Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN DO CÔNG TY TNHH KPMG VIỆT NAM ĐANG THỰC HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.69 KB, 63 trang )

QUI TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN
CHU TRÌNH BÁN HÀNG – THU TIỀN DO CÔNG TY TNHH KPMG
VIỆT NAM ĐANG THỰC HIỆN
2.1. Tổng quan về Công ty TNHH KPMG Việt Nam với qui trình đánh giá trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
2.1.1. Lịch sử phát triển của Công ty với qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong
kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
Công ty TNHH KPMG là một trong những “đại gia” đầy tên tuổi được biết đến
trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ như kiểm toán, tư vấn thuế, tư vấn tài chính, các
thành viên của Công ty ở khắp nơi trên thế giới đã cung cấp các dịch vụ với chất lượng
cao cho các tổ chức không chỉ trong nước, khu vực mà cả các tổ chức đa quốc gia.
Nguyên tắc hàng đầu của Công ty là đóng góp vào sự lành mạnh của thị trường tài chính
bằng việc cung cấp các báo cáo tài chính minh bạch, chính xác.
Là một tập đoàn của Thụy Sĩ, KPMG được hợp thành bởi các thành viên độc lập
của Công ty ở khắp các nơi trên thế giới. Lịch sử phát triển của Công ty đã trải qua gần
3 thế kỉ. KPMG được hình thành đầu tiên vào năm 1987 bởi sự sáp nhập của Peat
Marwick International và Klynveld Main Goerdeler, tên gọi của Công ty “KPMG” là
được hình thành bởi sự ghép tên của bốn thành viên sáng lập : Klynveld (Netherland),
Peat (USA), Marwick (UK), Goerdeler (Deutsch). Hiện nay, KPMG đang là một trong
bốn công ty dẫn đầu về cung cấp các dịch vụ bảo đảm và tư vấn tài chính trên thế giới.
KPMG có khoảng 760 văn phòng đại diện với hơn 123 000 nhân viên tại 145 quốc
gia trên khắp thế giới. Tại Việt Nam, KPMG đã mở văn phòng đại diện vào năm 1992
khi mà nước ta bắt đầu mở rộng cánh cửa đón nhận sự đầu tư của các doanh nghiệp
nước ngoài và đến ngày 17 tháng 5 năm 1994, Công ty TNHH KPMG Việt Nam đã
chính thức ra đời và đi vào hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài theo Giấy phép đầu tư số 863/CP do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp. Trong khoảng thời
gian từ năm 1994 đến tháng 7 năm 2007, Công ty đặt trụ sở tại tầng 16 toà nhà
Vietcombank, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Hiện nay, trụ sở của Công ty đã được
chuyển về tầng 16 toà nhà Pacific, 83B Lý Thường Kiệt. Đồng thời, Công ty cũng mở
văn phòng đại diện tại tầng 10, toà nhà Sun Wah, 115 Nguyễn Huệ, Quận 1 thành phố
Hồ Chí Minh.


Với bề dày lịch sử phát triển trong việc cung cấp dịch vụ cho các khách hàng trên
thị trường quốc tế và cũng là một trong những công ty đi tiên phong trong làng kiểm toán
Việt Nam, KPMG luôn tự hào với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, không ngừng
trau dồi học hỏi, chính vì vậy mà qui trình kiểm toán được Công ty xây dựng khá chặt
chẽ, đặc biệt là bước công việc khởi đầu cho cuộc kiểm toán: đánh giá trọng yếu, rủi ro
cũng được lên kế hoạch và thực hiện khá tốt, việc áp dụng trọng yếu luôn được các KTV
theo sát trong cuộc kiểm toán nhất là với kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền, một chu
trình quan trọng trong cuộc kiểm toán đối với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động vì mục
đích lợi nhuận nào. Gắn liền với lịch sử phát triển của Công ty, qui trình đánh giá trọng
yếu, rủi ro cũng từng bước được hoàn thiện.
Để thực hiện kiểm toán, Công ty không chỉ có phương pháp kiểm toán được xây
dựng kỹ lưỡng, cẩn thận cho qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro mà trong thực tế kiểm
toán, việc đánh giá luôn được thực hiện bởi những KTV cao cấp, giàu kinh nghiệm
trong suốt quá trình kiểm toán để đảm bảo sự phán xét của KTV về mặt định tính và
mức trọng yếu, rủi ro được đưa ra tương đối chính xác, đảm bảo độ tin cậy cao. Kinh
nghiệm lâu năm cùng với kiến thức sâu rộng đã tạo nên danh tiếng của Công ty trong
làng kiểm toán, không phải dễ dàng mà Công ty TNHH KPMG đã trở thành một trong
bốn công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới.
Xứng đáng với những nỗ lực của công ty trong suốt thời gian qua, năm 2003
KPMG đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính tặng bằng khen ghi nhận những đóng góp của
công ty vào ngành kiểm toán, kế toán và tài chính Việt Nam và được nhận Cúp Vàng
“Vì sự phát triển của cộng đồng”năm 2004. Cùng với đó, trong 4 năm liên tiếp 2003-
2006, Công ty còn được Thời báo kinh tế Việt Nam trao tặng giải thưởng Rồng Vàng
cho nhà cung cấp dịch vụ tài chính tốt nhất, cho đến năm 2006 KPMG là công ty kiểm
toán quốc tế duy nhất nhận được giải thưởng này. Và mới đây vào tháng 1 năm 2008,
một lần nữa KPMG lại được nhận giải thưởng danh giá này.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty với qui trình đánh giá trọng yếu,
rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền
Không chỉ đóng góp quan trọng cho hiệu quả của khu vực mang lại lợi nhuận cho
nền kinh tế, KPMG còn quan tâm đến và đã xâm nhập vào khu vực phi lợi nhuận,

KPMG đã cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ lộ trình phát triển ở Việt Nam.
Các dịch vụ của KPMG Việt Nam cung cấp bao gồm:
Thứ nhất: Dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính
Với 50 năm kinh nghiệm với tư cách là một trong những công ty cung cấp dịch vụ
kiểm toán hàng đầu thế giới, KPMG đã cung cấp các dịch vụ kiểm toán tài chính cho
các doanh nghiệp sản xuất, các ngân hàng. Công ty có các khách hàng là các doanh
nghiệp, tập đoàn trong nước và nước ngoài hàng đầu tại Việt Nam như Công ty cổ phần
phát triển đầu tư công nghệ FPT, Honda Vietnam, Toyota… cùng các ngân hàng nước
ngoài hàng đầu như ngân hàng Thượng Hải Hồng Kông-HSBC, City Bank, Mitsubisi,
ANZ…. . Trong nhiều năm, KPMG đã phát triển một phương pháp luận kiểm toán
được công nhận rộng rãi theo phương thức tiếp cận dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro nhằm
xác định các qui trình và rủi ro có liên quan tới các dự án phát triển hay dự án phi lợi
nhuận. Đồng thời, Công ty cũng đưa ra các kiến nghị để hỗ trợ khách hàng nhằm cải
thiện hệ thống tài chính, nâng cao hiệu quả của việc trình bày các thông tin tài chính và
tuân thủ các yêu cầu của nhà tài trợ.
Dịch vụ kiểm toán là dịch vụ mang lại phần lớn doanh thu cho Công ty, trong đó
đối tượng khách hàng chính là các doanh nghiệp sản xuất. Nhờ kinh nghiệm lâu năm có
được trong lĩnh vực kiểm toán cùng với sự trợ giúp của rất nhiều chuyên gia, quy trình
đánh giá trọng yếu, rủi ro của Công ty được thực hiện với trình tự rõ ràng nên khi áp
dụng trong chu trình bán hàng – thu tiền đã phát huy được hiệu quả, hỗ trợ cho kiểm
toán viên thực hiện công việc thuận lợi hơn.
Thứ hai: Dịch vụ kiểm toán nội bộ
Dịch vụ này giúp các tổ chức quản lý rủi ro chiến lược và xác định các thông lệ
hàng đầu, giảm chi phí và tăng thêm cơ hội thông qua việc cung cấp hay bổ sung chức
năng kiểm toán nội bộ cho tổ chức. Kiểm toán nội bộ đang ngày càng chiếm một vị trí
quan trọng trong các tổ chức liên quan tới phát triển nhằm chứng minh cho các nhà quản
lý và các bên có lợi ích liên quan biết rằng: các rủi ro đang được kiểm soát hiệu quả, các
cơ hội đã được nhận biết và các tổn thất và gian lận tiềm tàng được ngăn ngừa chứ không
phải chỉ phát hiện ra sau khi đã xảy ra tổn thất hay gian lận.
Thứ ba: Dịch vụ tư vấn tài chính

Các dịch vụ tư vấn của Công ty bao gồm tư vấn cổ phần hóa, sáp nhập và giải thể
doanh nghiệp, tư vấn tái cơ cấu, tư vấn pháp lý và tư vấn quản lý tài chính chiến lược nhằm
giúp cho các nhà đầu tư giải quyết các khó khăn trong kinh doanh tại Việt Nam. Mục tiêu
của KPMG trong lĩnh vực này là cùng hợp tác với các nhà đầu tư nhằm cải thiện hiệu quả
kinh doanh của họ bằng cách dựa trên những kinh nghiệm, am hiểu về lĩnh vực tài chính để
đưa ra những kiến nghị đổi mới hoặc hoàn thiện, phát triển các qui trình và tài liệu đào tạo
chuyên môn hoá nâng cao năng lực hoạt động và năng lực quản lý của các nhân viên, phù
hợp với chuẩn mực chung trên thế giới, đề ra các giải pháp thực tế cho vấn đề kinh doanh
và kiểm soát.
Thứ tư: Dịch vụ tư vấn thuế và luật pháp
Dịch vụ này bao gồm tư vấn thuế hợp nhất quốc tế, tư vấn thuế doanh nghiệp và
tư vấn thuế cá nhân. Quản lý thuế và đảm bảo tuân thủ pháp luật là vấn đề cốt lõi ảnh
hưởng tới hoạt động tài chính của các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam.
KPMG cung cấp các giải pháp hiệu quả về thuế để đảm bảo rằng các khoản thuế mà
doanh nghiệp phải nộp là hợp lý. Đồng thời, KPMG còn tư vấn cho các nhà đầu tư tại
Việt Nam tổ chức thực hiện tuân thủ theo đúng qui định của pháp luật bao gồm lập kế
hoạch thuế thu nhập doanh nghiệp, tư vấn và lập kế hoạch thuế giá trị gia tăng, tư vấn
mục đích đầu tư.
Các dịch vụ kiểm toán nội bộ, tư vấn tài chính, tư vấn thuế và pháp luật đã hỗ trợ cho
dịch vụ kiểm toán khá nhiều trong việc hoàn thiện qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro.
Với dịch vụ kiểm toán nội bộ, Công ty am hiểu về hệ thống KSNB, đánh giá được thế
nào là một hệ thống kiểm soát có hiệu quả, với hệ thống KSNB hiện tại thì có điểm
mạnh, điểm yếu gì, rủi ro nào có thể xảy ra và giải pháp để khắc phục. Nhờ những
kiến thức và kinh nghiệm có được nên khâu tìm hiểu hệ thống KSNB của khách hàng và
đánh giá rủi ro kiểm soát được thực hiện khá tốt. Các dịch vụ tư vấn yêu cầu Công ty phải
luôn cập nhật theo dõi sự thay đổi của các vấn đề về luật pháp, môi trường hoạt động kinh
doanh, điều kiện kinh tế xã hội… , điều này cũng hỗ trợ KTV rất nhiều trong quá trình
kiểm toán.
Trong suốt những năm qua, để chất lượng các hoạt động cung cấp cho khách hàng
ngày càng tốt hơn, KPMG luôn đề cao phương châm hoạt động, coi đây là nền tảng,

kim chỉ nam dẫn đường cho quá trình hoạt động của mình. Những phương châm này
bao gồm:
Thứ nhất là, hoạt động đa dạng trong việc cung cấp các dịch vụ, KPMG tha
thiết được hợp tác với khách hàng để tạo ra những giá trị kinh tế đặc biệt
Với kinh nghiệm của một tổ chức quốc tế, Công ty có thể nhìn thấy trước những
khó khăn thách thức mà khách hàng có thể gặp phải cũng như các cơ hội họ có thể được
tiếp nhận. Với chiến lược hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực, Công ty có thể cung
cấp dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau bao gồm cả các tập đoàn đa
quốc gia luôn có những đòi hỏi rất khắt khe. Để đáp ứng được điều đó, Công ty luôn
đòi hỏi nhân viên có trình độ cao trong khâu tuyển dụng, đồng thời cũng không ngừng
tạo điều kiện để nhân viên được tham gia các lớp đào tạo, các kì học đạt được chứng
chỉ hành nghề quốc tế như ACCA, CIA.
Thứ hai là, luôn là nhà tuyển dụng sáng suốt
Công ty luôn tin rằng sự phát triển là bền vững khi nó phải được xây dựng dựa
trên nền tảng chất lượng và những cam kết để thu hút nhân tài. Thách thức lớn nhất với
Công ty là tạo ra một môi trường làm việc hấp dẫn, ở đó qui tụ những nhân viên giỏi
cùng với khách hàng đặt niềm tin vào Công ty để tạo ra sự hợp tác hai bên cùng có lợi,
thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Mục tiêu của Công ty là trở thành 1 trong 3 công ty cung cấp dịch vụ hàng đầu
trên những thị thường chính của công ty vào năm 2010. Để đạt được điều đó, Công ty
luôn cố gắng đào tạo, thăng tiến những người có khả năng lãnh đạo tốt, tạo ra các cơ
hội, phần thưởng xứng đáng cho những người có công, thu hút nhân tài và mở rộng
cộng đồng KPMG, củng cố danh tiếng về sự chuyên nghiệp của Công ty.
Thứ ba là, không ngừng trang bị những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để
phục vụ khách hàng tốt nhất
Nếu có được sự hiểu biết bao quát về ngành nghề lĩnh vực hoạt động của khách
hàng thì Công ty sẽ chủ động hơn, có vị trí vững chắc trong việc góp phần gia tăng giá
trị cho khách hàng, giúp cho khách hàng thấy được viễn cảnh của những vấn đề họ
đang phải đối mặt. Việc thực hiện phương châm này trong thực tế yêu cầu nhân viên
Công ty phải xây dựng được những mối quan hệ lành mạnh, độc lập với khách hàng và

thực sự tìm hiểu để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng.
Thứ tư là, thống nhất phương châm và chiến lược hoạt động của KPMG trên
toàn thế giới
Điều này giữ một vị trí hết sức quan trọng, bởi muốn xây dựng một hình ảnh
KPMG đẹp thì cần phải đẹp ở tất cả mọi nơi. Khi đã có được sự thống nhất trong phong
cách làm việc, cách thức làm việc trong toàn bộ mạng lưới KPMG thì khách hàng quyết
định cộng tác với KPMG dù là ở đâu họ cũng biết những gì nên mong đợi và những gì sẽ
đạt được từ sự cộng tác đó. Điều đó giúp cho Công ty dễ dàng xây dựng và duy trì các
mối quan hệ với khách hàng.
Chính bởi phương châm đã được đặt ra rất rõ ràng, thống nhất và được từng nhân
viên nắm rõ nên khách hàng có thể tin tưởng vào qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro của
Công ty. Qui trình này có một nền tảng tốt: thứ nhất là, có phương pháp hướng dẫn thống
nhất trong cả mạng lưới KPMG được xây dựng bởi chuyên gia giàu kinh nghiệm;
thứ hai là, được thực hiện bởi các KTV cao cấp, am hiểu kiến thức chuyên ngành và
cả các kiến thức trong lĩnh vực hoạt động của khách hàng; thứ ba là, qui trình này được các
KTV tuân theo chặt chẽ, lấy đó làm cơ sở trong suốt quá trình kiểm toán nói chung và với
kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền nói riêng.
Với phương châm hoạt động như trên, Công ty cam kết cho khách hàng các dịch
vụ công khai, minh bạch, khách quan với chất lượng cao. Đây chính là những yếu tố
quyết định sống còn tới hoạt động của khách hàng khi mà BCTC được công bố rộng rãi
cho tất cả các đối tượng quan tâm. KPMG xây dựng văn hóa của mình dựa trên khả năng
lãnh đạo, quản lý công việc, khả năng làm việc nhóm và sự công khai trong làm việc.
Chính bởi những cam kết đã đưa ra với khách hàng mà Công ty luôn chú trọng đến
qui trình công việc của mình, luôn cố gắng hoàn thiện các bước công việc để đảm bảo
cuộc kiểm toán đạt chất lượng tốt nhất. Với qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro, tầm quan
trọng của nó đương nhiên các nhà quản lý và mọi KTV đều nhận thấy nên để góp phần
cho việc đảm bảo thực hiện được cam kết với khách hàng, từng khâu công việc đều được
xem xét, lập kế hoạch và thực hiện rất cẩn thận. Để đưa ra được những thông tin minh
bạch, chính xác các KTV luôn tìm hiểu về bản chất nghiệp vụ của khách hàng rất kỹ
lưỡng, đặc biệt với chu trình bán hàng – thu tiền. Đây là chu trình mà các nghiệp vụ

tương đối phức tạp lại dễ xảy ra các gian lận, sai sót nên việc đánh giá rủi ro sai phạm
trọng yếu có thể xảy ra với doanh thu và khoản phải thu luôn được thực hiện bởi KTV
nhiều kinh nghiệm. Trước khi chấp nhận khách hàng, việc tìm hiểu rủi ro của khách
hàng và do đó là rủi ro mà KTV phải đối mặt luôn được quan tâm. Trong quá trình thực
hiện kiểm toán, KTV luôn cởi mở đưa ra cho khách hàng những tư vấn hữu ích, giúp
cho khách hàng hạch toán chính xác, KTV tìm hiểu bản chất của nghiệp vụ để phục vụ
cho kiểm toán đồng thời giải thích cho kế toán của khách hàng cách thức hạch toán
chính xác.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý, nhân sự của Công ty với qui trình giá trọng yếu,
rủi ro trong kiểm toán
Nhân sự trong bất kỳ doanh nghiệp hay tổ chức nào bao giờ cũng là vấn đề quan
tâm hàng đầu khi quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức đó. Đây là nhân tố quan
trọng quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Tổng số nhân viên của KPMG tại
văn phòng Hà Nội có khoảng 210 người, tùy theo từng cấp độ, nhân sự của Công ty
được xếp theo thứ bậc khác nhau.
Thực hiện điều hành Công ty là Ban giám đốc gồm những chuyên gia dày dạn
kinh nghiệm, am hiểu thị trường Việt Nam đến từ nhiều nước trên thế giới như Anh,
Malaysia, Canada, Philipin. Trong đó người đứng đầu là Tổng giám đốc. Chức năng cụ
thể của Ban giám đốc được qui định như sau:
Thứ nhất: Tổng giám đốc là người điều hành và quản lý cao nhất mọi hoạt động
của Công ty tại Việt Nam, điều hành trực tiếp công việc tại văn phòng ở thành phố Hồ
Chí Minh và điều hành gián tiếp hoạt động của văn phòng tại Hà Nội thông qua Phó Tổng
giám đốc. Tổng giám đốc phụ trách việc xây dựng và ra các quyết định cuối cùng cho
chiến lược kinh doanh dài hạn, ngắn hạn cũng như việc đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ trong toàn Công ty. Tổng giám đốc cũng là người thông qua các quyết định về nhân
sự như thăng chức bất thường, yêu cầu việc sử dụng nhân sự hợp lý. Trong Công ty, phần
lớn các giao dịch giữa các thành viên đều được thực hiện thông qua thư điện tử bằng
mạng nội bộ của Công ty nên việc quản lý điều hành khá thuận tiện.
Thứ hai: Phó Tổng giám đốc là người chịu trách nhiệm và điều hành trực tiếp các
hoạt động tại văn phòng Hà Nội. Phó Tổng giám đốc tham gia vào việc xây dựng chiến

lược kinh doanh chung của toàn Công ty, triển khai thực hiện chiến lược đó và báo cáo
tình hình hoạt động của văn phòng Hà Nội lên Tổng giám đốc. Thêm vào đó, Phó Tổng
giám đốc cũng trực tiếp phụ trách một số hợp đồng kiểm toán, xem xét lại giấy tờ làm
việc của đội kiểm toán để ra quyết định về báo cáo kiểm toán.
Thứ ba: Thành viên Ban Giám đốc đồng thời là các thành viên tham gia góp vốn
sáng lập Công ty (partner - chủ phần hùn) .
Về chuyên môn, họ là người trực tiếp kí các hợp đồng kiểm toán với khách hàng,
tiến hành đánh giá rủi ro kiểm toán và thực hiện rà soát cuối cùng đối với mọi hồ sơ
kiểm toán. Thành viên Ban giám đốc cũng là người đại điện của Công ty trong việc ký
và phát hành Báo cáo kiểm toán và thư quản lý cho khách hàng.
Dưới Ban giám đốc có các nhà quản lý cao cấp (senior manager) là người trực tiếp
chịu trách chịu về các hợp đồng được kí kết với khách hàng, cùng một lúc có thể
đảm nhiệm nhiều hợp đồng . Các nhà quản lý thực hiện lập kế hoạch về thời gian các
bước công việc thực hiện, lựa chọn nhân sự phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng,
hướng dẫn cho các nhân viên nếu có phát sinh trong khi thực hiện công việc và xem xét
lại công việc, giấy tờ làm việc (GTLV) của nhân viên trước khi chuyển lên cho chủ
phần hùn rà soát lần cuối. Các nhà quản lý cấp cao đều có chứng chỉ hành nghề theo
lĩnh vực của mình.
Đối với dịch vụ kiểm toán, trong mỗi đội kiểm toán sẽ có kiểm toán viên cao
cấp làm trưởng nhóm kiểm toán (senior in-charge). Trưởng nhóm kiểm toán là nguời
cùng quản lý cấp cao trực tiếp điều hành việc thực hiện hợp đồng kiểm toán, thực
hiện tiếp xúc với khách hàng, trình bày những tài liệu chính cần thiết yêu cầu khách
hàng cung cấp phục vụ cho việc kiểm toán, phân chia công việc cho các thành viên
trong đội kiểm toán và lựa chọn KTV giỏi để đảm nhiệm những chu trình quan trọng
như kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền.
Trong kiểm toán tài chính, việc đánh giá trọng yếu, rủi ro giữ vai trò hết sức quan
trọng, công việc này được thực hiện bởi nhà quản lý cấp cao và trưởng nhóm kiểm toán.
Trên cơ sở những tìm hiểu, đánh giá về hoạt động khách hàng, hệ thống KSNB của
khách hàng, hai người cùng đánh giá mức rủi ro kiểm toán có thể gặp phải từ đó xác
định phương thức tiếp cận kiểm toán. Cùng với đó, mức trọng yếu cho từng mục đích

cụ thể cũng được xác lập. Đội ngũ nhân viên quản lý cấp cao và các trưởng nhóm kiểm
toán của KPMG đều có kinh nghiệm lâu năm, am hiểu khách hàng, kiến thức chuyên
môn nắm chắc, phần lớn đều có chứng chỉ hành nghề quốc tế ACCA nên qui trình này
được thực hiện khá cẩn trọng và đảm bảo cho chất lượng cuộc kiểm toán.
Bên dưới là các nhân viên được sắp xếp theo các cấp độ khác nhau, đối với bộ phận
kiểm toán thường là các trợ lý kiểm toán, ở độ tuổi còn trẻ, tâm huyết với nghề. Các nhân
viên của Công ty đều được tạo điều kiện để tham gia đào tạo khóa học sâu hơn về
chuyên ngành. Đối với kiểm toán, thường sau 1 năm làm nhân viên chính thức sẽ
được Công ty tạo điều kiện cho đi học lấy chứng chỉ ACCA, chính vì vậy, đội ngũ
nhân viên của Công ty có trình độ tương đối cao.
2.1.4. Hệ thống quản lý chất lượng tại Công ty kiểm toán KPMG Việt Nam
Công việc kiểm soát chất lượng là công việc không thể thiếu trong bất kỳ công ty
nào, kiểm soát chất lượng bao gồm chất lượng hoạt động của cả Công ty nói chung và
chất lượng của dịch vụ kiểm toán mà Công ty cung cấp nói riêng. Đối với kiểm toán
BCTC, hệ thống KSCL của KPMG được thiết kế để cung cấp sự đảm bảo rằng các đơn
vị thành viên trong mạng lưới KPMG và từng nhân viên của Công ty tuân thủ theo đúng
các chuẩn mực hành nghề, các qui định thích hợp, qui tắc pháp lý và các báo cáo được
phát hành phải phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Theo đó, hệ thống KSCL bao gồm
các chính sách được thiết kế nhằm đạt được mục tiêu trên và các thủ tục nhằm giám sát
việc thực hiện tuân theo đúng các chính sách đã đề ra.
Hệ thống kiểm soát chất lượng tại KPMG được xây dựng dựa trên Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 220 ban hành trong Quyết định số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14
tháng 3 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Hệ thống này được xây dựng cho hoạt
động chung của toàn Công ty và cho chất lượng của cuộc kiểm toán nói riêng. Nội dung
chính của các thủ tục và chính sách này bao gồm: trách nhiệm của nhà lãnh đạo đối với
việc kiểm soát chất lượng của đơn vị thành viên, các yêu cầu về đạo đức hành nghề của
KTV bao gồm cả tính độc lập, chấp nhận thư mời kiểm toán đối với khách hàng mới và
tiếp tục kiểm toán cho khách hàng hiện tại, quản trị nguồn nhân lực bao gồm việc phân
công đội hình kiểm toán, thực hành kiểm toán và cơ chế giám sát việc thực hiện kiểm
toán.

Để kiểm soát chất lượng có hiệu quả thì điều đầu tiên mà Công ty quan tâm là
quản lý con người bởi suy cho cùng thì mọi thủ tục hay qui trình đều do con người đặt
ra và thực hiện. Ngay từ khi bước chân vào Công ty, các nhân viên đã được trải qua
khóa đào tạo về nghiệp vụ, qui trình quản lý chất lượng và đảm bảo sự bảo mật thông
tin do các lãnh đạo trong Công ty thực hiện. Công ty đã cụ thể hóa rất nhiều qui định
của KPMG quốc tế để đưa ra các qui định, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế tại
Việt Nam. Trong cơ chế đảm bảo chất lượng cho cuộc kiểm toán thì việc quản lý rủi ro
cũng đóng góp vai trò quan trọng, bởi khi rủi ro đã được kiểm soát thì mọi hoạt động có
thể diễn ra theo đúng trình tự, tránh được những biến cố ngoài ý muốn, không ảnh
hưởng tới chất lượng của công việc. Với vấn đề này, trong cả hệ thống KPMG toàn cầu
đã đề ra chính sách quản lý rủi ro (Risk Managerment Manual- Global 502) được chỉnh
sửa cập nhật gần đây nhất vào tháng 10 năm 2007. Chính sách này xác định các rủi ro
mà KTV có thể gặp phải, cách thức tránh và có thể kiểm soát được rủi ro. Để kiểm soát
rủi ro nghề nghiệp thì KPMG đã đưa ra các nội dung cụ thể về đạo đức nghề nghiệp,
tính độc lập của KTV, đảm bảo sự bảo mật của thông tin, thận trọng nghề nghiệp, liên
hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm, xây dựng các điều khoản của cuộc kiểm toán: hợp
đồng kiểm toán, nội dung kiểm toán, phí kiểm toán, chữ kí của các bên, giải quyết tranh
chấp… . Một điểm quan trọng nữa được đưa ra là quản lý giấy tờ làm việc của KTV từ
khâu chuẩn bị cho đến việc xem xét lại do các nhà quản lý và chủ phần hùn thực hiện,
chỉnh sửa, hoàn thiện giấy tờ, hạn chế tiếp cận và cuối cùng là đưa vào lưu trữ làm bằng
chứng cho cuộc kiểm toán đã thực hiện theo đúng chuẩn mực và là dữ liệu cho cuộc
kiểm toán năm sau. Đối với các thực tập viên, ngay từ khi mới vào Công ty cũng đã có
buổi đào tạo cách thức hoạt động, hạn chế rủi ro xảy ra khi sử dụng mạng thông tin của
KPMG, được tham gia buổi đào tạo về quản lý rủi ro, đạo đức hành nghề và tính độc
lập của KTV trong thực hiện kiểm toán.
Để kiểm soát việc thực hiện kiểm toán, KPMG đã đưa ra nguyên tắc: thực hiện
giám sát trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán và cấp trên phải tổ chức, phân công,
quản lý, và rà soát lại công việc của cấp dưới.
Chủ phần hùn chấp nhận thư mời kiểm toán là người phải chịu trách nhiệm đầu
tiên trong kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán nói chung. Chủ phần phải đảm bảo rằng

khách hàng đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết để được chấp nhận kí hợp đồng
kiểm toán. Chủ phần hùn cũng có trách nhiệm phải lựa chọn những nhân viên có sự
hiểu biết, năng lực và kinh nghiệm cần thiết để tham gia kiểm toán. Trong kiểm toán,
khâu kiểm soát đầu tiên đó là lập kế hoạch và chương trình kiểm toán do nhà quản lý
cấp cao thực hiện. Bước công việc này vừa mang tính chất hướng dẫn lại vừa là công cụ
giám sát hữu hiệu quá trình thực hiện công việc của nhóm kiểm toán. Không chỉ ở giai
đoạn đầu tiên mà trong suốt quá trình thực hiện, công việc của nhóm kiểm toán luôn
chịu sự giám sát của trưởng nhóm kiểm toán và chủ nhiệm kiểm toán, sau đó lại được
rà soát một lần nữa bởi các chủ phần hùn chịu trách nhiệm trực tiếp về cuộc kiểm toán.
Khi xây dựng chương trình kiểm toán để thực hiện kiểm toán, trưởng nhóm kiểm toán
luôn có sự cân nhắc rất kỹ càng về trình độ năng lực của từng người và căn cứ vào đó
để phân công trách nhiệm cho từng thành viên trong đội, ví dụ như KTV đã có kinh
nghiệm lâu năm thì đảm nhiệm các chu trình phức tạp như bán hàng – thu tiền, với các
trợ lý kiểm toán mới vào thì làm phần đơn giản như tiền và hỗ trợ các KTV khác trong
việc kiểm tra chứng từ. Mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về phần công việc
của mình, kết quả làm việc của từng người sẽ được đánh giá làm cơ sở cho việc thăng tiến
của mỗi người. Sau khi cuộc kiểm toán được thực hiện, chủ phần hùn có trách nhiệm đảm
bảo cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo đúng chuẩn mực và BCTC đã được kiểm
toán cùng báo cáo của KTV chỉ được phát hành khi đã đảm bảo các tiêu chuẩn đặt ra.
Chính vì vậy mà báo cáo kiểm toán được phát hành với mức độ rủi ro thấp có thể kiểm
soát được.
2.2. Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng –
thu tiền do Công ty TNHH KPMG Việt Nam thực hiện tại khách hàng
Qui trình đánh giá trọng yếu, rủi ro gồm hai bước công việc là đánh giá trọng
yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán, trong mỗi bước này lại bao gồm nhiều bước nhỏ đan
xen nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
2.2.1. Khái quát qui trình đánh giá rủi ro trong kiểm toán chu trình bán
hàng – thu tiền do Công ty TNHH KPMG thực hiện tại khách hàng
Công việc đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán chu trình bán hàng bao gồm
các bước công việc và các thủ tục thực hiện trong mỗi bước được khái quát qua sơ đồ

dưới đây:
- Tìm hiểu đặc điểm môi trường kinh doanh, ngành nghề kinh doanh của khách hàng, các yếu tố ảnh hưởng đến
việc trình bày các khoản mục trong chu trình,
- Đánh giá qua số dư của các khoản mục trong chu trình
Đánh giá rủi ro tiềm tàng của chu trình bán hàng – thu tiền trong giai đoạn lập kế hoạch
kế hoạch kiểm toán
Đánh giá rủi ro kiểm soát của chu trình
bán hàng – thu tiền
- Đánh giá mức rủi ro kiểm toán sau khi kết hợp rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, xem xét việc điều chỉnh mức
trọng yếu cần phân bổ cho các khoản mục trong chu trình, xác định rủi ro phát hiện.
- Lập chương trình kiểm toán với các thủ tục chi tiết được thực hiện trong chu trình
Đánh giá rủi ro tồn tại sai phạm trọng yếu trong chu trình bán hàng – thu tiền và xác định rủi ro phát hiện
- Tìm hiểu KSNB của khách hàng được thiết kế cho chu trình bán hàng – thu tiền,
- Nhận biết các rủi ro có thể xảy ra liên quan đến mục tiêu kiểm toán và thủ tục kiểm soát tương ứng, đánh giá
qua rủi ro kiểm soát,
- Nhận biết điểm kiểm soát chính và thực hiện thử nghiệm kiểm soát .
Sơ đồ 2.1: Các bước đánh giá rủi ro kiểm toán và thủ tục thực hiện tương ứng
trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền do Công ty KPMG thực hiện
2.2.1.1. Đánh giá rủi ro tiềm tàng của chu trình bán hàng – thu tiền trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Cũng giống qui trình đánh giá rủi ro của BCTC nói chung, qui trình đánh giá rủi
ro được thực hiện đối với chu trình này được bắt đầu bằng việc đánh giá rủi ro tiềm
tàng. Vì chu trình bán hàng – thu tiền là kết quả của quá trình kinh doanh của một
doanh nghiệp nên chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố có liên quan đến quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp, từ các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài đến các
yếu tố trong doanh nghiệp như: tính liêm chính của ban giám đốc, các nghiệp vụ kinh tế
không thường xuyên xảy ra.
Ngay trong giai đoạn chấp nhận thư mời kiểm toán của khách hàng thì KTV cũng
đã thực hiện các thủ tục để tìm hiểu về khách hàng, đánh giá gian lận, rủi ro kiểm toán
có thể xảy với các khoản mục trên BCTC nói chung. Với chu trình bán hàng – thu tiền,

KTV sẽ tìm hiểu về đặc điểm ngành nghề kinh doanh, môi trường kinh doanh, đối thủ
cạnh tranh các điều kiện kinh tế-xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
khách hàng. Tại các thời điểm, các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau có đặc
điểm phát triển khác nhau.
Ví dụ như: trong thời gian từ Tết trở lại đây, thị trường chứng khoán của Việt Nam giảm
sút, chỉ số chứng khoán liên tục giảm trên sàn giao dịch của cả Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh, khi kiểm toán các khách hàng có cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán, KTV sẽ tìm hiểu biến động giá cổ phiếu của khách hàng. KTV xem xét liệu
giá cổ phiếu có ảnh hưởng đến quá trình bán hàng – thu tiền của khách hàng hay không,
ban giám đốc của khách hàng liệu có chịu áp lực nào đối với việc tạo ra gian lận trong
kết quả của chu trình bán hàng – thu tiền nhằm cải thiện giá cổ phiếu hay không. Hay
trong giai đoạn lạm phát cao và tăng nhanh như hiện nay thì ảnh hưởng ra sao đến kết
quả tiêu thụ của khách hàng.
Với các khách hàng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực khác nhau thì quá
trình bán hàng – thu tiền cũng mang các đặc điểm khác nhau. Khách hàng là doanh
nghiệp sản xuất đồ chơi hay kinh doanh thời trang thì sẽ có mức rủi ro tiềm tàng của
chu trình bán hàng – thu tiền cao hơn so với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực bàn ghế học sinh. Với lĩnh vực đồ chơi trẻ em hay thời trang thì việc tiêu thụ
sẽ phụ thuộc rất nhiều vào mùa, vào thị hiếu của người tiêu dùng, hơn nữa cạnh tranh
trên thị trường này là rất lớn. Đối với hãng kinh doanh bàn ghế học sinh, sự cạnh
tranh không lớn bằng, hơn nữa mẫu mã hay kiểu dáng cũng đơn giản không có nhiều,
lại thường sản xuất theo đơn đặt hàng nên rủi ro về tiêu thụ không lớn bằng hãng kinh
doanh trong lĩnh vực thời trang. Hay các khách hàng có đầu vào là nguyên liệu nhập
khẩu, giá cả hay biến động dẫn đến sản phẩm đầu ra cũng biến động theo sẽ có rủi ro
trong bán hàng cao hơn so với doanh nghiệp có nguồn vật liệu trong nước ổn định.
Vì vậy, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV bao giờ cũng tìm hiểu về
khách hàng tương đối kỹ lưỡng và trình bày lại hiểu biết về khách hàng. Với các khách
hàng thường niên thì KTV sẽ xem lại hồ sơ lưu trữ về khách hàng, cập nhật những
thông tin mới về môi trường kinh doanh, hay các luật điều chỉnh. Đối với các khách hàng
kiểm toán năm đầu tiên thì cần tìm hiểu kỹ dựa trên các tiêu chí như hoạt động kinh

doanh được điều chỉnh bởi bởi những luật, hay qui định nào. Ví dụ như đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài…,
mỗi doanh nghiệp sẽ có những luật điều chỉnh riêng, tình hình kinh doanh trong
những năm gần đây, sự thay đổi về nhân sự đối với các vị trí quản lý, môi trường kinh
tế - xã hội.
Như đã trình bày trong Phần I, bán hàng là một quá trình có mục đích thống nhất
song phương thức thực hiện rất đa dạng. Phương thức giao hàng và thu tiền có nhiều
kiểu khác nhau, mỗi kiểu lại tiềm ẩn mức rủi ro tiềm tàng khác nhau nên tùy vào
phương thức khách hàng sử dụng KTV sẽ đánh giá rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, khi
giao hàng theo phương thức giao đến tận tay khách hàng thì có thể xảy ra rủi ro, sự cố
trong quá trình vận chuyển, đặc biệt khi khách hàng ở xa. Hay thu tiền mặt trực tiếp sẽ
có độ rủi ro tiềm tàng cao hơn thu tiền qua ngân hàng.
Nghiệp vụ bán hàng có thể phát sinh các khoản làm giảm trừ doanh thu bao gồm:
chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Để đánh giá các khoản
này, trước hết KTV xác định uy tín, thương hiệu của các sản phẩm trên thị trường,
chính sách bán hàng của công ty.
KTV cũng đánh giá qua số dư của các tài khoản trong chu trình, với chu trình
này thì số dư của khoản mục doanh thu bao giờ cũng lớn rủi ro tiềm tàng cao, khoản
mục phải thu thì tùy thuộc vào điều kiện kinh doanh của khách hàng, thói quen về
thanh toán. Các khoản mục khác như: chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng
bán bị trả lại, dự phòng phải thu khó đòi số dư thường không lớn, bản thân khách thể
kiểm toán không thể làm ăn trong tình trạng mà nghiệp vụ hàng bán bị trả lại thường
xuyên xảy ra hay liên tục phải trích lập dự phòng vì người mua không có khả năng trả
nợ. Hơn nữa, Công ty cũng đã có sự lựa chọn khách hàng trong giai đoạn xem xét có
chấp nhận thư mời kiểm toán hay không, Công ty rất quan tâm đến uy tín của khách
hàng trên thị trường và phải xem xét qua bản chất, qui mô của các khoản mục trên
BCTC. Do đó, những khoản mục này được đánh giá là có rủi ro tiềm tàng thấp. Rủi ro
tiềm tàng của cả chu trình bán hàng – thu tiền thường được đánh giá ở mức trung
bình.
Để thực hiện đánh giá rủi ro tiềm tàng, Công ty thường sử dụng các thủ tục:

phỏng vấn ban quản lý của khách hàng, thủ tục quan sát và điều tra.
2.2.1.2. Đánh giá rủi ro kiểm soát của chu trình bán hàng – thu tiền
Sau khi đánh giá rủi ro tiềm tàng, KTV sẽ thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát của
chu trình. Để đánh giá rủi ro kiểm soát của chu trình, kế hoạch kiểm toán của Công ty
gồm hai bước công việc cần thực hiện là: tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
rồi dựa trên thiết kế của hệ thống đó tiến hành các thử nghiệm kiểm soát kiểm tra tính hữu
hiệu của hệ thống KSNB và đưa ra kết luận về rủi ro kiểm soát.
Thứ nhất: Tìm hiểu hệ thống KSNB của khách hàng đối với chu trình bán
hàng – thu tiền.
Trước hết, KTV tìm hiểu các yếu tố thuộc về môi trường kiểm soát của khách hàng
đối với như cơ cấu tổ chức cũng như các qui định, điều lệ hoạt động của khách hàng đối
với các khách hàng kiểm toán lần đầu, hoặc cập nhật sự thay đổi về tổ chức đối với các
khách hàng hiện tại. Với chu trình bán hàng – thu tiền, thứ nhất KTV xem xét về cơ cấu
tổ chức của các bộ phận có liên quan tới chu trình như: bộ phận bán hàng, bộ phận kho,
bộ phận vận chuyển giao hàng, phòng kế toán hạch toán các nghiệp vụ phát sinh; các bộ
phận có độc lập với nhau không, hoạt động của các bộ phận chịu sự quản lý, giám sát
trực tiếp của ai trong ban giám đốc (BGĐ), ai là người đưa ra qui định phối hợp hoạt
động giữa các bộ phận này. Tiếp theo, KTV phỏng vấn cách thức tuyển dụng, đào tạo,
khen thưởng đối với nhân viên ở các bộ phận này, KTV tìm hiểu kinh nghiệm của
những nhân viên đang làm việc tại đó, đặc biệt là với các vị trí chủ chốt như trưởng bộ
bán hàng, trưởng bộ phận vận chuyển, giám đốc tài chính… . Kế hoạch về tiêu thụ do ai
lập, dựa trên cơ sở nào và người phê duyệt. KTV cũng tìm hiểu các qui định hiện hành
của nhà nước đối với hoạt động tiêu thụ của khách hàng như mức thuế suất, hàng hóa
có thuộc loại được khuyến khích tiêu dùng hay không, hay ưu đãi về thuế thu nhập
doanh nghiệp trong những năm đầu cũng là yếu tố cần quan tâm, vì đây là yếu tố có
ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu về tính có thật và đầy đủ của số dư khoản mục doanh thu
được trình bày. Cách thức phân đoạn thị trường, phân phối sản phẩm, các khách hàng
thường xuyên, cách thức kiểm soát đối với từng đối tượng khách hàng cũng là điều
Công ty quan tâm khi đánh giá khách hàng.
Để kiểm tra căn cứ xây dựng kế hoạch cho bán hàng, KTV yêu cầu các tài liệu từ

phía khách hàng như biên bản họp của BGĐ, chỉ tiêu về doanh thu khách hàng đã đặt
trong năm tài chính, phỏng vấn BGĐ về cách thức xác định chỉ tiêu này, chiến lược
kinh doanh mà họ đặt ra để đạt được chỉ tiêu đó. KTV sẽ quan tâm đến việc kiểm soát
các rủi ro của khách hàng bằng cách phỏng vấn xem họ có lường trước các rủi ro có thể
xảy ra khiến cho mục tiêu về doanh thu của họ không thể đạt được và giải pháp đã được
đặt ra để kiểm soát hay hạn chế được ảnh hưởng của rủi ro đó.
Bên cạnh đó, KTV xem xét chính sách bán hàng như: chiết khấu thương mại, hạn
mức tín dụng của khách hàng. KTV sẽ phỏng vấn giám đốc tài chính, trưởng phòng
hay nhân viên của phòng bán hàng (phòng kinh doanh) qui định của khách hàng về
các trường hợp được phép bán chịu cho khách hàng, đánh giá liệu khách hàng có quan
tâm đến tình hình tài chính của khách khi bán chịu cho họ không.
Thứ hai là, KTV tìm hiểu thủ tục, qui trình thực hiện chu trình bán hàng – thu tiền của
khách hàng và các kiểm soát liên quan bắt đầu từ khâu tiếp nhận xử lý đơn đặt hàng cho
đến thu tiền hoặc thực hiện thủ tục xóa nợ cho khách hàng, hệ thống xây dựng và tiếp
cận giá cũng là một điểm kiểm soát chính. Trong quá trình tìm hiểu, KTV dựa trên 3
nguyên tắc cơ bản để xây dựng hệ thống KSNB: có sự tách biệt giữa các bộ phận bán
hàng, kho, phòng kế toán không, nếu có thì giữa các bộ phận này có sự phân công phân
nhiệm rõ ràng không, cơ chế ủy quyền ở từng bộ phận, hoạt động ở mỗi bộ phận có
được phê chuẩn thích đáng không và nguyên tắc bất kiêm nhiệm có bị vi phạm không.
KTV sẽ tìm hiểu về qui trình thực hiện bán hàng tại khách hàng, thứ tự các bước công
việc được thực hiện tại các bộ phận, các thủ tục để đối chiếu hoạt động giữa các bộ
phận với nhau.
Đối với nghiệp vụ thu tiền thì các KTV xem xét khách hàng sử dụng phương thức
nào, các kiểm soát liên quan đến thu tiền được thiết kế. Một phần các kiểm soát này đã
được đánh giá và kiểm tra trong kiểm toán chu trình tiền, KTV thực hiện kiểm toán
chu trình này có thể tham chiếu hoặc phối hợp với KTV kiểm toán chu trình tiền để
đánh giá kiểm soát của nghiệp vụ thu tiền.
Với trường hợp bán chịu, KTV tìm hiểu các thủ tục cần tiến hành và cách xử lý
của khách hàng khi phát sinh nợ quá hạn, khách nợ có dấu hiệu không tốt về tài chính.
Thông thường, các công ty sẽ có sổ hoặc báo cáo theo dõi tuổi nợ của khách hàng, KTV

yêu cầu khách hàng cung cấp sổ này và xem xét khách hàng có quan tâm theo dõi tình
trạng của khách nợ sau khi bán hàng không, sau khi đã kí hợp đồng thì ai là người có
trách nhiệm theo dõi khoản phải thu, định kỳ kế toán phụ trách công nợ của khách
hàng có thực hiện xác nhận đối chiếu công nợ với người mua hay không, công ty
có qui định về việc trích lập dự phòng hay xử lý nợ xấu không. Đối với phần trích lập
dự phòng sẽ được tham chiếu sang GTLV của KTV kiểm toán chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Ngoài ra, KTV còn tìm hiểu các điều khoản, điều kiện của hợp đồng liên qua đến
điều khoản thanh toán bao gồm thời gian thanh toán và phương thức thanh toán bằng
tiền mặt hay chuyển khoản, điều khoản phát sinh nghiệp giảm giá hàng bán hay hàng
bán bị trả lại.
Với chiết khấu thương mại, khách mua hàng với số lượng lớn sẽ được giảm trừ
một phần số tiền phải trả (có thể là con số tuyệt đối hoặc tỉ lệ phần trăm) cho lượng
hàng hóa mua. Khách hàng sẽ phải có qui định cho hình thức chiết khấu này. Với giảm
giá hàng bán sẽ được qui định trong hợp đồng bán hàng. Đối với hàng hóa hỏng hóc
trong thời gian bảo hành, khi đó doanh nghiệp sẽ cần sử dụng chi phí bảo hành trích
trước để tiến hành bảo hành cho khách, phần này sẽ được KTV thực hiện kiểm toán
phần hành bán hàng và thu tiền tham chiếu sang GTLV của KTV kiểm toán chi phí
bán hàng. Trong trường hợp sản phẩm lỗi, khách hàng yêu cầu đổi sản phẩm khác
việc kiểm toán liên qua đến chu trình hàng tồn kho, KTV sẽ tham chiếu sang kiểm toán
chu trình hàng tồn kho.
Thứ ba, KTV tìm hiểu cách thức hạch toán các nghiệp vụ xảy ra trong chu trình.
Đối với chu trình này, cơ sở để ghi nhận doanh thu, thời điểm ghi nhận doanh thu là
một điểm mấu chốt ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu về tính có thật, tính đầy đủ, tính
đúng kì của doanh thu – khoản mục chính của chu trình mà KTV rất chú trọng. KTV sẽ
yêu cầu kế toán cung cấp số liệu về doanh thu của các năm trước. Trên cơ sở các số liệu
được cung cấp KTV tiến hành phân tích chi tiết doanh thu, doanh thu có được từ
những sản phẩm hay dịch vụ nào, doanh thu chính là từ đâu, chỉ có doanh thu nội địa
hay còn có doanh thu bán cho khách hàng nước ngoài. Với những nguồn gốc của doanh thu
khác nhau thì khách hàng sẽ có cách thức khác nhau để kiểm soát và KTV cũng sẽ có

cách thức thực hiện thử nghiệm kiểm soát khác nhau. Ví dụ như với doanh thu nội địa
thì phiếu xuất kho là một chứng từ quan trọng làm cơ sở cho việc hàng đã ra khỏi kho
và chuyển giao cho khách hàng, có nghĩa mọi quyền lợi và rủi ro gắn liền với hàng
hóa đã được chuyển giao, đây chính là căn cứ để ghi nhận doanh thu. Còn đối với
doanh thu xuất khẩu thì vận đơn do nhà xuất khẩu ủy thác cung cấp mới là chứng từ
quan trọng chứng minh cho việc bên nhận xuất khẩu ủy thác đã nhận hàng từ bên xuất
khẩu và cam kết sẽ giao hàng đến cho người mua.
Dựa trên thủ tục mà khách hàng đã mô tả và cung cấp, KTV sẽ đưa ra đánh giá
ban đầu về việc thiết kế các thủ tục kiểm soát của khách hàng, xác định các điểm có thể
xảy ra rủi ro và các thủ tục kiểm soát tương ứng, phát hiện yếu điểm. Với những điểm
yếu đã được phát hiện, KTV phỏng vấn khách hàng xem đã có cách để khắc phục hay
chưa, trên cơ cở đó KTV đưa ra đánh giá về rủi ro có khả năng xảy ra các sai phạm
trong chu trình bán hàng – thu tiền của khách hàng mà hệ thống KSNB không ngăn
chặn và phát hiện kịp thời.
Sau khi tìm hiểu về hệ thống KSNB của khách hàng, KTV có thể trình bày hiểu biết
của mình về hệ thống này thông qua bảng câu hỏi, bảng tường thuật hay lưu đồ. Bảng câu
hỏi và bảng tường thuật là những công cụ thường được Công ty sử dụng.
Thứ hai: Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát đánh giá rủi ro kiểm soát của
chu trình bán hàng – thu tiền.
Để đảm bảo các thủ tục kiểm soát mà khách hàng đặt ra đã được áp dụng trong thực
tế thì một thử nghiệm đầu tiên mà KTV luôn thực hiện với các khách hàng là thử
nghiệm kiểm tra từ đầu đến cuối. Thử nghiệm này nhằm giúp cho KTV khẳng định được
những hiểu biết của mình về thiết kế của thủ tục KSNB của khách hàng đối với chu trình
bán hàng – thu tiền là đúng đắn, chắc chắn rằng các kiểm soát này được thực hiện trong
thực tế.
Để thực hiện thử nghiệm này, KTV lựa chọn một nghiệp vụ bán hàng xảy ra trong
kỳ kinh doanh của năm kiểm toán sau đó KTV sẽ kiểm tra các khâu kiểm soát của
nghiệp vụ này từ khi bắt đầu cho đến khi nghiệp vụ này hoàn thành đươc đưa vào sổ
Cái. Việc thực hiện thử nghiệm này cần tiến hành đồng thời ở các bộ phận liên quan:
phòng kế toán, bộ phận bán hàng, bộ phận vận chuyển và bộ phận kho. Thông thường

chu trình này được bắt đầu từ khi khách thể kiểm toán nhận được đơn đặt hàng của
người mua, gửi báo giá, kí kết hợp đồng, chuyển hàng, thanh toán hoặc bán chịu. KTV
sẽ đi theo kiểm soát của từng giai đoạn này. Ví dụ như KTV phụ trách kiểm toán chu
trình này sẽ phỏng vấn nhân viên kho việc xuất hàng khỏi kho để chuyển đến cho khách
hàng căn cứ vào giấy tờ gì, hay kế toán ghi nhận doanh thu dựa trên cơ sở nào, cứ có
hợp đồng là ghi nhận doanh thu hay căn cứ vào chứng từ nào khác.
Với trường hợp bán chịu, KTV phỏng vấn nhân viên bán hàng xem với nghiệp vụ
đó thì anh ta đã làm gì. Ví dụ như khi nhận được yêu cầu mua hàng chịu của khách, có
kiểm tra không và ai có trách nhiệm kiểm tra về tình hình tài chính của khách hàng, với
khách hàng cũ thì xem số dư nợ khoản phải thu có vượt quá hạn mức tín dụng cho phép
hay không… Sau đó, các điều khoản trong hợp đồng được lập như thế nào, ai có trách
nhiệm xem xét và phê duyệt. Đối với nhân viên phụ trách khoản phải thu thì sẽ theo dõi
khách nợ như thế nào.Nếu phát hiện thấy khách nợ có dấu hiệu không tốt về tài chính
thì có tiến hành lập dự phòng không, dự phòng được tính theo qui định nào. KTV kiểm
tra sự hiểu biết và việc thực hiện các qui định trong công ty của nhân viên. KTV cũng
tiến hành yêu cầu khách hàng cung cấp số liệu để phân tích sơ bộ về khoản phải thu, tỉ
lệ khoản phải thu của năm nay so với năm trước và tỉ lệ phải thu trên tổng doanh thu để
biết được chính sách tín dụng của khách hàng có đúng như khách hàng đưa ra hay
không.
Đồng thời, với thử nghiệm này, KTV kiểm tra việc tổ chức hệ thống chứng từ, sổ
sách kế toán, sự phê duyệt của các cấp quản lý tương xứng trên bộ chứng từ đó.
Thử nghiệm kiểm tra từ đầu đến cuối được thực hiện để kiểm tra xem qui trình
công ty xây dựng có được áp dụng trong thực tế không, còn để biết rằng các thủ tục này
có được áp dụng hữu hiệu trong thực tế hay không thì KTV sẽ dựa vào các điểm kiểm
soát chính của hệ thống KSNB để thiết kế các thử nghiệm kiểm soát khác. Ví dụ như,
theo hệ thống KSNB của khách hàng, bộ phận bán hàng hàng tháng đều lập báo cáo bán
hàng còn bộ phận vận chuyển hàng cho khách hàng tháng đều lập báo số hàng thực tế
chuyển cho khách và định kỳ hàng tháng hai bộ phận này sẽ đối chiếu báo cáo với nhau.
KTV có thể chọn mẫu vài tháng để kiểm tra xem hai bộ phận này có thực hiện đối chiếu
không, nếu như số liệu không khớp thì có giải trình nào về vấn đề đó không, giải trình

có hợp lý không. Sau khi thực hiện thử nghiệm kiểm tra tính hữu hiệu của các thủ tục
kiểm soát trong thực tế thì KTV sẽ trình bày GTLV về các thủ tục đã thực hiện và kết quả
của thử nghiệm. Thử nghiệm kiểm tra từ đầu đến cuối và các thử nghiệm kiểm soát khác
thường được thực hiện vào giai đoạn kiểm toán giữa niên độ.
2.2.1.3. Đánh giá rủi ro tồn tại sai phạm trọng yếu trong chu trình bán hàng – thu tiền
và xác định rủi ro phát hiện
Sau khi đã thực hiện thử nghiệm kiểm soát và đánh giá được rủi ro kiểm soát và
rủi ro tiềm tàng của khách hàng, KTV đánh giá rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu (RoSM
– Risk of significant misstatement) trong chu trình. Về thực chất, đây là sự kết hợp của
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Dựa vào đó trưởng nhóm kiểm toán hoặc nhà quản
lý cấp cao của cuộc kiểm toán sẽ đánh giá trọng yếu của chu trình, đánh giá rủi ro kiểm
toán, xác định rủi ro phát hiện và lập chương trình kiểm toán chi tiết các thử nghiệm cơ
bản cần thực hiện. Đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là một trong những
cơ sở quan trọng để KTV điều chỉnh mức trọng yếu cần phân bổ cho từng khoản mục
trong chu trình. Nếu hai rủi ro này là cao thì mức trọng yếu cần phân bổ có thể thấp hơn
so với trường hợp khi hai loại rủi ro này thấp hoặc trung bình. Kết hợp rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát, KTV thực hiện kiểm toán chu trình sẽ đánh giá khả năng tồn tại các
sai phạm trọng yếu trong chu trình, nếu RoSM ở mức cao thì rủi ro kiểm toán cũng cao
và ngược lại. Với mức rủi ro kiểm toán như vừa đánh giá, để đạt được mức rủi ro kiểm
toán mong muốn, Công ty xác định mức rủi ro phát hiện và tiến hành thiết kế thử
nghiệm cơ bản, chương trình kiểm toán chi tiết thành thủ tục phân tích sơ bộ và các
thử nghiệm chi tiết về nghiệp vụ và số dư.
Trong chương trình kiểm toán, thủ tục đầu tiên KTV thực hiện để có đánh giá ban
đầu mức trọng yếu, rủi ro của của các khoản mục trong chu trình là thủ tục phân tích sơ
bộ (Analytical Review). Với số liệu của các khoản mục trong chu trình của các năm mà
khách hàng cung cấp, KTV so sánh số liệu năm nay với năm trước, hoặc giữa các tháng
trong năm, so sánh số thực hiện với số lập kế hoạch. Nếu có sự khác biệt đáng kể thì
KTV sẽ tìm hiểu nguyên nhân thông qua xem xét chi tiết biến động của từng tháng và
phỏng vấn kế toán trưởng hay kế toán phụ trách từng khoản mục. Với sự giải thích từ
phía khách hàng và kiểm tra các giấy tờ có liên quan làm bằng chứng, nếu KTV thấy

hợp lý và đúng đắn thì mức RoSM sẽ vẫn giữ nguyên như cũ. Nếu KTV vẫn thấy nhiều
điểm nghi ngờ thì KTV sẽ cân nhắc để đánh giá lại RoSM và xem xét các thủ tục cần
thực hiện thêm. Tất cả qui trình đánh giá rủi ro đều được trình bày trên giấy tờ làm việc
của KTV.
Như đã đề cập ở trên, trong chu trình bán hàng – thu tiền, kiểm toán khoản mục
doanh thu đóng vai trò chủ đạo, một thủ tục rất hữu hiệu mà KTV thực hiện khi hệ
thống KSNB của khách hàng hoạt động có hiệu quả đó là thử nghiệm kiểm tra tính hợp
lý của doanh thu. Thử nghiệm này chỉ được thực hiện khi KTV đã đánh giá thiết kế hệ
thống KSNB của khách hàng hiệu quả và thử nghiệm kiểm soát cũng cho kết quả như
vậy. Thử nghiệm này được thực hiện như sau: Với số lượng hàng bán có được từ một
bộ phận độc lập với phòng kế toán là bộ phận bán hàng và bộ phận vận chuyển cùng với
đơn giá từ hệ thống xác định của doanh nghiệp, KTV có thể ước tính doanh thu của doanh
nghiệp và so sánh với doanh thu kế toán đã ghi nhận. Nếu sự chênh lệch là không lớn và
khách hàng có thể đưa ra những giải thích hợp lý thì KTV sẽ có thể giảm được rất nhiều
số mẫu cần kiểm tra.
Trong quá trình thực hiện thử nghiệm cơ bản, KTV thực hiện kiểm toán chu
trình vẫn tiếp tục đánh giá rủi ro tồn tại sai phạm trọng yếu sau các phát hiện để điều
chỉnh lại các thủ tục tiến hành nếu cần thiết.
2.2.1.4. Đánh giá rủi ro kiểm toán trong chu trình bán hàng – thu tiền được thực hiện
tại Khách hàng A và Khách hàng B
Thứ nhất: Qui trình đánh giá rủi ro trong kiểm toán chu trình bán hàng – thu tiền được
thực hiện tại Khách hàng A.
Đối với Khách hàng A, đây là khách của Công ty từ năm kiểm toán trước đó nên
trong hồ sơ kiểm toán năm đã có một phần thông tin về khách hàng. Đây là khách hàng
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy và các linh kiện, cung
cấp các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, sửa chữa với chất lượng đã được chứng nhận trên
thị trường và tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng tương đối ổn định.
Các dòng sản phẩm của Khách hàng bao gồm cả cao cấp và sản phẩm dành cho người có
thu nhập bình dân nên hoạt động của Khách hàng khá tốt. Nhu cầu xe trên thị trường hiện
nay vẫn tiếp tục cao, đặc biệt là với các loại xe ga. Sau khi tìm hiểu về hệ thống KSNB

của khách hàng, kiểm toán viên trình bày lại hiểu biết trên GTLV như sau:
Bảng 2.1: Tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chu trình
bán hàng – thu tiền được thực hiện tại Khách hàng A
Đánh giá rủi ro kiểm soát- Chu trình bán hàng – thu tiền
SE
Khách hàng Kỳ kế toán
Doanh nghiệp A 31/12/2007
Người thực hiện Ngày thực hiện Số tham chiếu
LMS 12-11-07
1. Miêu tả các hoạt động kế toán và kiểm soát
Hoạt động kiểm soát đối với:
• Ủy quyền và phê chuẩn.
• Thực hiện nghiệp vụ và hạch toán kế toán
• Việc chuẩn bị các báo cáo về các thông tin
Doanh thu dự kiến
● Doanh thu dự kiến hàng năm được phê duyệt bởi Hội đồng Giám đốc và được đánh giá lại
vào thời điểm giữa năm một lần tại cuộc họp của Hội đồng giám đốc công ty.
● Công ty cung cấp xe máy đến tay người sử dụng cuối cùng thông qua các đại lý phân phối đã
được ủy quyền của mình.
Quá trình tiếp nhận đơn đặt hàng.
Đối với xe máy
● Đơn đặt hàng xe máy của khách hàng được tiếp nhận thông qua Hệ thống giao dịch với khách
hàng – CCS ba tháng trước khi giao hàng. Đơn đặt hàng sau đó có thể bị thay đổi, tuy nhiên
mọi thứ phải được cố định ít nhất một tháng trước khi quá trình sản xuất bắt đầu.
● Dựa trên việc xác nhận đơn đặt hàng hàng tháng từ hệ thống các kênh phân phối và các thông
tin trên thị trường, một bản báo cáo dự đoán doanh thu tháng sẽ được chuyển đến cho phòng
sản xuất để chuẩn bị cho quá trình sản xuất
● Hàng tháng, phòng bán hàng cũng dự đoán số lượng xe máy bán được cho từng đại lý. Dựa
trên cơ sở tính toán đó, bộ phận giao hàng sẽ chuẩn bị kế hoạch giao hàng của tháng và đội ngũ
nhân viên bán hàng sẽ chuẩn bị hợp đồng bán hàng tháng. Hợp đồng bán hàng sẽ được phê

duyệt bởi giám đốc bán hàng.
● Tất cả các bước công việc của của quá trình đều được nhập vào hệ thống CCS. Các bộ phận
chức năng có liên quan bao gồm Phòng kế toán, bộ phận vận chuyển, giao hàng và các nhà
phân phối sẽ được tiếp cận với các thông tin ở một mức nhất định nhằm thực hiện các thủ tục
Qua mô tả có thể thấy, Hệ thống KSNB của Khách hàng A với chu trình bán hàng
– thu tiền tương đối tốt với đầy đủ các bước và các thủ tục phê duyệt. Việc thanh toán
tiền mua hàng được thực hiện trước khi hàng chuyển giao và thông qua tài khoản của
khách hàng tại ngân hàng nên độ an toàn cao. Quá trình thực hiện thử nghiệm kiểm tra
từ đầu đến cuối cũng cho thấy bộ chứng từ bán hàng có đủ chứng từ cần thiết và được
phê duyệt. Hơn nữa, kinh nghiệm của KTV trong năm kiểm toán trước cũng cho thấy
các KSNB của chu trình bán hàng – thu tiền vận hành khá tốt. Dựa trên những hiểu biết có
được về hệ thống KSNB của khách hàng, KTV đã thực hiện 3 thử nghiệm kiểm soát chính
là: thử nghiệm kiểm soát về hệ thống tiếp cận giá của công ty, thử nghiệm kiểm soát về
thủ tục đối chiếu giữa báo cáo bán hàng với báo cáo số lượng hàng đã vận chuyển
cho khách và thử nghiệm đối chiếu giữa báo cáo bán hàng với báo cáo số tiền nhận
được để đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống KSNB mô tả ở trên với chu trình.
Thứ nhất là thử nghiệm kiểm tra tính bảo mật và hiệu quả của hệ thống tiếp cận giá:
Bảng 2.2: Thử nghiệm kiểm soát về hệ thống tiếp cận giá của Khách hàng A
Chu trình bán hàng – thu tiền
Thử nghiệm kiểm soát – Hệ thống tiếp cận giá
Khách hàng Kỳ kế toán
Doanh nghiệp A 31/12/2007
Người thực hiện Ngày thực hiện Số tham chiếu
PMN 13/11/07
Mục tiêu : Tham chiếu tới chương trình kiểm toán
Miêu tả về hệ thống kiểm soát:
Đơn giá được kiểm soát bởi hệ thống tiếp cận giá. Không một nhân viên bán hàng hay nhân viên kế toán nào
được phép tiếp cận với hê thồng cơ sở dữ liệu về giá ngoại trừ một nhân viên phòng bán hàng và bộ phận phụ
trách công nghệ thông tin.
Các bước công việc đã thực hiện:

 Quan sát và kiểm tra việc tiếp cận giá đơn vị trong quá trình xuất hóa đơn;
 Phỏng vấn trưởng bộ phận IT về việc kiểm soát giá đơn vị được thiết lập trong hệ thống và đánh giá
trình độ của các nhân viên IT ;
 Xác nhận với Giám đốc kinh doanh về qui trình thủ tục nói trên.
 Thu thập danh sách đơn giá và kiểm tra giá trên hóa đơn bán hàng xem có đúng với giá đã được xác
lập trên hệ thống giá hay không
Phát hiện:
 Qua quá trình quan sát việc phát hành hóa đơn bán hàng , KTV nhận thấy nhân viên bán hàng chỉ
nhập số lượng hàng bán trên hóa đơn vào hệ thống, hệ thống sẽ tự động tính ra tổng giá trị dựa trên mã của
hàng hóa được nhập.
 Phỏng vấn các nhân viên IT về hệ thống giá, cụ thể làm thế nào anh ta có thể đảm việc tiếp cận giá
được hạn chế, qui trình thủ tục như thế nào để có thể thay đổi giá đơn vị, và làm thế nào để kiểm soát được hệ
thống branches. Dựa trên giải thích của nhân viên IT, KTV nhận thấy anh ta là một người có kinh nghiệm và
rất quen thuộc với hệ thống này đồng thời là một chuyên gia về IT.
 Danh sách giá do hệ thống in ra hoàn toàn khớp với giá được Tổng Giám đốc phê chuẩn.
 Xác nhận với Giám đốc kinh doanh, anh ta nói rằng danh sách giá đơn vị được Ban Giám đốc phê chuẩn
trước khi gửi đến Giám đốc tài chính để thực hiện các thủ khác.
Kết luận :
Các thủ tục kiểm soát do doanh nghiệp đặt ra hoạt động hữu hiệu trong suốt kỳ được kiểm toán.
Thứ hai là kiểm tra thủ tục đối chiếu giữa báo cáo hàng bán và báo cáo số lượng hàng
vận chuyển, công việc KTV thực hiện được trình bày trên GTLV như sau:
Bảng 2.3: Thử nghiệm kiểm soát kiểm tra thủ tục đối chiếu giữa bộ phận
bán hàng và bộ phận vận chuyển tại Khách hàng A
Chu trình bán hàng – thu tiền
Thử nghiệm kiểm soát – Thủ tục đối chiếu giữa Báo
cáo hàng bán và Báo cáo số hàng vận
chuyển
Khách hàng Kỳ kế toán
Doanh nghiệp A 31/12/2007
Người thực hiện Ngày thực hiện Số tham chiếu

PMN 13/11/07
Công việc đã thưc hiện:
 Phỏng vấn nhân viên bán hàng và nhân viên kế toán về qui trình thủ tục đối chiếu.
 Phỏng vấn trưởng bộ phận bán hàng và trưởng bộ phận vận chuyển để chắc rằng họ hiểu được trách nhiệm
của mình trong việc thực hiện đối chiếu.
 Thu thập báo cáo doanh thu và báo cáo số hàng vận chuyển trong 2 tháng: tháng 7 và 9 và đối chiếu số chi
tiết theo từng dòng xe và đối chiếu tổng giá trị
 Yêu cầu sự giải thích cho từng khoản mục đã đối chiếu nếu có sự sai khác xảy ra và theo dõi các sự kiện
xảy ra sau đó để trình bày vấn đề phát sinh.
Phát hiện của KTV:
 Báo cáo số hàng vận chuyển hàng ngày được gửi tới bộ phận bán hàng để đối chiếu. Trưởng bộ phận có
nhiệm vụ kiểm tra lại số lượng và kiểu dáng của sản phẩm. Đồng thời anh ta cũng có thể kiểm tra số liệu bằng
cách truy cập hệ thống CCS.
 Báo cáo của tháng 7 và tháng 9 như sau:
Số chi tiết cho Tháng 7 (tổng số chiếc) Tháng 9 (tổng số chiếc)
Báo cáo hàng bán 64,147 78,322
Báo cáo số hàng vận chuyển 64,147 78,322
Khác nhau - -
Kết luận:
Hệ thống kiểm soát đối với mục tiêu về tính đầy đủ, có thật và chính xác của doanh thu được thiết kế và hoạt
động khá hiệu quả trong suốt kỳ được kiểm toán. Vì vậy, qua quá trình xem xét rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu
được đánh giá ở mức thấp.
Thứ ba là kiểm tra thủ tục đối chiếu giữa báo cáo hàng bán với báo cáo về số
tiền nhận được.
Bảng 2.4: Thử nghiệm kiểm soát kiểm tra thủ tục đối chiếu giữa bộ phận
bán hàng và Phòng kế toán tại Khách hàng A
Chu trình bán hàng – thu tiền
Thử nghiệm kiểm soát – Thủ tục đối chiếu giữa
Báo cáo bán hàng và Báo cáo số tiền
nhận được

Khách hàng Kỳ kế toán
Doanh nghiệp A 31/12/2007
Người thực hiện Ngày thực hiện Số tham chiếu
PMN 13/11/07
Mục tiêu :
Để đảm bảo rằng thủ tục đối chiếu giữa Báo cáo số tiền nhận được hàng tháng và Báo cáo hàng bán được
thực hiện có hiệu quả
Các bước công việc đã thực hiện:
• Phỏng vấn kế toán phụ trách doanh thu về quá trình chuẩn bị và đối chiếu Báo cáo số tiền nhận được
và Báo cáo hàng bán, qua đó đánh giá kỹ năng và kinh nghiệm của họ
• Phỏng vấn nhân viên bán hàng và kế toán trưởng về cách thức thực hiện thủ tục đối chiếu, qua đó
khẳng định thủ tục này thực sự được tiến hành trong thực tế và có hiệu quả.
• Lựa chọn báo cáo của tháng 7 và tháng 9
- Kiểm tra sự khớp đúng về số lượng và giá trị doanh thu trên Báo cáo về số tiền nhận được do phòng
kế toán lập với giá trị trên Báo cáo hàng bán của bộ phận bán hàng.
- Khớp giá trị doanh thu trên Báo cáo về số tiền với sổ Cái ( hoặc Báo cáo kết quả kinh doanh).
- Khớp số liệu của khoản đặt trước của khách hàng trên Báo cáo với sổ Cái.
Phát hiện:
1 .Phỏng vấn kế toán phụ trách doanh thu và xác nhận với kế toán trưởng về thủ tục đối
chiếu doanh thu hàng tháng:
- Kế hoạch và báo cáo vận chuyển hàng tháng, danh sách giá của các dòng sản phẩm được chuẩn
bị và cung cấp cho phòng kế toán để tính ra doanh thu của từng nhà phân phối.
- Trên cơ sở hàng tháng, Báo cáo số tiền nhận được được kế toán phụ trách doanh thu chuẩn bị.
Báo cáo này cung cấp doanh thu chi tiết của từng nhà phân phối và cho từng dòng sản phẩm. Doanh thu có
được từ việc bán cho nhân viên, bán các linh kiện hay các khoản khác không được trình bày trên báo cáo này
trong khi báo cáo do bộ phận kinh doanh cung cấp lại bao gồm tất cả doanh thu của công ty. Kế toán đối
chiếu chi tiết số lượng và tổng giá trị doanh thu trên các báo cáo, sau đó Giám đốc tài chính kiểm tra lại và kí
duyệt..
- Kế toán trưởng dựa trên số lượng hàng bán thực tế được trình bày trên báo cáo vận chuyển để
ghi nhận doanh số bán thực tế vào sổ Cái. Sự khác nhau giữa hai báo cáo sẽ được kiểm tra và thực hiện các

bút toán điều chỉnh cho chính xác.
2 .Thông qua phỏng vấn, KTV nhận thấy kế toán phụ trách doanh thu có kỹ năng và kinh
nghiệm khá tốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
3 .Khi phỏng vấn nhân viên ở bộ phận bán hàng, KTV cũng thu được sự xác nhận tương tự
về thủ tục chuẩn bị và đối chiếu giữa các báo cáo.
4 .Kiểm tra chọn mẫu doanh thu bán xe máy trong tháng 7 và tháng 9 về các vấn đề được đề
cập trên báo cáo ở trên.

Giá trị doanh thu (VND’000) và số lượng (chiếc)
Khác nhau
Trên BC số tiền nhận được Trên BC hàng bán
Giá trị SL Giá trị SL Giá trị SL
Tháng 7 – 07
Xe máy 1,004,294,336 64,147 1,004,294,336 64,147 - -
Tháng 9 - 07
Xe máy 1,401,121,169 78,322 1,401,121,169 78,322 - -
Giá trị doanh thu (VND’000)
Khác nhau
Trên BC tiền thu được Trên sổ Cái
Tháng 7 – 07
Xe máy 1,004,294,336 1,004,294,336 -
Tháng 9 - 07
Xe máy 1,401,121,169 1,401,121,169 -
5 .Số dư của tài khoản “Khách hàng ứng trước” trên BC khớp với số trên sổ Cái.
Kết luận
Qua quá trình kiểm tra, KTV nhận thấy thủ tục đối chiếu được thực hiện liên tục trong kỳ kế toán và cập nhật
khá chính xác đầy đủ các sự kiện, các điều chỉnh liên quan đến mục tiêu tính đầy đủ, có thật và chính xác của
doanh thu.
Cập nhật khi kiểm toán cuối niên độ:
Kiểm soát vẫn hoạt động có hiệu quả trong suốt kỳ kế toán

Sau khi khi đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát kiểm tra tính hữu hiệu của các
kiểm soát nội bộ cho chu trình bán hàng – thu tiền của Khách hàng, KTV đã đánh giá
về rủi ro tồn tại các sai phạm trọng yếu trong chu trình này như sau:

×