Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.44 KB, 59 trang )

..

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: TS. NGUYỄN THÀNH ĐỨC
Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN THỊ NHƯỜNG

MSSV: 1411271366

Lớp: 14DLK14

TP. Hồ Chí Minh, năm 2018


i

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Cơng Nghệ Tp.HCM nói
chung và q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp nói riêng, em đã nhận được rất
nhiều sự hỗ trợ và hướng dẫn nhiệt tình từ các thầy, cô trong chuyên ngành Luật
kinh tế thuộc Khoa Luật – Trường Trường ĐH Công Nghệ Tp.HCM.


Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban giám hiệu nhà trường, cùng
tồn thể các thầy cơ trong Khoa Luật rất tâm huyết, dạy bảo và dìu dắt chúng em
trong suốt bốn năm học đại học tại đây, giúp chúng em có được những kiến thức
nền tảng vững chắc nhất trước khi bước vào một môi trường mới đầy thử thách.
Và tạo điều kiện để chúng em – khóa sinh viên đầu tiên của ngành Luật kinh tế có
thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới Thầy giáo Nguyễn Thành Đức – Trưởng
Khoa Luật đã hết sức tận tâm chỉ dẫn và giúp đỡ em hồn thành bài khóa luận. Do
thời gian có hạn và kiến thức cịn nhiều hạn chế nên bài làm của em không thể
tránh khỏi những sai sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy
cơ để bài khóa luận được hồn chỉnh và giúp em trau dồi thêm vốn kiến thức về
pháp luật thương mại.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


ii

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan các tài liệu và thơng tin sử dụng trong bài khóa luận tốt
nghiệp này được thu thập từ những nguồn đã công khai, cụ thể như: các trang web
của chính phủ, sách, báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, và tham khảo một số bài
viết nghiên cứu khác trên internet (đã có trích dẫn nguồn đầy đủ theo đúng qui
định);
Nội dung trong khóa luận này do kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ
q trình học tập và nghiên cứu cũng như tích lũy được trong khoảng thời gian
thực tập tại Tòa án nhân dân Quận 1, TP.Hồ Chí Minh, và cam đoan không sao
chép trái qui định từ bất kỳ nguồn tài liệu, khóa luận, báo cáo nào khác.
Nếu có sai sót em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của Nhà
Trường và Pháp luật.
Sinh viên

(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Thị Nhường


iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ Luật Dân Sự

LTM:

Luật thương mại

CISG:

Công ước viên 1980 Công ước viên của Liên hợp quốc về mua
bán hàng hóa quốc tế

UCC:

Bộ luật thương mại thống nhất của Hoa Kỳ

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới

AFTA:


Khu Mậu dịch tự do ASEAN

CPTPP:

Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

GATT:

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch

HĐ:

Hợp đồng

MBHH:

Mua bán hàng hóa

HĐ MBHH: Hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐ MBTS:

Hợp đồng mua bán tài sản

KDTM:

Kinh doanh thương mại

BTTH:


Bồi thường thiệt hại

VPHĐ:

Vi phạm hợp đồng

DN:

Doanh nghiệp

ĐH:

Đại học

PT:

Phúc thẩm

ST:

Sơ thẩm


iv

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài. .......................................................................................... 1


2.

Tình hình nghiên cứu..................................................................................... 1

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3

4.

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3

5.

Kết cấu khóa luận .......................................................................................... 4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ........................................................... 5
1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại......... ................................................................................................................ 5
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng. .............................................................................. 5
1.1.2 Khái niệm hàng hóa ................................................................................... 8
1.1.3 Khái niệm mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán
hàng hóa trong hoạt động thương mại. ............................................................ 10
1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại......... .............................................................................................................. 11
1.3 Phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại
theo LTM 2005 và hợp đồng mua bán tài sản theo bộ luật dân sự
2015......................................................................................................................17

1.4 Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại......... .............................................................................................................. 19
1.5 Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại... .................................................................................................................... 21
1.6 Bản chất và nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt
động thương mại................................................................................................. 21
1.6.1 Bản chất giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại... .................................................................................................................... 21


v

1.6.2 Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại... .................................................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA – THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI. ........................................................ 24
2.1 Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại........................................................................................................................24
2.1.1 Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại........ ............................................................................................................... 24
2.1.1.1 Các dấu hiệu nhận biết đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
hoạt động thương mại. ......................................................................................... 24
2.1.2 Chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại... .................................................................................................................... 29
2.1.2.2 Thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng......................... ............................................................................................. 31
2.1.3 Thời điểm và địa điểm của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
hoạt động thương mại. ....................................................................................... 32

2.1.3.1 Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại........ ................................................................................................................ 32
2.1.3.2 Địa điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại......... ............................................................................................................... 33
2.1.4 Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại........ ............................................................................................................... 34
2.2 Thực tiễn áp dụng giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động
thương mại .......................................................................................................... 34
2.2.1 Những vấn đề vướng mắc khi tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa trong hoạt động thương mại ...................................................................... 34


vi

2.2.2 Một số ví dụ bản án trong thực tế về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. ................................................. 37
2.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong hoạt động thương mại.............................................................................. 45
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 50


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Khi bước vào nền kinh tế thị trường, trong bối cảnh toàn cầu hóa dần mở
rộng nhiều quan hệ mua bán hàng hóa, việc mua bán hàng hóa khơng chỉ diễn ra
trong lãnh thổ một nước với nhau mà còn thực hiện các quan hệ trao đổi mua bán
hàng hóa quốc tế. Nhất là trong quan hệ mua bán hàng hóa hiện nay, thì việc mua

bán cung ứng dịch vụ với nhau thường được thể hiện dưới nhiều cách thức và nội
dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong thương mại được thể hiện bằng
một hình thức nhất định đó là đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua
bán hàng hóa rất phong phú, được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật và khá phổ biến
trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Trong hệ thống
pháp luật nước ta đã có những quy định cụ thể về sự điều chỉnh quan hệ hợp đồng
ngay từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, tiếp đến là Bộ luật Dân sự 1995, 2005,
Luật Thương Mại 1997, .... và hiện tại tiêu biểu là hai văn bản pháp luật mới nhất
hiện hành đó là: Bộ Luật Dân Sự 2015, LTM 2005 và ngồi ra cịn có rất nhiều các
văn bản hướng dẫn đi kèm. Để hoạt động thương mại nói chung và hoạt động mua
bán hàng hố nói riêng đi vào chiều sâu, địi hỏi mỗi thành phần kinh tế, mỗi cá
nhân phải tìm hiểu, tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo
đúng luật, nhằm hạn chế những tổn hại kinh tế khơng đáng có, để các quy định của
Luật thương mại thực sự có ích trong cuộc sống, tạo thuận lợi cho mọi chủ thể của
hoạt động thương mại. Như vậy có thể nói hợp đồng mua bán hàng hóa là nội dung
không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh.
BLDS năm 2015 thống nhất điều chỉnh mọi quan hệ hợp đồng, cho dù chúng phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại hay tiêu dùng. Chứa đựng nhiều nội dung mới
về hợp đồng, và tại Bộ luật cũng dành nhiều quy định cho vấn đề giao kết hợp đồng, tháo
gỡ nhiều vướng mắc trong thực tiễn giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật này. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 vẫn khơng tránh khỏi những khiếm khuyết,
bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện, trong đó có những quy định về giao kết hợp đồng.

Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài: PHÁP LUẬT VỂ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan
trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Chế định về hợp đồng đã được đề
cập trong pháp luật Việt Nam ngay từ sự ra đời của Bộ Quốc triều hình luật năm



2

1483 và Bộ luật Gia Long năm 1815,... Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa chỉ thực sự được định hình với các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó là BLDS năm 2005, LTM 2005 và mới nhất
là BLDS 2015. Đối với các cơng trình nghiên cứu luật hợp đồng mua bán hàng
hóa, từ trước đến nay đã được nghiên cứu khá nhiều nhằm phân tích, luận giải và
đưa ra những kiến nghị. Từ các hướng tiếp cận khác nhau các cơng trình nghiên
cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa đã triển khai theo hướng nghiên cứu liên quan
đến quan niệm và việc xác định các tiêu chí của hợp đồng mua bán hàng hóa; hoặc
là theo hướng nghiên cứu về các giai đoạn của giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa... Về quan niệm và việc xác định các tiêu chí của hợp đồng mua bán hàng hóa
đã có nhiều cơng trình đề cập trong đó tiêu biểu là Giáo trình Luật thương mại
Việt Nam Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ biên: TS. Phan Duy Nghĩa
(2002); Giáo trình Luật kinh tế, Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và
dịch vụ Trường ĐH Luật TP.HCM (2012), NXB Hồng Đức, hay Giáo trình Luật
thương mại – Khoa Luật ,Trường ĐH Cơng Nghệ TP.HCM,.... Những nghiên cứu
trong các cơng trình này đã đưa ra quan niệm và xác định tương đối rõ các tiêu chí
của hợp đồng MBHH.
Về các giai đoạn của giao kết hợp đồng MBHH cũng đã có nhiều cơng trình đề
cập đến điển hình: Giáo trình Luật thương mại của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, bài viết của Tòa án nhân tối cao:
“Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự”. Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này đều quan niệm
quá trình giao kết hợp đồng phải trải qua hai giai đoạn là đề nghị giao kết và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Ngoài ra, cịn có nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học luật, sinh viên viết
khóa luận đã tiếp cận về lĩnh vực này. Mỗi bài đều đề cập và tiếp cận đến nhiều
khía cạnh khác nhau của pháp luật về HĐ MBHH. Trong đó, có thể nói đến như

luận văn: Luận văn thạc sỹ luật học - Đinh Thị Thanh Huyền (2007): “Hợp đồng
mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay”- Khoa Luật – ĐH QG HN
bài viết đề cập chung đến gần như hầu hết các quy định của pháp luật về HĐ
MBHH theo BLDS 2005 và LTM 2005, từ đó đưa ra một số kiến nghị theo hướng
hoàn thiện pháp luật về quan hệ này, Hay với Luận văn thạc sỹ luật học - Phạm
Công Dân (2010): “Những điểm mới về giao kết hợp đồng trong bộ luât dân sự
năm 2005” – Khoa Luật – ĐH QG HN, tại đây luận văn tập trung phân tích những
điểm mới về giao kết hợp đồng và từ đó đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp
luật về giao kết hợp đồng trong BLDS 2005 ... Tuy nhiên, nội dung của các bài


3

luận văn này đang chỉ dẫn chiếu các quy định của BLDS 2005 mà hiện tại Bộ luật
này đã hết hiệu lực và được thay thế bởi BLDS 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận xác định đối tượng nghiên cứu là những vấn đề về hợp đồng mua bán
hàng hóa như: Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa, về đặc điểm, nội dung
của hợp đồng mua bán hàng hóa và tập trung đi sâu vào những vấn đề về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại cũng như thực tiễn áp
dụng từ đó kiến nghị hồn thiện pháp luật về giao kết HĐMBHH.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết xác định rõ nội dung phạm vi nghiên cứu đó là: Xoay quanh những vấn
đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết HĐMBHH trong hoạt động
thương mại theo luật Việt Nam hiện hành. Đồng thời, có so sánh và liên hệ trực
tiếp với pháp luật quốc tế, pháp luật của các nước phát triển để từ đó rút ra được
những bài học kinh nghiệm nhằm đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong
nước.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ yếu phải kể đến đó là:
Phương pháp thu thập dữ liệu, phân tích - tổng hợp, thống kê chọn lọc, phương
pháp luận so sánh.... Các phương pháp này được vận dụng trong nhiều phần khác
nhau của đề tài:
Phương pháp thu thập dữ liệu: Thu thập dữ liệu sẵn có từ các phương tiện
thơng tin đại chúng như: Sách điện tử, báo giấy, báo mạng, tivi, internet,... Ngồi
ra, tác giả cịn thu thập từ thư viện sách của các trường ĐH như: Trường ĐH Luật
TP.HCM, ĐH Công nghệ TP.HCM,...hay hỏi ý kiến của các thầy cơ có chuyên
môn trong Khoa Luật – Trường ĐH Công nghệ TP.HCM, những người có kinh
nghiệm lâu năm về lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa, và bằng cách thơng qua
những buổi thảo luận nhóm với các bạn sinh viên có chung đề tài nghiên cứu.
Phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê chọn lọc: Từ những dữ liệu dược
thu thập, tiến hành đi sâu phân tích kỹ càng những vấn đề đặt ra, từ đó tổng hợp
lại một cách có hệ thống bài bản, theo hướng dễ tiếp cận, và dễ hiểu.
Phương pháp luận so sánh: Kết hợp với phương pháp luận so sánh vào từng
vấn đề cụ thể, để từ đó giúp cho bài khóa luận trở nên đầy đủ ý kiến đa chiều, tăng


4

tính thuyết phục cho bài viết, khiến cho người đọc có cái nhìn tồn diện về lĩnh
vực đang nói đến trong bài.
5. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội
dung của bài khóa luận gồm 2 chương.
Chương 1: Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại
Chương 2: Pháp luật Viêt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực
tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa trong hoạt động thương mại



5

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng.
Trong những năm qua, có rất nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về hợp
đồng giữa pháp luật của các quốc gia trên thế giới và của các nhà nghiên cứu. Ngày
nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện
các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu trong đời sống xã hội. Tuy vậy,
trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác, như thuật
ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia hiện nay là việc
không mấy dễ dàng. Nhiều quốc gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus)
hình thành từ động từ “contrahere” trong tiếng La- tinh có nghĩa là “ràng buộc” và
xuất hiện lần đầu ở La Mã vào khoảng thế kỷ V- IV trước công nguyên. Ban đầu
người La Mã cũng khơng có cái khái niệm chung “contractus” mà sử dụng các
thuật ngữ riêng để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio), vay
mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum),...Mãi đến thời của luật
gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau công nguyên), người La Maz mới sử dụng chính xác
thuật ngữ “contractus” trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận
và bảo vệ dưới thời Justinnian. Sau này các nước phương Tây đã kế thừa và phát
triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp
đồng” mà trong tiếng anh được viết là “contract”, trong tiếng Pháp là “contrat”1 .
Ở Việt Nam trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận,... Trong cổ luật, dựa vào các dữ liệu lịch sử còn lại cho đế nay, thuật
ngữ “văn tự” hay “văn khế” hay mua, bán, cho, cầm đã được sử dụng khá sớm
trong Bộ Quốc triều Hình luật. Ngồi ra, trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931, Bộ Dân

luật Trung Kỳ 1936-1939 và Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 còn sử dụng thuật ngữ
“hiệp ước” , trong đó các nhà làm luật xem “khế ước” là một “hiệp ước” hoặc đồng
nhất giữa “khế ước” và “hiệp ước”2. Hiện nay các văn bản pháp luật của nước ta
khơng cịn sử dụng thuật ngữ “khế ước” hay “hiệp ước” như trước đây nữa ví dụ
ở BLDS 2005 sử dụng các thuật ngữ có tính chất “chức năng” “công cụ” như: Hợp
đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại, ...

Luận án tiến sỹ luật học (2010)- “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” – Lê
Minh Hùng (Trang 8)
2
Luận án tiến sỹ luật học (2010)- “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” – Lê
Minh Hùng (Trang 9)
1


6

Xét từ góc độ luật học ở Việt Nam thì pháp luật cũng quy định cụ thể trong
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10
thơng qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 tại Điều 385 quy
định như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, điểm mới ở đây là trong BLDS
hiện hành đã chọn cụm từ “hợp đồng” thay vì “hợp đồng dân sự” quy định trong
BLDS 2005. Và điểm mới này không chỉ là sửa đổi về kỹ thuật lập pháp mà cịn
thể hiện tính minh bạch. Đồng thời, nó phù hợp với thực tiễn áp dụng, mở rộng
phạm vi điều chỉnh: Hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp
đồng kinh doanh bảo hiểm,...3
Còn bản chất của hợp đồng từ góc độ kinh tế học theo PGS.TS Dương Anh
Sơn, PGS.TS Hoàng Vĩnh Long, Trường Đại học Kinh tế-Luật, ĐHQG TP. HCM
thì họ lại phân tích để làm sáng tỏ hai vấn đề sau: i) Tại sao pháp luật cần phải tôn

trọng và thừa nhận sự thỏa thuận của các bên; và ii) Trong những trường hợp,
hồn cảnh nào pháp luật khơng thừa nhận giá trị pháp lý của một hoặc một số
thỏa thuận nào đó và tại sao?4
Tương tự, pháp luật của các quốc gia có những cách diễn đạt khác nhau về
hợp đồng như: tại khoản 1, Điều 420 BLDS của Liên bang Nga (1994) quy định
hợp đồng là thỏa thuận, ký kết bởi hai hoặc nhiều người làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự5. Hay theo điều 110 BLDS Pháp quy
định: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam
kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không
làm một công việc nào đó”6.
Cùng liên quan đến vấn đề này thì các luật gia Hoa Kỳ cũng đưa ra một số
định nghĩa về hợp đồng như luật sư Hoa Kỳ Steven.H. Gifis định nghĩa ngắn gọn
hợp đồng (contract) là “một lời hứa có quy định biện pháp khắc phục
(remedy); hoặc thực hiện các nghĩa vụ được pháp luật công nhận; một giao dịch

3

/>4
/>n0CKtt2jY5A/edit (trang 1)
5

/>6
Bộ luật Dân sự Pháp (2005), NXB Tư Pháp, Hà Nội, (trang 667)


7

bao gồm 2 hay nhiều cá nhân có quyền đối ứng u cầu bên cịn lại thực hiện lời
hứa”7.
Mục §1-201(12) Bộ luật thương mại mẫu hay còn gọi là Bộ luật thương mại

thống nhất của Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code – UCC) định nghĩa: “Hợp
đồng, để phân biệt với “thoả thuận”, có nghĩa là tổng nghĩa vụ pháp lí mà kết quả
từ thoả thuận của các bên được quy định bởi [UCC] cũng như bổ sung bởi bất kì
luật áp dụng khác”8. Nói chung, pháp luật Hoa Kỳ nhìn nhận hợp đồng là một
thoả thuận giữa hai bên hoặc nhiều bên có thẩm quyền, dựa trên những lời hứa lẫn
nhau, để làm hoặc không làm một việc cụ thể hợp pháp và có thể thực hiện. Kết
quả thoả thuận là nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ có thể được thi hành tại tồ án5.
Như vậy, dù ở góc độ nào đi chăng nữa thì hợp đồng cũng mang một số
đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất: Yếu tố cơ bản nhất của một hợp đồng là sự thoả hiệp ý chí giữa
các chủ thể của hợp đồng đó. Yếu tố này xuất phát từ một nguyên tắc rất cơ bản
và quan trọng trong giao kết hợp đồng – đó là nguyên tắc tự do ý chí, tự do hợp
đồng9. Nhưng khơng phải mọi sự thoả thuận đều được coi là hợp đồng. Chỉ những
sự thoả thuận nào được xác lập dựa trên ý chí đích thực của các bên chủ thể và đáp
ứng đủ các điều kiện của pháp luật mới được coi là hợp đồng. Đồng thời, để đảm
bảo sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng thể hiện ý chí thực của họ thì pháp
luật của hầu hết các quốc gia đều có quy định: chủ thể tham gia giao kết hợp đồng
phải có năng lực chủ thể. Nhưng cũng cần nói thêm rằng: tự do ý chí, tự do hợp
đồng khơng mang tính tuyệt đối. Để đảm bảo trật tự xã hội và lợi ích cơng cộng,
pháp luật buộc các chủ thể khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức xã hội và
không được thoả thuận trái với các quy định của pháp luật. Và trong những trường
hợp cần thiết, khi mà lợi ích cơng cộng và trật tự xã hội có nguy cơ bị xâm hại bởi
các thoả thuận của hợp đồng cụ thể nào đó thì Nhà nước sẽ nhân danh quyền lực
cơng can thiệp vào việc kí kết và thực hiện hợp đồng. Trong những trường hợp
này, quyền tự do hợp đồng đã bị giới hạn. Tuy nhiên, sự can thiệp này cũng phải
đảm bảo tính hợp lý, có cơ sở được pháp luật quy định rõ ràng, chặt chẽ nhằm
tránh sự lạm dụng quyền lực Nhà nước để vi phạm quyền tự do hợp đồng từ phía
cơ quan cơng quyền.

7


Brown, Gordon.W., Sukys Paul. A., Business law with UCC applications (9th edition),
Glencoe, Mc GrawHill, NewYork, USA, 1993, p. 94.
8
Nguyễn Ngọc Bích, Bn bán với Mỹ, Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 2002.
9
Trường ĐH Cơng Nghệ TP.HCM (2016), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng, biên soạn
– ThS. Mai Xuân Minh


8

Thứ hai: Một yếu tố cơ bản, không thể thiếu trong bất cứ hợp đồng nào là đối
tượng của hợp đồng. Sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể hợp đồng phải nhằm
vào một đối tượng cụ thể, và ngược lại, mọi hợp đồng phải có đối tượng xác định.
Đối tượng của hợp đồng phải rõ ràng, hợp pháp (nghĩa là không bị pháp luật cấm
đưa vào các giao lưu dân sự - kinh tế - thương mại).
Thứ ba: Về chủ thể tham gia hợp đồng: Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng
phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng là một giao dịch pháp lý song phương
hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách
chủ thể, tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một
chủ thể của quan hệ dân sự.
Tóm lại, hợp đồng là hình thức pháp lý của các quan hệ trao đổi hàng hố
- tiền tệ nói chung. Về bản chất, hợp đồng là tập hợp những thoả thuận, cam kết
hình thành trên cơ sở tự do ý chí của các bên chủ thể của hợp đồng làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ nhất định. Hợp đồng có hiệu lực bắt
buộc thực hiện đối với các bên giao kết. Pháp luật tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ
mọi cam kết hợp đồng được hình thành hợp pháp.
1.1.2 Khái niệm hàng hóa:
Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm hàng hố. Có quan

điểm cho rằng: hàng hoá là tất cả những đối tượng được sản xuất ra để phục vụ
tiêu dùng hay trao đổi trên thị trường10.
Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) có đưa ra khái niệm như sau:
“Hàng hố là mọi vật (bao gồm cả những hàng hoá được sản xuất đặc biệt) mà là
động sản tại thời điểm tham gia hợp đồng mua bán, khác hơn tiền, chứng khốn
đầu tư và những quyền vơ hình. Hàng hố cũng bao gồm súc vật chưa ra đời và
cây trồng, và những vật được nhận biết khác gắn liền với bất động sản như được
mơ tả trong phần nói về hàng hoá được tách rời từ bất động sản”. Theo cách định
nghĩa này thì đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hố có phạm vi rất rộng, là tất
cả những động sản hữu hình (kể cả những động sản được hình thành trong tương
lai), chỉ loại trừ tiền, chứng khốn các loại và các quyền vơ hình.
Cũng tương tự như tinh thần của định nghĩa trên, tại Luật mua bán hàng hoá
của Anh (1893), sửa đổi năm 1973, quy định: “hàng hoá là tất cả những động sản
khác hơn các quyền vơ hình và tiền”11.
10

Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Nxb. Thống kê Hà Nội, [2001]

11

Luật mua bán hàng hóa của Anh năm 1893, sửa đổi năm 1973 (Điều 62.1)


9

Theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
(CISG) lại quy định về hàng hố với tính cách là đối tượng của hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế bằng phương pháp loại trừ. Tại Điều 2, Công ước này liệt kê
những đối tượng khơng được coi là hàng hố, cụ thể như sau: Hàng hố được mua
để dùng cho cá nhân, gia đình, trừ các trường hợp mà người bán trong bất kỳ thời

gian nào trước hoặc tại thời điểm kí kết hợp đồng khơng biết hoặc khơng buộc phải
biết rằng hàng hố được mua nhằm mục đích đó; Hàng bán đấu giá; Hàng thuộc
vụ án đang xét xử hoặc đang phải chịu sự quản lý của pháp luật; Giấy tờ chứng
khoán, cổ phiếu, giấy đảm bảo chứng từ và tiền lưu thông; Phương tiện vận tải
đường thủy, đường không cũng như phương tiện vận tải bằng khinh khí cầu; Điện
năng. Các khái niệm về hàng hố trên đây đều có phạm vi rất rộng, song nhìn
chung, "hàng hố" đều có đặc điểm chung: là động sản, hữu hình, được pháp luật
cho phép đưa vào lưu thơng (trừ tiền, chứng khốn các loại và các quyền vơ hình)12.
Cũng trên cơ sở khái niệm này, ta có thể suy luận rằng: các quyền vơ hình
(như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng
từ có giá và các loại tài sản vơ hình nói chung,…) đều khơng được coi là hàng hố,
khơng thể trở thành đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hố. Do đó, những tranh
chấp phát sinh từ các hợp đồng có đối tượng là các tài sản loại này sẽ không được
coi là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá.
Theo kinh tế chính trị Marx-Lenin: Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng
hóa cũng được định nghĩa là sản phẩm của lao động thơng qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển sách hay ở dạng vơ hình như sức
lao động. Karl Marx định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có
khả năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Vậy để đồ vật
trở thành hàng hóa cần phải có những đặc điểm sau: i) Tính ích dụng đối với người
dùng; ii) Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động; iii) Sự hạn chế để
đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm13.
Trong từ điển Việt Nam có định nghĩa: Hàng hóa là một trong những phạm
trù cơ bản của kinh tế chính trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có
hình dạng xác định trong khơng gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa
rộng, hàng hóa là tất cả những gì có thể trao đổi, mua bán được.
Còn pháp luật hiện hành Việt Nam cũng quy định trong Luật Thương mại
năm 2005 tại khoản 2 Điều 3 cụ thể là: "hàng hoá là tất cả các loại động sản, kể
Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Mai (2014): “Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế”- Khoa Luật – ĐH QG HN

13
/>12


10

cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai". Quy định
này về cơ bản tương đối hợp lý, ngắn gọn nhưng vẫn đảm bảo bao quát được phạm
vi những đối tượng có khả năng tham gia vào quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hoá. Theo đó, động sản là những tài sản khơng phải là bất động sản, còn bất động
sản là các tài sản bao gồm: đất đai, nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai,
các tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng, các tài sản khác do
pháp luật quy định14. Như vậy, theo cách hiểu của LTM 2005 quyền sử dụng đất
là đối tượng trong các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì khơng phải
là hàng hóa. Vì vậy, hàng hóa mua bán theo quy định của LTM 2005 có phạm vi
hẹp hơn tài sản có thể mua bán theo quy định của BLDS 2015.
Tóm lại, xây dựng được một khái niệm đúng đắn về “hàng hoá” là một việc
quan trọng, tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh
quan hệ hợp đồng mua bán hàng hố. Khơng phải mọi sản phẩm bất kỳ đều được
coi là hàng hoá, mà chỉ những sản phẩm thoả mãn những điều kiện nhất định mới
trở thành hàng hoá và được phép lưu thơng trên thị trường. Hàng hố là đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hoá phải hợp pháp, nghĩa là khơng thuộc danh mục
hàng hố cấm lưu thông trong nước hoặc cấm xuất, nhập khẩu tại thời điểm diễn
ra hợp đồng mua bán. Nếu hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mà không đáp ứng
đủ các u cầu của pháp luật thì hợp đồng đó sẽ bị vơ hiệu, hàng hố liên quan bị
tịch thu và tuỳ theo mức độ nghiêm trọng của vụ việc mà các chủ thể liên quan có
thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý về hình sự.

1.1.3 Khái niệm mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua
bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không quy định cụ thể về hợp đồng
mua bán hàng hoá mà chỉ quy định về hoạt động mua bán hàng hoá (Khoản 8, Điều
3), đồng thời quy định: "hoạt động này phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng"15.
Theo đó, mua bán hàng hố là hoạt động thương mại mà bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh tốn; bên mua
có nghĩa vụ nhận hàng, quyền sở hữu hàng hoá và thanh toán cho bên bán theo
thoả thuận.
Thông thường, giá trị trao đổi của hàng hoá được xác định bằng tiền. Tuy
nhiên, trong thực tiễn hoạt động thương mại có nhiều phương thức thanh tốn khác
nhau, trong đó có phương thức hàng đổi hàng hoặc thanh toán bù trừ theo thời hạn.
14
15

Điều 107, BLDS 2015
Điều 24, LTM 2005


11

Ở các phương thức này, người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán bằng
tiền mà bằng tài sản khác có giá trị tương ứng dựa trên việc định giá bằng tiền đối
với tài sản dùng để thực hiện nghĩa vụ thanh tốn đó16. Trong các trường hợp này,
mặc dù người mua hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh tốn bằng tiền, song nếu
có tranh chấp phát sinh từ các giao dịch này, thì đó vẫn được coi là tranh chấp hợp
đồng mua bán hàng hoá. Theo quan điểm từ cuốn Giáo trình mơn Luật thương mại
– Trường ĐH Cơng Nghệ TP.HCM thì: “Hợp đồng mua bán hàng hố là sự thoả
thuận của các chủ thể của quan hệ mua bán hàng hoá theo quy định của Luật
Thương mại để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá”17.
Nhưng về cơ bản, hợp đồng mua bán hàng hố có đầy đủ các đặc điểm của
hợp đồng nói chung. Do đó, nó cũng phải tuân theo các quy định chung về hợp

đồng trong BLDS năm 2015. Tuy nhiên, do hoạt động mua bán hàng hố có những
điểm đặc thù nên Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 cũng có những quy định
nhằm cụ thể hoá các quy định về hợp đồng trong BLDS Việt Nam năm 2015 để
điều chỉnh hoạt động này được hiệu quả.
1.2 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.
Ngồi những đặc điểm chung của hợp đồng ra thì để nhận biết một hợp đồng
mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại cần đáp ứng những yếu tố riêng
biệt sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động
thương mại:
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân. Ngồi ra, các tổ chức, cá nhân khơng phải là thương nhân cũng có
thể trở thành chủ thể của HĐ mua bán hàng hóa18. Theo khoản 3 Điều 1 LTM
2005, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và khơng nhằm mục
đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM 2005 khi chủ
thể này lựa chọn áp dụng LTM 2005.

Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), [2002], Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội
16

Trường ĐH Công Nghệ TP.HCM (2016), Giáo trình Luật thương mại, biên soạn – Khoa
Luật.
17

18

Căn cứ theo khoản 1, Điều 6, LTM 2005



12

Theo Bộ luật Thương mại Pháp 1807, Điều 1, quy định: “Thương nhân là
người thực hiện các hành vi thương mại và lấy đó làm nghề nghiệp thường xuyên
của họ”. Tức là để trở thành thương nhân phải đáp ứng đủ hai điều kiện: (1) Thực
hiện những hành vi thương mại; (2) thực hiện những hành vi thương mại mang
tính thường xun. Ngồi ra họ cịn thực hiện một cách độc lập, mang danh nghĩa
chính mình và vì lợi ích của mình19.
Bộ luật Cộng hịa Liên bang Đức thì có cách định nghĩa hồn tồn khác, và
có phần phức tạp hơn. Theo đó thương nhân (thương gia) gồm: Thương gia đương
nhiên và thương gia do đăng ký, thương gia do hình thức pháp lý, thương gia nhỏ
và thương gia giả tạo.
Còn theo Luật Thương mại Việt Nam hiện hàng năm 2005, quy định:
“thương nhân là những chủ thể có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên”20. Theo cách định nghĩa này, một chủ thể muốn trở
thành thương nhân phải hội tụ đủ các dấu hiệu pháp lý sau:
Một là, các chủ thể phải thực hiện các hoạt động thương mại. Hoạt động
thương mại là một tiêu chí cơ bản để xác định một chủ thể có phải là thương nhân
hay khơng.. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”21. Như vậy, phạm vi các hoạt động được coi là hoạt động thương mại và
chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại 2005 bị bó hẹp trong bốn nhóm hoạt động
là: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư và xúc tiến thương mại. Bốn nhóm
hoạt động này lại tiếp tục được cụ thể hoá bằng việc liệt kê một loạt các hoạt động
thương mại cụ thể 22.Cách quy định như vậy dường như không khác nhiều lắm so
với việc Luật Thương mại 1997 liệt kê 14 hành vi thương mại. Nhìn chung, Luật
thương mại 2005 khơng thể hiện được tính khái quát cao hơn so với Luật Thương
mại 1997 trong việc quy định về “hoạt động thương mại” để làm cơ sở cho việc
xác định tư cách pháp lý của thương nhân. Như vậy, Luật Thương mại 2005 cịn

thiếu tính khái qt khi đưa ra khái niệm về hoạt động thương mại bằng cách liệt
kê các hoạt động cụ thể mà chưa thể đưa ra những tiêu chí chung có tính khái qt
cao hơn để xác định một hoạt động cụ thể có phải là hoạt động thương mại hay

Trường ĐH Công Nghệ TP.HCM (2016), Giáo trình Luật thương mại, biên soạn – Khoa
Luật. (trang 1)
19

Điều 6, LTM 2005
Khoản 1, Điều 3, TLM 2005
22
Khoản 9, 10, 11, Điều 3, LTM 2005
20
21


13

không. Và theo Luật Thương mại 2005, chủ thể được coi là thương nhân phải tiến
hành một hoặc một số hoạt động đã được liệt kê đó. Quy định này khác với pháp
luật của nhiều nước trên thế giới. Một số nước quy định: các hành vi nhằm mục
đích sinh lợi là hành vi thương mại do bản chất, do đó, những chủ thể thực hiện
các hành vi đó là thương nhân do bản chất hành vi mà họ thực hiện. Ngược lại,
một số chủ thể được coi là thương nhân do hình thức pháp lý của chúng và những
hành vi mà các thương nhân này thực hiện được coi là hành vi thương mại do hình
thức.
Hai là, các hoạt động thương mại phải được các chủ thể thực hiện một cách
độc lập. Pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể
nào để xác định tính độc lập trong hoạt động thương mại của thương nhân. Theo
nghĩa thông thường, “hoạt động thương mại một cách độc lập” có thể hiểu là việc

một chủ thể thực hiện hoạt động đó nhân danh mình, vì lợi ích của chính mình,
khơng bị ràng buộc hay chi phối bởi ý chí của chủ thể khác. Chủ thể đó có tồn
quyền quyết định, quy định nội dung, cách thức tiến hành hoạt động, cũng như
chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả hoạt động mà mình đã thực hiện. Tính độc
lập ở đây là độc lập về mặt pháp lý. Sự phụ thuộc về kinh tế, tài chính của cá nhân
hay tổ chức khơng làm mất đi tính độc lập về mặt pháp lý của cá nhân hay tổ chức
đó. Do đó, văn phịng đại diện, chi nhánh không phải là thương nhân nhưng các
công ty con hay cơng ty liên kết trong nhóm cơng ty là thương nhân theo pháp luật
thương mại.
Ba là, các hoạt động thương mại phải được các chủ thể tiến hành một cách
thường xun. Luật thương mại khơng đưa ra tiêu chí cụ thể nào để xác định tính
chất thường xuyên của các hoạt động thương mại của thương nhân. Song, hiểu một
cách chung nhất, “các hoạt động thương mại được tiến hành thường xuyên” là
những hoạt động được tiến hành trên thực tế, có kế hoạch tương đối lâu dài, liên
tục, lặp đi lặp lại và các chủ thể tiến hành hoạt động đó tự coi đó là nghề nghiệp
của bản thân và tạo ra nguồn thu nhập chính, thường xuyên của họ. Yêu cầu về
tính chất thường xuyên của hoạt động thương mại của thương nhân cũng được thể
hiện gián tiếp trong các quy định của pháp luật. Ví dụ: doanh nghiệp có thể bị thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (mất tư cách thương nhân) khi không tiến
hành các hoạt động kinh doanh trong thời hạn một năm kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên
tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh…
Bốn là, muốn trở thành thương nhân và hưởng các quy chế pháp lý dành riêng
cho thương nhân, các chủ thể phải được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.Theo pháp luật thương mại Việt Nam, đăng ký kinh doanh là một thủ tục


14

pháp lý bắt buộc để thiết lập nên tư cách pháp lý của thương nhân, là cơ sở pháp

lý cho các hoạt động thương mại của thương nhân. “Thương nhân có nghĩa vụ
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật”23. Đồng thời, đăng ký kinh doanh
cũng là một cơng cụ để cơ quan có thẩm quyền thơng qua đó thực hiện quản lý
Nhà nước đối với các hoạt động thương mại của thương nhân. Mục đích chính của
thủ tục này là thống kê các thơng tin có ý nghĩa pháp lý liên quan đến hoạt động
của thương nhân (như tên thương nhân, tên người có thẩm quyền đại diện cho
thương nhân, địa chỉ hoặc trụ sở giao dịch chính, ngành nghề kinh doanh, thời gian
hoạt động, mức vốn điều lệ, hoặc vốn đầu tư…), cơng khai hố chúng và trên cơ
sở đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời đảm bảo
sự ổn định và lành mạnh của môi trường kinh doanh.
Năm là, các chủ thể có khả năng trở thành thương nhân theo pháp luật Việt
Nam cần đáp ứng đủ bốn điều kiện nêu trên, đồng thời phải tồn tại dưới dạng: cá
nhân hoặc tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp24. Khái niệm này đồng nghĩa
với việc LTM 2005 đã mở rộng đối tượng áp dụng hơn nhiều so với luật cũ.
Về việc phân loại thương nhân dựa vào một số căn cứ dưới đây:
(1) Căn cứ vào tư cách pháp lý:
(i) Thương nhân có tư cách pháp nhân gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách
nhiệm hữu hạn các loại, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp nhà nước (chưa chuyển
đổi hình thức pháp lý theo Luật Doanh nghiệp), Hợp tác xã, liên hợp hợp tác xã,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Việt Nam (khơng chuyển đổi hình thức
pháp lý theo Luật Doanh nghiệp).
(ii) Thương nhân khơng có tư cách pháp nhân gồm: Doanh nghiệp tư nhân, Hộ
kinh doanh
(2) Căn cứ vào hình thức tổ chức hoạt động:
(i) Thương nhân là doanh nghiệp các loại.
(ii) Thương nhân là cá nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh.
(iii) Thương nhân là hợp tác xã, liên hiệp hợp tã xã
(3) Căn cứ vào chế độ trách nhiệm:
(i) Thương nhân chịu trách nhiệm hữu hạn gồm: Công ty TNHH các loại, Công
ty cổ phần, Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã


23
24

Điều 7, LTM 2005
khoản 1, Điều 6, Luật Thương mại 2005


15

(ii) Thương nhân chịu trách nhiệm vô hạn: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp
danh, Hộ kinh doanh 25.
Như vậy ta có thể thấy, các quy định về chủ thể có thể trở thành thương nhân
theo LTM 2005 đã thể hiện được tính khái quát cao hơn so với LTM 1997. Theo
LTM 1997, thương nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình. Với
cách quy định thiếu tính khái quát này, các thương nhân là doanh nghiệp tư nhân
hay công ty hợp danh sẽ không thuộc loại nào trong bốn loại hình thương nhân đã
được liệt kê. LTM 2005 đã khắc phục được điều này: quy định về các chủ thể có
khả năng trở thành thương nhân trong LTM 2005 đã bao quát được các dạng chủ
thể tồn tại trong nền kinh tế hiện nay, đồng thời có khả năng đón trước những chủ
thể kinh doanh sẽ xuất hiện trong nền kinh tế.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động
thương mại:
Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa (được phân tích rất rõ
ở mục 1.1.2). So với quy định của LTM 1997 thì đối tượng của hợp đồng đã được
mở rộng hơn. Liên quan đến việc quy định hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa, pháp luật của các quốc gia cũng như các điều ước có các quy
định khác nhau phù hợp với pháp luật và tập quán của mỗi nước. Điển hình, theo
pháp luật Hoa Kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển được (quyền sở
hữu) vào thời gian xác định theo hợp đồng mua bán. Hay theo luật thương mại của

đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế như Hiệp định GATT, Hiệp định
thành lập khối thị trường chung châu Âu…; hàng hóa – đối tượng của mua bán
thương mại gồm những tài sản có hai thuộc tính cơ bản là: có thể đưa vào lưu thơng
và có tính chất thương mại. Như vậy, tất cả các quy định đều có xu hướng mở rộng
đối tượng là hàng hóa được phép lưu thơng trong thương mại26
Thứ ba, hình thức thể hiện của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động
thương mại:
Pháp luật các nước trên thế giới quy định không giống nhau về hình thức của
hợp đồng. Luật của các nước theo hệ thống Thông luật (Anh, Mỹ, Úc) và Công
Slide tập bài giảng Luật thương mại của TS.Nguyễn Thành Đức – Trưởng khoa Luật
Đại học Công Nghệ TP.HCM. Tài liệu tham khảo
25

Luận văn thạc sỹ Nguyễn Thị Tuyết Giang (2008): “Pháp luật áp dụng trong các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế” – Khoa Luật – ĐH QG HN (trang 13)
26


16

ước Viên 1980 đều khơng quy định hình thức bắt buộc nào mà hợp đồng phải tuân
thủ, cụ thể Công ước Viên 1980 quy định: “Không yêu cầu hợp đồng mua bán
phải được ký hoặc phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ mọi yêu
cầu nào đó về mặt hình thức. Có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai
nhân chứng để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng đó”27. Hay việc khơng coi
trọng hình thức hợp đồng cũng được thể hiện rõ trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT
về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 và Bộ nguyên tắc về hợp đồng châu
Âu. Theo hai bộ nguyên tắc về hợp đồng này, các bên có thể chứng minh quan hệ
hợp đồng bằng bất kỳ hình thức nào. Theo đó, điều 1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT
quy định: “Bộ nguyên tắc UNIDROIT không bắt buộc hợp đồng, tuyên bố hay bất

kỳ một hành vi nào khác phải được giao kết hay chứng minh bằng một hình thức
đặc biệt. Chúng có thể được chứng minh bằng bất kỳ cách thức nào, kể cả bằng
nhân chứng”28. Nguyên tắc này được công nhận trong bộ luật dân sự nhiều nước
trên thế giới và nó phù hợp với điều kiện giao dịch thương mại quốc tế.
Song trên thực tế, để được Toà án bảo vệ quyền lợi của mình, các chủ thể
thường lựa chọn hình thức văn bản cho hợp đồng của họ. Lý do là vì hình thức này
thường có giá trị làm chứng cứ cao hơn các hình thức khác trong trường hợp có
tranh chấp xảy ra.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Điều 24 LTM 2005 quy định: “Hợp
đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác
lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp
luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Như vậy, về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa có thể thiết lập theo cách thức
mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa với nhau. Pháp
luật cho phép các bên tự do thỏa thuận và xác lập bằng các hình thức khác nhau
sao cho khơng trái pháp luật. So với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì đây
là một sự tiến bộ, theo hướng có lợi hơn cho các chủ thể tham gia hợp đồng, bởi
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 quy định chỉ được thực hiện bằng hình thức duy
nhất là văn bản.
Hình thức văn bản của hợp đồng là một hình thức có tính truyền thống, được
hiểu là một văn bản (thường là trên giấy) có chứa các điều khoản mà các bên đã
thoả thuận và chữ ký xác nhận của các bên. Ngày nay, cịn có các hình thức khác
tương đương văn bản về mặt giá trị pháp lý. Pháp luật Việt Nam liệt kê các hình
27

Điều 11, Cơng ước viên 1980

28

Bộ ngun tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004



17

thức (của hợp đồng) có giá trị (pháp lý) tương đương văn bản gồm: điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định29. Như vậy những quy
định này của LTM 2005 là hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế về mua bán
hàng hóa, nó đã tạo điều kiện thuận lợi kích thích các chủ thể trong nước tích cực
tham gia quan hệ hợp đồng thương mại với nhau và thu hút được nhiều đối tác
nước ngoài vào Việt Nam, để ngày càng phát triển môi trường kinh doanh trong
nước.
1.3 Phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương
mại theo LTM 2005 và hợp đồng mua bán tài sản theo bộ luật dân sự 2015.
Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại cũng
có những đặc điểm chung giống với HĐ mua bán tài sản trong dân sự như:
Một là, hợp đồng ưng thuận: tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các
bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của HĐ khơng
phụ thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi
là hành động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của HĐ mua bán đã có hiệu
lực.
Hai là, Có tính đền bù: bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên
mua thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa
thuận dưới dạng khoản tiền thanh toán.
Ba là, hợp đồng song vụ: mỗi bên trong HĐ mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền địi hỏi bên
kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong HĐ mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa
vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên
bán phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán
cho bên bán.
Thứ hai, Điểm khác nhau lớn nhất giữa hai loại hợp đồng này đó là: dựa

vào bảng so sánh phân tích sau:
Bảng so sánh giữa HĐ MBHH LTM 2005 và HĐ MBTS BLDS 2015.
Tiêu chí

29

HĐMBHH LTM 2005

khoản 15, Điều 3, LTM 2005

HĐMBTS BLDS 2015


18

Đối tượng

Theo quy định tại khoản 2 Theo quy định tại điều 431 BLDS
điều 3 Luật thương mại 2015 thì đối tượng của hợp đồng
2005 thì
mua bán là tài sản được phép giao
dịch trong đó tài sản bao gồm vật,
Hàng hố bao gồm :
tiền, giấy tờ có giá và các quyền
- Tất cả các loại động sản, kể tài sản ( theo quy định tại điều 105
cả động sản hình thành trong BLDS 2015 ). Đối tượng của hợp
tương lai.
đồng mua bán tài sản rộng hơn ở
- Những vật gắn liền với đất hợp đồng mua bán hàng hóa.
đai.


Chủ thể

Chủ thể trong quan hệ mua
bán hàng hóa chủ yếu là
thương nhân. Theo quy định
tại khoản 1 điều 6 Luật thương
mại 2005 thì : " Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xun và
có đăng ký kinh doanh".
Ngồi thương nhân, chủ thể
trong hợp đồng mua bán hàng
hóa có thể là không phải
thương nhân và hoạt động
không nhằm mục đích lợi
nhuận.

Chủ thể trong hợp đồng mua bán
tài sản rộng hơn chủ thể trong hợp
đồng mua bán hàng hóa khi mọi tổ
chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có
nhu cầu mua bán tài sản đều có thể
là chủ thể của hợp đồng mua bán
tài sản.

Mục đích


Chủ yếu là để kinh doanh thu
lợi nhuận cho các thương
nhân. Chỉ phần nào đó phục
vụ mục đích tiêu dùng và các
mục đích khác cho cả thương
nhân và những chủ thể không
phải thương nhân tuỳ theo
mong muốn và nhu cầu của họ
trong từng thời điểm.

Có thể nhằm nhiều mục đích khác
nhau như : kinh doanh, tiêu dùng,
tặng, cho, làm từ thiện hoặc do sở
thích,...


×