thân ngành điện tử với việc
cải tiến, thu nhỏ kích cỡ của TBĐT mà vai trò của TBĐT ngày càng trở lên
quan trọng trong cuộc sống hiện đại.
Không chỉ quan trọng đối với các ngành khoa học, chúng còn giúp cho
cuộc sống hàng ngày của con người thêm dễ chịu và năng động hơn. Ngồi ở
nhà, bên cạnh một máy tính điện tử được nối mạng, chúng ta có thể biết được
tình hình kinh tế – xã hội của một nơi trên thế giới cách ta nửa vòng trái đất,
hoặc có thể mua bán, trao đổi thư từ thông qua mạng. Ta cũng có thể chỉ cần mở
TV và tuỳ ý lựa chọn chương trình giải trí hay đón nhận tin tức thời sự ma mình
thích hoặc có thể nghe được tiếng nói thậm chí nhìn thấy hình ảnh của người
mình đang nói chuyện cùng qua điện thoại truyền hình… Tất cả những tiện
dụng này đều có được nhờ vào các TBĐT.
TBĐT cũng giúp tăng năng suất lao động. Một người công nhân giờ đây
có thể chỉ huy được một giàn máy cồng kềnh mà trước đây có thể phải cần đến
ba, bốn người. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng có thể được thực hiện
hoàn toàn tự động bằng TBĐT, vừa nhanh, vừa chính xác.
TBĐT rất đa dạng và phong phú, mỗi một loại lại phục vụ cho một nhu
cầu hay một lĩnh vực khác nhau. Người ta chia chúng ra thành các loại sau:
- Các thiết bị EDP (Electronic Data Processing) và các TBĐT dùng trong
văn phòng (máy vi tính, máy in, máy chiếu, máy Fax, máy photocopy…)
- Các thiết bị viễn thông: thiết bị thu, nhận tín hiệu, thiết bị chụp ảnh từ
xa, máy sao bản từ xa, các thiết bị liên quan tới tín hiệu điện thoại…
- Thiết bị truyền dẫn và phát tín hiệu: các hệ thống báo động, hệ thống
đồnh hồ đo, hệ thống dò tìm và các hệ thống liên lạc bên trong.
- Thiết bị y tế: thiết bị tia X dùng trong chẩn đoán bệnh, thiết bị bức xạ
đẳng hướng dùng để trị liệu, thiết bị phân tích thử nghiệm dùng trong các phòng

thí nghiệm y học.
- Thiết bị thu phát thanh, truyền hình, điện ảnh, các thiết bị dùng trong
phòng thu.
- Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải: đèn chiếu, đèn pha, hải đăng,
đèn huỳnh quang, các hệ thống vô tuyền điện thoại, thiết bị hàng hải bằng điện
tử khác.
Nhu cầu gia tăng đối với TBĐT cũng như sự phát triển của nó dẫn tới
một nhu cầu khác rất cần thiết đó là nhu cầu đảm bảo sự vận hành an toàn, liên
tục của TBĐT. Có nhiều phương pháp bảo đảm song BH TBĐT được coi là
biện pháp hiệu quả hơn cả. Nguyên nhân là:
- Các TBĐT đều liên quan đến việc lưu trữ hay truyền dữ liệu. Xã hội
càng văn minh, cuộc sống càng hiện đại thì thông tin lưu trữ và truyền đi ngày
càng nhiều và quan trọng. Do đó, một khi có sự hỏng hóc đối với TBĐT thì sẽ
gây ảnh hưởng lớn tới người sử dụng.
- Các TBĐT thường hoạt động trong một hệ thống có mối liên hệ mật
thiết với nhau, có thể là giữa các TBĐT với nhau hoặc giữa TBĐT với các thiết
bị ngoại vi. Do đó, một khi xảy ra sự cố đối với một thiết bị nào đó sẽ gây nên
sự đình trệ trong toàn hệ thống.
- Rủi ro mà các TBĐT có thể gặp phải rất đa dạng, từ các rủi ro thiên tai
như: mưa, bão, lũ, lụt, hoả hoạn, sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm,… cho tới các
rủi ro do con người gây ra như sơ suất và bất cẩn của nhân viên vận hành, hành
động ác ý, trộm cắp,…
- Do đặc tính nhỏ gọn nên trong một phạm vi nhỏ hẹp có thể tập trung
một khối lượng TBĐT có giá trị rất cao. Khi xảy ra tổn thất thì giá trị thường rất
lớn.
- Chi phí cho việc khôi phục, tạo lập lại những chương trình dữ liệu rất
cao, đặc biệt là đối với những thiết bị vừa được tung ra thị trường hoặc những
thiết bị phục vụ cho một mục đích chuyên biệt nào đó mà rất khó mua được
thiết bị thay thế mới
- Để có thể tự chủ về mặt tài chính trong cơ chế thị trường, mỗi một

doanh nghiệp phải có cách khắc phục những tổn thất xảy ra. Mỗi một sự cố xảy
ra đối với TBĐT đều dẫn đến những tổn thất lớn cho doanh nghiệp bởi giá trị
rất lớn của cả TBĐT lẫn dữ liệu chứa trong nó. Bằng cách đóng một sô phí nhỏ
cho công ty BH, doanh nghiệp có thể yên tâm sản xuất kinh doanh và có thể tự
chủ tài chính khi có sự cố xảy ra.
- Do TBĐT là loại thiết bị có hàm lượng công nghệ cao nên nó đòi hỏi
người sử dụng phải có trình độ cao về khoa học kỹ thuật cũng như tính cẩn thận.
Trong thực tế, không phải người sử dụng nào cũng đáp ứng được yêu câu này
nếu như không có sự tư vấn của các nhân viên của công ty BH. Vì vậy, việc
tham gia BH TBĐT lại càng trở nên cần thiết hơn. Khi tham gia BH TBĐT,
người được BH sẽ được tư vấn các biện pháp đề phòng rủi ro cũng như ngăn
ngừa tổn thất xảy ra thêm, từ đó mà nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
đảm bảo an toàn cho công việc của mình.
2. Đặc điểm của BH TBĐT
Do những đặc điểm riêng của TBĐT như đã nêu trong phần 1 về sự cần
thiết của BH TBĐT mà BH TBĐT cũng có những đặc điểm riêng khác biệt
ngoài những đặc điểm chung của các loại hình BH tài sản là: hình thức tự
nguyện, áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp,… Dưới đây là các đặc điểm
riêng đó.
- Một là, đơn BH TBĐT có phạm vi rất rộng, thông thường là dạng đơn
BH “mọi rủi ro”. Dựa trên đơn BH mọi rủi ro với rất ít các điều kiện loại trừ, nó
bảo đảm việc bồi thường sau khi có tổn thất xảy ra thậm chí cả trong các trường
hợp không đáng quan tâm hoặc không quan trọng đối với các tài sản khác, ví dụ
như: việc vận hành thiếu chuyên môn, dao động điện áp, ám khói, ẩm ướt và nổ
đèn chân không. Tuy nhiên, các hiểm hoạ ấy đã gây ra một rủi ro rất lớn,
nghiêm trọng cho TBĐT có độ nhạy cảm cao cả về tần số cũng như tính khốc
liệt. Tương tự như vậy, một nguyên nhân tương đối nhỏ cũng có thể gây ảnh
hưởng lớn về tài chính do sự đình trệ trong kinh doanh bởi vì hoạt động này có
thể hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng của TBĐT.
- Hai là, điều khoản chuẩn trong đơn BH TBĐT có đưa ra điều khoản

hoàn trả tiền trên cơ sở giá trị thay thế mới. Điều này đặt người được BH vào vị
trí có sẵn nguồn tiền đầy đủ để thay thế ngay lập tức mà không có sự khấu trừ
nào theo điều kiện “mới thay thế cũ”.

×