Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đảng bộ thành phố hải phòng lãnh đạo thực hiện chính sách thương binh liệt sỹ và người có công với cách mạng từ năm 1995 đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 114 trang )

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
PHẠM THỊ XUÂN

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÕNG LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG BINH, LIỆT SỸ VÀ
NGƯỜI CĨ CƠNG VỚI CÁCH MẠNG TỪ NĂM 1995
ĐẾN NĂM 2005
LUẬN VĂN TH.S LỊCH SỬ

Người hướng dẫn: T.S. Trần Văn La

Hà Nội 2006


MỤC LỤC
Mở đầu ................................................................................................... 3
Chƣơng 1. Khái quát việc thực hiện chính sách thƣơng binh liệt sĩ ... 9
1.1. Đặc điểm tự nhiên- xã hội của Thành phố Hải Phòng ................... 9
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên ................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .................................................... 10
1.1.3. Truyền thống đấu tranh ....................................................... 13
1.2. Tình hình thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ và người ....... 16
1.2.1. Những chủ trương của Đảng bộ Hải Phịng với cơng tác ..... 16
1.2.2. Tình hình thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người22
1.2.3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình tổ choc 26
Chƣơng 2: Quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng vận dụng ......... 30
2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về chính sách .................. 30
2.1.1. Những quan điểm cơ bản .................................................... 30
2.1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đường lối, chính sách ....... 34
2.2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện chính sách ............ 36


2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hải Phịng về cơng tác . 36
2.2.2.Q trình thực hiện ..................................................... 38
Chƣơng 3. Ý nghĩa và một số kinh nghiệm trong quá trình tổ chức ....... 62
3.1. Ý nghĩa ...................................................................................... 62
3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................... 64
3.2.1. Nhận thức đúng tầm quan trọng, vận dụng đúng nội dung ... 64
3.2.2. Thường xuyên gắn chặt công tác thương binh, liệt sĩ .......... 67
3.2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tạo ra phong trào71
Kết luận ................................................................................................ 75
Danh mục tài liệu tham khảo .............................................................. 78
Phụ lục ................................................................................................. 92

1


BẢNG QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

- Chủ nghĩa xã hội

: CNXH

- Chính sách xã hội

: CSXH

- Chỉ tiêu phát triển con người

: HDI

- Tổng sản phẩm quốc nội


: GDP

- Thương binh xã hội

: TBXH

- Uỷ ban nhân dân

: UBND

- Vườn - Ao - Chuồng

: VAC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách đối với thương binh, liệt sỹ và người có cơng với cách
mạng là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chính
sách này khơng chỉ hàm chứa sự kế tiếp và phát huy truyền thống, đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, mà cịn có ý nghĩa chính trị, xã hội
và nhân văn. Làm tốt cơng tác này sẽ giải quyết được những vấn đề khó
khăn về kinh tế, tinh thần cho những người thuộc chế độ chính sách có
cơng với cách mạng; góp phần xây đắp nền tảng đạo đức xã hội - yếu tố
tạo nên sự bền vững cho đất nước bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố và
hiện đại hố.
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đối

với các đối tượng chính sách trên thơng qua việc ban hành và thực hiện
nhiều chính sách, chế độ và thường xun bổ sung, sửa đổi, hồn chỉnh
chính sách để phù hợp với thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng. Gần
đây nhất, Đảng và Nhà nước ta ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh quy
định danh hiệu vinh dự Nhà nước: “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” và Pháp
lệnh “Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương
binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có cơng giúp đỡ
cách mạng”.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, trong những năm
1995 - 2005, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng là một
trong những địa phương thực hiện tốt và có hiệu quả về chính sách thương
binh, liệt sỹ và người có cơng với cách mạng, như: Phong trào tặng “sổ
tiết kiệm tình nghĩa”, phong trào “ngơi nhà tình nghĩa”, nổi bật nhất là
phong trào “Chăm sóc, phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Cũng chính vì vậy, Thành phố Hải Phòng đã được Bộ Lao động Thương

3


binh - Xã hội đánh giá cao và lấy đó làm điểm nhân rộng phong trào này
trong cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, tổ chức và thực hiện
cơng tác này của Đảng bộ Thành phố Hải Phịng, có nhiều nội dung thuộc
về chính sách, biện pháp thực hiện cần phải điều chỉnh, bổ sung và ngày
càng hoàn chỉnh hơn, đặc biệt từ thực tiễn về vai trò lãnh đạo và tổ chức
thực hiện của Đảng bộ địa phương để rút ra những kinh nghiệm cho các
Đảng bộ địa phương trong cả nước lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt hơn
chính sách thương binh, liệt sỹ và người có cơng với cách mạng.
Xuất phát từ những u cầu, mục đích khoa học và thực tiễn trên,
chúng tơi chọn vấn đề: “Đảng bộ Thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực
hiện chính sách thương binh, liệt sỹ và người có cơng với cách mạng từ

năm 1995 đến năm 2005” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề và nguồn tài liệu
Chính sách thương binh, liệt sỹ và người có cơng với cách mạng là
một nội dung lớn trong đường lối chính sách chung của Đảng và Nhà
nước ta, bởi vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu nó không chỉ thuộc về trách
nhiệm của những cơ quan lãnh đạo, xây dựng chính sách và quản lý, mà
cịn là nghĩa vụ và trách nhiệm của các nhà khoa học và quản lý. Cũng
chính vì vậy, nhiều cơ quan, tập thể, cá nhân các nhà khoa học và quản lý
quan tâm, nghiên cứu nội dung trên, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Cụ thể là:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Cục Thương binh - Liệt sĩ
và Người có cơng với cách mạng: “Những căn cứ để bổ sung, sửa đổi
thẩm quyền và hoàn thiện thủ tục hành chính để thực hiện chính sách đối
với từng loại đối tượng người có cơng”, “Xác định những nội dung cụ thể
để sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh ưu đãi người có cơng” (xuất bản năm
2000). “Một số suy nghĩ và hồn thiện pháp luật ưu đãi người có công”

4


của TS. Nguyễn Đình Liêu, Nxb Chính trị quốc gia, 2000. “Sổ tay công
tác thương binh liệt sĩ” do Vụ Tuyên truyền (Ban Tư tưởng - Văn hoá
Trung ương) và Cục Thương binh - Liệt sĩ và Người có cơng với cách
mạng (Bộ Lao động Thương binh và xã hội) Hà Nội, 2002 phát hành.
Ngồi những cơng trình cơ bản trên, chính sách thương binh, liệt sĩ
cịn được đề cập ở một số cơng trình nghiên cứu khác đã được đăng tải
trên các tạp chí khoa học, báo hàng ngày, như: “Hải Phịng chăm sóc
thương binh gia đình liệt sĩ” của Minh Sơn, Báo Nhân Dân ra ngày
25/8/1989. “Kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức thực hiện tốt

chính sách thương binh liệt sĩ trong thời kỳ mới” của Lê Văn Hân đăng
trên Tạp chí Quốc phịng toàn dân, số 7, 1997. “Tiếp tục đổi mới và thực
hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa trong thời kỳ mới” của Nguyễn Thị
Hằng đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 2000. “Thực hiện tốt chính
sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có cơng
với cách mạng - Một nhiệm vụ chính trị xã hội quan trọng” của TS.
Nguyễn Đình Liêu đăng trên Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 7 năm
2004. “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cơng tác chính sách thương
binh liệt sĩ và ưu đãi người có cơng” của Bùi Văn Huấn đăng trên Tạp chí
Quốc phịng tồn dân, số 7, năm 2005…
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu trên khơng những chỉ là nguồn
tài liệu tham khảo có giá trị, mà cịn gợi mở cho chúng tôi nhiều vấn đề
thuộc về lý luận và thực tiễn của chủ đề trên cần phải tiếp tục giải quyết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Đề tài luận văn thực hiện nhằm góp phần làm rõ:
- Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về chính sách thương binh
liệt sĩ và người có công với cách mạng;

5


- Q trình Đảng bộ thành phố Hải Phịng vận dụng những quan
điểm trên của Đảng vào công tác lãnh đạo thực hiện chính sách thương
binh liệt sĩ và người có cơng với cách mạng ở địa phương;
- Bước đầu rút ra ý nghĩa, kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo thực
hiện chính sách thương binh liệt sĩ và người có cơng với cách mạng của
Đảng bộ thành phố Hải Phịng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Khái quát những quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về chính sách thương binh liệt sĩ và
người có cơng với cách mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới;
- Hệ thống, phân tích vai trị lãnh đạo, tổ chức và thực hiện chính
sách thương binh liệt sĩ, người có cơng với cách mạng của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng trong hơn 10 năm qua (1995 - 2005). Và trên cơ sở đó nêu
bật những thành công, hạn chế của việc thực hiện chính sách này.
- Từ những kết quả của q trình thực hiện chính sách thương binh
liệt sĩ và những người có cơng với cách mạng dưới sự lãnh đạo của một
Đảng bộ cơ sở (Đảng bộ thành phố Hải Phòng), luận văn bước đầu đề
xuất những kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo, tổ chức và thực hiện
chính sách trên đối với các Đảng bộ cơ sở trong cả nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò lãnh đạo của Đảng
bộ thành phố Hải Phịng trong q trình triển khai chủ trương, đường lối
của Đảng; lãnh đạo, tổ chức và thực hiện chính sách trên.
- Phạm vi nghiên cứu: Từ năm 1995 đến năm 2005.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

6


Nguồn tài liệu chính, có sức thuyết phục và tin cậy để thực hiện đề
tài luận văn này có thể phân loại thành các nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất gồm các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX, X; các Nghị
định của Chính phủ quy định về chế độ trợ cấp, điều chỉnh mức trợ cấp,
quy định chi tiết và hướng dẫn việc thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu
đãi người có cơng với cách mạng, Ban hành điều lệ xây dựng và quản lý

quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; các văn bản thuộc về chính sách, quy định, quy
chế của Bộ Lao động và Thương binh liệt sĩ trong gần hai thập kỷ đối mới
(1986 - 2005) và các bài viết về vấn đề trên của các đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây.
Nhóm tài liệu này khơng chỉ trang bị cho chúng tôi về mặt lý luận,
tư tưởng chỉ đạo trong chủ trương, đường lối của Đảng về chính sách đối
với thương binh, liệt sĩ và gia đình những người có cơng với cách mạng
trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước - giai đoạn công nghiệp hố,
hiện đại hố mà cịn đề ra những bước, phương pháp tổ chức và quy định
thực hiện chính sách trên cho các Đảng bộ cơ sở.
Nhóm tài liệu thứ hai gồm các Báo cáo, Chỉ thị, Thông tri của
Thành uỷ, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hải Phòng về tăng cường
cơng tác quản lý, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, chăm sóc gia
đình có cơng với cách mạng; triển khai và thực hiên các Pháp lệnh ưu đãi
người có cơng với cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng… Báo cáo Đại
hội Đảng bộ của các sở, phòng - ban chức năng, các quận - huyện thuộc
sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng từ năm 1995 đến 2005. Cụ
thể là: Quận uỷ Đồ Sơn, Quận uỷ Hồng Bàng, Quận uỷ Lê Chân, Huyện
uỷ Kiến Thuỵ, Huỵên uỷ Thuỷ Nguyên… Sau nữa là các kế hoạch, báo
cáo tổng kết của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc,
các ban ngành chức năng của thành phố Hải Phòng trong những năm qua.

7


Nguồn tài liệu này là nguồn tài liệu gốc, có độ tin cậy và cũng là
nguồn tài liệu chủ yếu để chúng tơi thực hiện luận văn.
Nhóm tài liệu thứ ba, theo chúng tơi cũng rất có giá trị - kết quả
khảo sát trên cơ sở phát phiếu điều tra xã hội học ở một số xã, phường,
quận và cơ quan tiêu biểu của Hải Phòng về việc thực hiện chính sách

thương binh liệt sĩ và người có cơng với cách mạng.
Luận văn được thực hiện bằng những phương pháp sau: phương
pháp nghiên cứu lịch sử Đảng, phương pháp tổng hợp, thống kê và phân
tích, kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học. Các phương pháp trên
được vận dụng phù hợp với từng nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận trong chính sách
thương binh liệt sĩ và người có cơng với cách mạng của Đảng và sự vận
dụng những lý luận đó trong việc tổ chức thực hiện của một Đảng bộ địa
phương.
- Đánh giá những thành tựu, chỉ ra những hạn chế trong công tác
lãnh đạo và tổ chức thực hiện của một Đảng bộ địa phương (trường hợp
Đảng bộ Hải Phòng), luận văn rút ra một số kinh nghiệm với mục đích để
các Đảng bộ địa phương khác tham khảo và áp dụng trong q trình lãnh
đạo thực hiện chính sách trên.
- Luận văn còn là tài liệu tham khảo thiết thực cho công tác nghiên
cứu và giảng dạy ngành Lịch sử Đảng, Lịch sử hiện đại Việt Nam và cho
các ngành quản lý có liên quan đến cơng tác thực hiện chính sách thương
binh liệt sĩ và người có cơng với cách mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát việc thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ
và người có cơng với cách mạng ở thành phố Hải Phòng giai đoạn (1986 1994).

8


Chương 2. Q trình Đảng bộ thành phố Hải Phịng vận dụng quan
điểm của Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ và người

có cơng với cách mạng giai đoạn (1995 - 2005).
Chương 3. Ý nghĩa và một số kinh nghiệm trong quá trình tổ chức và
thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ và người có công với cách mạng từ
một đảng bộ cơ sở.

9


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
THƢƠNG BINH LIỆT SĨ VÀ NGƢỜI CĨ CƠNG VỚI CÁCH
MẠNG
Ở HẢI PHỊNG GIAI ĐOẠN (1986 - 1994)
1.1. Đặc điểm tự nhiên- xã hội của Thành phố Hải Phòng
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Hải Phòng là một thành phố được hình thành từ những năm 70 của
thế kỷ XIX, có nhiều lợi thế về địa - địa lý, địa - kinh tế, địa - quân sự và
giao thương quốc tế.
Từ Cửa Cấm, cùng với sông Tam Bạc, một vùng đất của Thị dân
cửa biển dần dần được hình thành ở khu vực dun hải phía Đông Bắc
Việt Nam. Những biến động tự nhiên - lịch sử cịn ghi đậm dấu tích ở Cát
Hải, Cát Bà, Đồ Sơn, Thuỷ Nguyên, di chỉ Tràng Kênh, Việt Khê (văn
hố Phùng Ngun), Cái Bèo (Văn hóa Hạ Long)...
Nơi đây đã có cư dân người Việt sinh sống từ lâu, qua nhiều thế kỷ
lấn biển và nhiều lần hợp, tách, Thành phố ngày nay đã được định hình là
một đơn vị hành chính. Phía Bắc giáp Quảng Ninh, phía Nam giáp Thái
Bình, phía Tây giáp Hải Dương và cịn phía Đơng là biển.
Hải Phịng nằm trong hệ toạ độ địa lý từ vĩ độ 20030’39’’ đến
21001’15’’ vĩ bắc, từ kinh độ 1060 23’39 ’’ đến 107008’39’’ kinh độ Đông
[104, tr.18]. Với các điểm cực Bắc qua thôn Phi Liệt, xã Lại Xuân, huyện

Thuỷ Nguyên; điểm cực Nam qua xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo; điểm
cực tây qua thôn Oai Nỗ, xã Hiệp Hồ, huyện Vĩnh Bảo; điểm cực Đơng
là ranh giới trên biển giữa Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua vịnh Lan Hạ và
phía đơng Cát Bà.
Về phía Bắc và Đơng Bắc, Hải Phịng tiếp giáp Quảng Ninh khu
cơng nghiệp than lớn nhất nước ta trên độ dài 54km2 với sông Đá Bạch -

10


Bạch Đằng, một nhánh của Sông Kinh Môn đổ ra biển qua cửa Nam
Triệu, làm ranh giới tự nhiên.
Về phía Tây Bắc, Hải Phòng giáp với Hải Dương trên gần 100km2
và phía Tây Nam giáp với Thái Bình gần 40km2 dài dọc theo Sơng Luộc
và Sơng Hố. Đây là hai tỉnh lúa gạo trù phú của Đồng Bằng Bắc Bộ.
Về phía Đơng của thành phố là dải bờ biển dài có bãi biển Đồ Sơn
nổi tiếng và ngồi khơi khơng xa là hệ thống đảo, trong đó lớn nhất là đảo
Cát Bà với hơn 360 hòn đảo lớn, nhỏ, xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ cách
thành phố 136km về phía Tây Bắc.
Hải Phịng có một mạng lưới sơng ngịi gồm 16 con sông với tổng
số chiều dài 341km, trong đó có 5 cửa sơng chính của hệ thống sơng Thái
Bình (sơng Nam Triệu, sơng Cấm, sơng Lạch Tray, sơng Văn Úc, sơng
Thái Bình).
Với vị trí như vậy, Hải Phịng có quan hệ trực tiếp về hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội với Thủ đô Hà Nội, với các tỉnh đồng bằng Bắc
bộ, đồng thời Hải Phòng còn là đầu mối của đường biển, đường sông,
đường bộ ,đường sắt, đường hàng khơng vươn tới các vùng trong và ngồi
nước.
Hải Phịng có số dân 1,775 triệu người, với 5 quận: Hồng Bàng,
Ngô Quyền, Lê Chân, Kiến An, Hải An; 8 huyện: Thuỷ Nguyên, An

Dương, An Lão, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Cát Hải, huyện đảo
Bạch Long Vĩ và 1 thị xã Đồ Sơn. Dân số chủ yếu là người Kinh, có
4.024 người Hoa chiếm 0,2% dân số thành phố.
Ngày nay, Hải Phòng là một hải cảng quốc tế, một trung tâm kinh tế
quan trọng và là thành phố thứ ba của nước ta. Hải Phịng có diện tích đất
liền 1.519km2, khu vực nội thành chiếm trên 1,7%, nằm giữa một vùng
ngoại thành rộng lớn tiếp cận vùng biển với nhiều đảo và quần đảo ở
ngoài khơi.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

11


Tính chất đa dạng và phong phú của điều kiện tự nhiên đã làm cho
Hải Phòng trở thành một trong những thành phố phát triển năng động về
kinh tế-xã hội. Đặc biệt với ưu thế về cảng được trang bị kỹ thuật hiện đại
và có cơng suất cao nhất nước ta, Hải Phòng là một đầu mối quan trọng
mở rộng quan hệ thông thương giữa các miền của tổ quốc và thế giới. Nối
liền Cảng Hải Phòng là hệ thống giao thơng mang tính liên hồn đường
biển, đường sơng, đường sắt, đường bộ thuận lợi cho việc phát triển kinh
tế thành phố đặc biệt là kinh doanh vận tải đường thuỷ và hàng hải.
Những con sông Bạch Đằng, Cấm, Thái Bình, Lạch Tray tạo thành
mạng lưới đường thuỷ rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hố từ Hải
Phịng tới các miền khác nhau của đất nước. Đường bộ có Quốc lộ 5,
Quốc lộ 10, đồng thời từng bước cải tiến nâng cấp hệ thống đường thành
phố quản lý gồm đường 353, đường 351, 354, 355, 356, 357, 358 và
đường bao ra thành phố, tạo ra môi trường hoạt động cho nền kinh tế và
con người Hải Phòng. Tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội đang từng
bước được cải tạo, nâng cấp phục vụ nhân dân đi lại hàng nghìn
khách/chuyến/ngày.

Cùng với sự phát triển chung của đất nước, hệ thống bưu chính viễn
thơng tiếp tục phát triển nhanh, đạt bình quân 17 máy điện thoại/100 dân
vào năm 2005. Hệ thống điện, nước của Hải Phòng được nâng cấp đáp
ứng yêu cầu của nhân dân.
Với vị trí là một trung tâm cơng nghiệp lớn của cả nước, cơng
nghiệp Hải Phịng đang từng bước được cải tiến theo chiều sâu về quy
trình cơng nghệ, thiết bị mới như dây chuyền may mặc và sản xuất giày
dép xuất khẩu hiện đại; công nghiệp nặng đặc thù của thành phố được chú
trọng như đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, sà lan, chế tạo phụ tùng và
sản xuất động cơ cho các phương tiện vận tải thuỷ, phát triển các ngành
cơ khí có sản phẩm độc đáo như khố, cân, máy cắt tơn, luyện cán thép;

12


công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản là một lợi thế của thành phố
trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và góp phần xuất khẩu.
Bên cạnh đó Hải Phịng có lực lượng vận tải thuỷ mạnh, có đội ngũ cơng
nhân đơng đảo, giàu truyền thống cách mạng, lành nghề và thợ thủ công
khéo léo với nhiều mặt hàng truyền thống đa dạng nổi tiếng.
Công nghiệp Hải Phòng đã đạt được một số kết quả, song còn nhiều
mặt hạn chế: hiệu quả kinh tế thấp, chưa vững chắc, tốc độ chưa tương
xứng với tiềm năng, yêu cầu phát triển của thành phố cảng.
Hải Phịng có ngoại thành rộng, trù phú, có biển, có sơng, có núi, có
điều kiện để xây dựng các liên hiệp sản xuất công - nơng - ngư nghiệp với
quy mơ lớn, có tiềm năng về kinh tế và cho hiệu quả khai thác cao. Nơi
đây cũng là một trong những trung tâm nghỉ mát, dịch vụ có nhiều triển
vọng phát triển kinh doanh dịch vụ.
Khoa học, cơng nghệ, mơi trường có nhiều tiến bộ, gắn kết với phục
vụ sản xuất đời sống và hội nhập kinh tế quốc tế, tốc độ đổi mới cơng

nghệ trong các ngành kinh tế đạt mức tăng bình quân 13-15%/năm. Công
nghệ cao được chú ý ứng dụng, trên một số lĩnh vực bước đầu đạt kết quả
tốt. Công nghệ thơng tin đã có bước phát triển cả về xây dựng cơ sở hạ
tầng và triển khai ứng dụng. Trung tâm công nghệ phần mềm được đầu tư
xây dựng, đi vào hoạt động. Số người khai thác, sử dụng dịch vụ Intemet
ngày càng tăng, đến nay đã có hơn 4.000 thuê bao; trang web của thành
phố đã đưa vào sử dụng.
Cơng tác bảo vệ mơi trường ở Hải Phịng được quan tâm đẩy mạnh,
tập trung kiểm soát ở các khu vực trọng điểm về ô nhiễm, khai thác và sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học.
Giáo dục đào tạo có bước phát triển cả về quy mô và chất lượng ở
các ngành học, cấp học. Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập
trung học cơ sở, đang tiến hành phổ cập trung học phổ thông. Hệ thống

13


các trường và trung tâm dạy nghề được đầu tư, nâng cấp bước đầu đáp
ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực được
nâng lên. Theo kết quả điều tra ở Hải Phòng năm 2000, tổng số lao động
đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân trên địa bàn thành phố là
850.756 người, trong đó có 216 tiến sĩ, 817 thạc sĩ, 33.174 đại học
và12.320 cao đẳng, 38.529 trung học, 75.012 công nhân kỹ thuật. Tính
bình qn, đạt tỷ lệ 2,6 người có trình độ đại học, cao đẳng/1000 dân; 22
người trình độ trung học nghề/1000 dân; 19 công nhân kỹ thuật/1000 dân.
Các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, dân số, gia đình, thể dục,
thể thao, các hoạt động văn hố thơng tin, báo chí, phát thanh truyền hình
tiếp tục phát triển. Việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc đạt được những kết quả bước đầu rất quan
trọng. Giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc đạt kết quả tích cực, thực hiện

tốt chính sách với người có cơng, người bị ảnh hưởng chất độc màu da
cam. Việc phòng chống các tệ nạn xã hội được triển khai sâu rộng, bằng
những giải pháp khá kiên quyết, đồng bộ.
Công tác đối ngoại được mở rộng, đồng thời với việc đẩy mạnh hợp
tác với các địa phương trong cả nước, đạt kết quả cao. Thu hút vốn đầu tư
nước ngoài dần phục hồi và tăng khá nhanh trong những năm gần đây.
Là cửa ngõ của đất nước, trong những năm qua, Hải Phịng ln giữ
vững sự ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt
việc kết hợp phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng an ninh. Các lực
lượng vũ trang ngày càng trưởng thành và phát triển vững mạnh. Cơng tác
xây dựng Đảng, chính quyền, vận động quần chúng nhân dân được tăng
cường. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố được sâu đậm hơn.
1.1.3. Truyền thống đấu tranh

14


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Hải Phịng đã có
những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
và bảo vệ đất nước. Mở đầu truyền thống đánh giặc là hình tượng nữ
tướng Lê Chân dẫn đầu đoàn quân, dưới cờ khởi nghĩa của Hai Bá Trưng
đánh giặc phương Bắc để giành lại chủ quyền dân tộc. Tiếp các thế kỷ sau
đó, Hải Phịng cịn gắn liền với những chiến cơng hiển hách ba lần đánh
giặc phương Bắc trên sông Bạch Đằng (năm 938, 981 và 1288), với cuộc
kháng chiến chống Minh thế kỷ XV, khởi nghĩa nông dân cuối thể kỷ
XVI, XVIII và đầu thế kỷ XIX.
Là một hải cảng, một khu công nghiệp lớn, nên đội ngũ của giai cấp
công nhân Thành phố Cảng trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và
sự chuyển biến về ý thức chính trị giai cấp. Vì vậy, Hải Phịng cũng là nơi

đầu tiên tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng
Mác-Lênin qua những trang sách báo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, do
những thuỷ thủ yêu nước và những chiến sĩ cách mạng truyền bá vào, chủ
nghĩa Mác-Lênin đã nhanh chóng kết hợp với phong trào cơng nhân đưa
đến sự ra đời của những chi bộ cộng sản đầu tiên vào cuối năm 1929 ở
nhà máy xi măng và Cảng, ngay sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng
thành lập ở Bắc Kỳ vào tháng 6 năm 1929.
Từ năm 1930 đến năm 1945, phong trào đấu tranh của công nhân
Hải Phịng đã thu hút đơng đảo quần chúng thành một làn sóng cách mạng
dân tộc dân chủ. Đó cũng là thời kỳ đấu tranh quyết liệt và gian khổ do sự
đàn áp tàn bạo của quân thù. Nhiều đảng viên và quân chúng đã nêu cao
tinh thần hy sinh cho lý tưởng cộng sản và sự nghiệp giải phóng dân tộc
như Nguyễn Đức Cảnh, Lương Khánh Thiện… những giọt máu cộng sản
nhỏ trên đất Hải Phòng đã hun đúc thêm truyền thống yêu nước bất khuất
và góp phần đưa thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ngày 23.8.1945 ở
Hải Phòng.

15


Hải Phòng là thành phố đi trước các tỉnh miền Bắc trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (từ 20.1.1946) và cũng là thành phố giải
phóng sau cùng. Ngày 13.5.1955 những tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi
Hải Phịng mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta nói chung, của nhân dân
Hải Phịng nói riêng.
Từ năm 1955 đến 1965, Hải Phòng hân hoan bước vào cuộc sống
mới hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng chế độ mới. Trong thời
gian này, người Hải Phòng đã dũng cảm vượt qua mn vàn khó khăn để
lớn mạnh lên. Nhà máy xi măng, Cảng Hải Phịng và nhiều xí nghiệp cũ
đã được khôi phục cải tạo và mở rộng. Đồng thời nhiều nhà máy mới mọc

lên trên bờ sông Cấm và sơng Tam Bạc.
Nhưng có thể nói chưa bao giờ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của
nhân dân Hải Phòng được phát huy cao độ như trong thời kỳ chống Mỹ,
cứu nước đặc biệt trong những năm 1965 - 1975. Đế quốc Mỹ coi Hải
Phòng là một trọng điểm trong toàn bộ kế hoạch đánh phá miền Bắc.
Chúng đã huy động hàng ngàn máy bay các loại, hàng vạn tấn bom đạn
với những chiến dịch “sấm rền”, “biển lửa” hòng làm tê liệt sản xuất công
nghiệp và cắt đứt mọi con đường nối liền Hải Phịng với các tỉnh miền
Bắc.
Chính trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, sức mạnh của chủ
nghĩa xã hội và của người dân đất cảng đã nhân lên gấp bội. Giai cấp công
nhân nắm chắc tay búa, tay súng vừa đảm bảo sản xuất vừa chiến đấu quật
ngã các loại máy bay hiện đại của Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái. Giai cấp
nông dân Hải Phòng cũng vừa đánh giặc vừa thâm canh lúa giỏi. Tự vệ
cảng Hải Phịng ngồi việc chiến đấu dũng cảm chống máy bay Mỹ cịn
thơng minh tháo gỡ bom mìn, mở luồng cho tàu bè ra vào bến cảng an
toàn…

16


Vừa xây dựng vừa chiến đấu, Hải Phòng cũng làm tròn nghĩa vụ với
tiền tuyến lớn miền Nam. Hàng vạn thanh niên Hải Phòng đã lên đường
vào Nam chiến đấu; và nhiều người con thân yêu của Hải Phòng đã ngã
xuống góp phần xương máu cho sự nghiệp đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược.
Với tất cả những thành tựu đó, Hải Phịng đã vinh dự được 9 lần
đón Bác về thăm và nhiều lần Bác viết thư, viết báo để động viên; chỉ dẫn cho
cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Hải Phòng. Người đã tặng Hải Phòng 4 chữ vàng
“Trung Dũng, Quyết Thắng”, Huân chương Độc lập Hạng Nhất, 200 Huy

hiệu của Người và nhiều phần thưởng cao quý khác. Nhà nước phong tặng 10
tập thể và 19 cá nhân danh hiệu anh hùng trong chiến đấu và lao động sản
xuất…
Hưởng ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Hải
Phịng đã khơng ngừng khắc phục mọi khó khăn, vươn lên lao động và
sáng tạo, làm cho đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện tạo ra
những tiền đề thuận lợi để Hải Phòng thực hiện tốt chính sách thương
binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng góp phần vào sự phát triển
chung của thành phố và đất nước.
1.2. Tình hình thực hiện chính sách thƣơng binh liệt sĩ và ngƣời
có cơng với cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hải
Phòng trong những năm 1986-1994
1.2.1. Những chủ trương của Đảng bộ Hải Phịng với cơng tác
thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng
Chính sách thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng là
một trong những chính sách xã hội cơ bản và đặc biệt quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Cùng với hệ thống chính sách chung của Nhà nước,
nó đã góp phần to lớn vào sự ổn định và phát triển xã hội. Mặt khác, thực

17


hiện tốt chính sách này cũng chính là thực hiện đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã trải qua các cuộc
kháng chiến trường kỳ giành độc lập tự do và bảo vệ Tổ quốc. Vì sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã
hiến dâng sức lực, tuổi trẻ, và cả xương máu trong những năm chiến tranh
khốc liệt, trong đó có sự hy sinh của lớp lớp thanh niên ưu tú thành phố
Hải Phòng.

Trong bức thư gửi Ban thường trực của Ban tổ chức “Ngày thương
binh toàn quốc” ngày 27 tháng 7 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương
máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của tổ quốc, của đồng
bào mà các đồng chí đó chịu ốm yếu. Vì vậy, tổ quốc và đồng bào phải
biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy” [4, tr.19].
Trước lúc đi xa, trong bản di chúc để lại Bác Hồ thiết tha căn dặn:
“Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây
dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhớ sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ
để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ,
vợ, con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu thì
chính quyền địa phương (nếu ở nơng thơn thì chính quyền xã cùng hợp
xác xã nơng nghiệp) phải giúp đỡ họ có cơng ăn việc làm thích hợp, quyết
khơng để họ bị đói rét” [5, tr.32].
Thấm nhuần quan điểm tư tưởng của Bác Hồ, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn quan tâm chăm lo đến đời sống của thương binh, liệt sĩ và
người có cơng với cách mạng ở mỗi thời kỳ cách mạng. Chủ trương,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà nước về tổ
chức và thực hiện chính sách cho các đối tượng trên dần dần được bổ

18


sung, hồn chỉnh và cụ thể hố để phù hợp với thực tế xã hội ở mỗi thời
điểm cách mạng của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt
Nam(12.1976) đã khẳng định:
“Săn sóc và giúp đỡ chu đáo thương binh, gia đình liệt sĩ và người
có cơng với cách mạng. Tích cực chữa bệnh và thương tật, bồi dưỡng sức
khoẻ của thương binh, cung cấp phương tiện và dụng cụ chuyên dùng cần

thiết; tổ chức tốt việc dạy nghề và bố trí cơng việc thích hợp cho thương
binh. Thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ đối với thương binh và gia
đình liệt sĩ” [12, tr.60].
Tiếp tục khẳng định nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta
đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) chỉ
rõ:
“Đảng, nhà nước và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn của các
liệt sĩ, thương binh” [13, tr.107].
Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12.1986)
đã vạch ra con đường đổi mới tồn diện và triệt để. Đó là sự kết tinh trí
tuệ của tồn Đảng, tồn qn, tồn dân, đồng thời cũng thể hiện tinh thần
trách nhiệm của Đảng ta trước đất nước và dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi
mới đất nước, cùng với đổi mới về chính sách kinh tế, Đảng ta đã từng
bước thực hiện đổi mới chính sách xã hội. Cụ thể là:
“Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả
các chính sách xã hội. Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của
con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất [14,
tr.221].

19


Phương hướng nhiệm vụ của từng chính sách xã hội, trong lĩnh vực
chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, người có cơng với cách mạng,
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh:
“Ưu tiên sắp xếp việc làm, tuyển lao động, tuyển sinh và chăm lo
việc học của thương binh, con liệt sĩ, quân dân đã hoàn thành nghĩa vụ
quân sự. Tổ chức ni dưỡng và chăm sóc chu đáo thương binh, bệnh
binh, thân nhân liệt sĩ và những người có cơng với cách mạng” [14, tr.95].

Bước vào thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, cùng với sự phát
triển mọi mặt của đất nước. Đảng ta hết sức quan tâm đến việc thực hiện
chính sách thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng. Tại Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng (6.1991) đã khẳng định:
“Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
những người có cơng với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà
nước, vừa là trách nhiệm của tồn dân”.
u câù bức thiết trong q trình tổ chức và thực hiện chủ trương
trên là:
“Sớm ban hành chế độ tồn dân đóng góp vào quỹ đền ơn đáp nghĩa
để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và người có cơng với
cách mạng” [15, tr.74].
Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm vụ khố VII
(1.1994) cũng nhấn mạnh “Lập quỹ toàn dân đền ơn, đáp nghĩa những
người có cơng với nước” [16, tr.48].
Như vậy, ghi nhớ sự hy sinh và công lao của các thương binh, liệt sĩ
và những người có cơng với cách mạng luôn luôn được coi là một nhiệm
vụ quan trọng, một chủ trương lớn trong đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trải qua các kỳ Đại hội, chủ trương ấy, nhiệm vụ ấy
ngày càng được sát thực hơn với sự phát triển của xã hội và bù đắp được
phần nào đó cho sự hy sinh và mất mát của các đối tượng trên.

20


Với tư tưởng nêu trên, phong trào toàn dân chăm sóc thương binh,
gia đình liệt sĩ và người có cơng với cách mạng đã động viên mọi nguồn
lực tại chỗ để giúp đỡ cho những người có cơng với cách mạng thơng qua
các chương trình như: xây dựng nhà tình nghĩa, trao tặng sổ tiết kiệm,
nhận đỡ đầu trợ giúp bố mẹ liệt sĩ cô đơn, con liệt sĩ không nơi lương tựa,

tổ chức đưa thương binh nặng về an dưỡng tại gia đình, khuyến khích
thương binh, gia đình liệt sĩ làm kinh tế giỏi, xây dựng quỹ đền ơn đáp
nghĩa.
Quán triệt quan điểm và thực hiện chủ trương trên của Đảng và Nhà
nước, trong những năm qua (trước 1995), Đảng bộ Thành phố Hải Phòng
đã chỉ đạo các Đảng bộ cơ sở tổ chức và thực hiện nghiêm túc chính sách
thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách mạng trên các quận, huyện,
phường và xã trong địa bàn thành phố. Kết quả của công tác này được Uỷ
ban Nhân dân Thành phố tổng kết và đánh giá như sau:
“Vừa qua nhìn chung các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ngành, đoàn
thể, các cơ quan, cơ sở sản xuất và nhân dân thành phố đã có nhiều cố
gắng và làm được nhiều việc tốt về chăm sóc, động viên và thi hành các
chính sách về quy định của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có cơng với cách mạng. Tuy nhiên, trong
cơng tác thương binh xã hội cịn có những thiếu sót” [94, tr.1].
Các phong trào như: xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm,
chăm sóc, phụng dưỡng thương binh, gia đình liệt sĩ và người có cơng với
cách mạng… có phát triển nhưng chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân ý thức công tác đền ơn đáp nghĩa chưa sâu, ý thức trách
nhiệm kém, một số nơi cấp uỷ Đảng chỉ đạo chưa cụ thể, sát sao nên một
số gia đình chính sách vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Trước tình hình trên, Thành uỷ Hải Phòng chủ trương:

21


“Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo chỉ đạo công tác thương binh xã
hội với mục tiêu: Làm cho những người được hưởng chính sách thương
binh xã hội ổn định về đời sống vật chất, phấn khởi yên tâm về tinh thần;
phấn đấu đến năm 1990 tất cả những người và gia đình có cơng có mức

sống vật chất ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân địa phương,
khơng để gia đình nào q khó khăn” [94, tr.2]. Để thực hiện được yêu
cầu đề ra, Thành uỷ Hải Phòng đã chỉ đạo cho các cấp uỷ Đảng, các ban,
ngành, đoàn thể mở một đợt tuyên truyền giáo dục sâu rộng về phong trào
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây’ cho cán bộ, đảng viên,
quân và dân thành phố, đặc biệt là thế hệ trẻ nhận thức rõ tình hình, nhiệm
vụ cách mạng, trách nhiệm đối với công tác thương binh xã hội.
Tiếp những năm sau đó, Thành uỷ và Đảng bộ Hải Phịng đã cố
gắng từng bước quán triệt đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh
và vận dụng sáng tạo đường lối đó vào địa phương, đề ra những chủ
trương và biện pháp đúng đắn thích hợp góp phần làm giảm nhẹ phần nào
khó khăn về vật chất và tinh thần của thương binh, gia đình liệt sĩ và
người có cơng với cách mạng; đồng thời những đối tượng này được hưởng
chính sách, chế độ một cách trọn vẹn.
Tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX, nhiệm kỳ 1986-1990 đã
nêu: “Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương binh, gia đình liệt sĩ ổn
định đời sống. Những gia đình q khó khăn có thể giúp đỡ vốn ban đầu
và hướng dẫn họ biết cách làm ăn. Đối với gia đình khơng có nhà ở hoặc
có nhưng q rách nát, chính quyền và đoàn thể phát động quần chúng
dựa vào tập thể làm cho họ” [98, tr.85].
Cụ thể hoá chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Chính
phủ về ưu đãi đối với thương binh, liệt sĩ và người có cơng với cách
mạng, Đảng bộ thành phố đã chỉ đạo nâng cao và mở rộng phong trào đền
ơn, đáp nghĩa theo tinh thần Chỉ thị số 08 (7.1987), Chỉ thị số 22 (3.1989)

22


của Thành uỷ. Cụ thể là: các cấp uỷ Đảng, uỷ ban nhân dân các cấp, các
ngành, đoàn thể quần chúng tổ chức quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại

hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về
công tác thương binh xã hội, kiểm điểm việc thực hiện chính sách ở địa
phương, ở đơn vị mình, chỉ ra những việc đã làm và những việc chưa làm
để từ đó đề ra những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể nhằm làm tốt hơn nữa
việc thực hiện chính sách chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ;
khuyến khích giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ phát triển sản xuất
và dịch vụ bằng mọi hình thức. Ngành nơng nghiệp, thuỷ sản hướng dẫn
các hợp tác xã ưu tiên cho thương binh, gia đình liệt sĩ về diện tích khốn,
xây dựng định mức và các điều kiện sản xuất để trồng trọt, chăn ni nhất
là đối với gia đình thương binh nặng, gia đình liệt sĩ neo đơn, gia đình có
nhiều khó khăn. Các ngành lao động, giáo dục chuyên nghiệp, tổ chức
chính quyền cần ưu tiên trong việc tuyển sinh, tuyển lao động, kể cả đi
lao động ở nước ngoài đối với thương binh nhẹ, con liệt sĩ, quân nhân
xuất ngũ, làm cho đối tượng này có nghề và có việc làm, chăm sóc sức
khoẻ và đời sống tinh thần của thương binh, gia đình liệt sĩ và người có
cơng với cách mạng; chú trọng tu bổ bền đẹp các nghĩa trang liệt sĩ, bia
ghi tên liệt sĩ và có kế hoạch quản lý tốt.
Tại Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X (vòng I) tháng 4.1991 đã
nhấn mạnh:
“Làm cho vấn đề thực hiện chính sách xã hội đối với các đối tượng
chính sách trở thành một vấn đề lớn phải đặt ra để giải quyết tốt. Đề nghị
Nhà nước có chính sách thoả đáng để đền ơn trả nghĩa gia đình liệt sĩ,
thương binh, người có cơng với cách mạng” [99, tr.42].
1.2.2. Tình hình thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và
người có cơng với cách mạng ở Hải Phòng trong những năm 1986-1994

23


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thành phố Hải Phịng

đã đóng góp to lớn sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần đánh
thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất
tổ quốc. Do ưu thế có cảng lớn duy nhất ở miền Bắc, lại là thành phố cơng
nghiệp tập trung, có bờ biển kéo dài, Hải Phòng phải trực tiếp đương đầu
quyết liệt với hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Từ năm 1965 đến
năm 1973 đế quốc Mỹ đã huy động tới 6.664 lượt chiếc máy bay, ném
17.000 quả bom, bắn hơn 1000 quả rốckét, rải hàng vạn quả mìn và thuỷ
lơi [142, tr.36], gây cho Hải Phịng những thiệt hại to lớn về người và của.
Hàng nghìn người dân của thành phố đã bị chết hoặc tàn phế, hàng trăm
cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, trường học, bệnh viện bị
ném bom dữ dội, hàng vạn mét vuông nhà bị tàn phá, hầu hết các cầu qua
sông bị phá huỷ và chiến tranh đã để lại hậu quả thật nặng nề cho thành
phố Hải Phòng: 3 vạn liệt sĩ, gần 1,5 vạn thương binh và người được
hưởng chính sách, gần 2 vạn người hưởng trợ cấp tuất liệt sĩ [55, tr.1].
Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, Uỷ ban nhân
dân thành phố, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” của thành phố được thực
hiện nghiêm túc, chu đáo, thiết thực và có hiệu quả; tập trung tạo điều
kiện giúp đỡ về việc làm, nhà ở, chăm sóc sức khoẻ, đời sống cho đối tượng
chính sách.
Từ 1986 đến 1994, các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế đã tạo
điều kiện giải quyết việc làm cho gần 20.000 lượt người thuộc diện chính
sách (trong đó có 3.200 con liệt sĩ, con thương binh và thương binh);
2.500 lao động diện chính sách được chọn đi lao động hợp tác nước ngoài.
Hầu hết các địa phương đều coi chương trình việc làm cho con em thương
binh, gia đình liệt sĩ là một trong những chương trình lớn của địa phương.
Các cháu là con thương binh, liệt sĩ được ưu tiên trong học nghề và sắp
xếp việc làm.

24



×