Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thơ lê đạt dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 91 trang )

đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn


trần thị thùy dung

Thơ lê đạt
d-ới góc nhìn t- duy nghệ thuật

chuyên ngành : văn học việt nam
mà số

: 60 22 34

Luận văn thạc sĩ văn học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: pgs.Ts. Nguyễn bá thành

Hà Nội - 2010


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Di sản văn chương của Lê Đạt để lại không thuộc loại nhiều về số
lượng nhưng có độ phong phú và sức nặng của trọng lượng nghệ thuật.
Quan trọng hơn nữa, qua tồn bộ di sản ấy, người ta có thể hình dung
được chân dung của một người lao động văn nghệ đích thực .
Cùng với trần Dần, Lê Đạt đã làm một cuộc cách- tân- thơ âm thầm
trong suốt 30 năm và thế hệ các ông đã ghi dấu khởi đầu cho chặng đường
nhọc nhằn đổi mới của thi ca Việt Nam sau thơ tiền chiến. Thơ Lê Đạt tiêu
biểu cho sự đổi mới về tư duy nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên


cứu thơ ơng từ góc độ tư duy nghệ thuật. Tiếp cận thơ Lê Đạt từ góc độ tư
duy thơ, chúng tơi hi vọng tìm thấy ở đó nhiều vấn đề lý thú và bổ ích
trong hành trình tìm kiếm chân lý nghệ thuật.
1.2. Gần nửa thế kỷ sau sự kiện Nhân Văn- Giai Phẩm, dù cuộc đời đã
sang hướng khác nhưng Lê Đạt vẫn thể hiện tư chất nghệ sĩ của mình
trong những sáng tác, Lê Đạt sau mấy chục năm từng bị coi là có quan
điểm nghệ thuật sai lầm đã được nhà nước và văn giới thấu hiểu, ghi
nhận, tôn vinh. Năm 2007, cùng với ba nhà thơ khác của phong trào Nhân
văn- Giai Phẩm là Trần Dần, Phùng Qn và Hồng Cầm, ơng được nhận
giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Cho đến nay, những giá trị
sáng tạo của nhà thơ đã bước đầu được ghi nhận. Tuy nhiên sự nghiệp
thơ ca của Lê Đạt vẫn chưa được nghiên cứu một cách xứng đáng, đúng
mức, điều đó địi hỏi sự nỗ lực chuyên tâm của người làm khoa học, để
sớm trả lại vị trí xứng đáng của Lê Đạt trong lịch sử thơ ca, đặc biệt trong
lộ trình Cách Tân Thơ Việt .
1.3. Nghiên cứu thơ ca từ góc độ tư duy nghệ thuật là một yêu cầu toàn
diện và khá phức tạp đối với các hiện tượng thi ca. Tuy nhiên, nghiên cứu


thơ từ góc độ tư duy sẽ tạo ra những hướng tiếp cận mới, có khả năng
mở ra những cánh cửa đi vào thế giới nghệ thuật phong phú. Thơ Lê Đạt
tiêu biểu cho sự đổi mới về tư duy, cảm xúc, ngơn ngữ, do đó, tiếp cận
thơ Lê Đạt từ góc độ tư duy, chúng tơi hy vọng sẽ có một cách nhìn tương
đối hệ thống về hiện tượng này.
2. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu quan niệm thơ, thế giới nghệ
thuật thơ Lê Đạt để tìm hiểu về tư duy thơ của tác giả.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là những tập thơ đã xuất
bản của Lê Đạt. Tuy nhiên trong q trình nghiên cứu, chúng tơi cũng tiến
hành tham khảo thơ của một số tác giả có xu hướng cách tân như: Trần

Dần, Dương Tường, Nguyễn Quang Thiều, …. từ đó có cái nhìn chung về
sự vận động của thơ đương đại .
Luận văn nghiên cứu về thơ Lê Đạt từ phương diện tư duy nghệ
thuật, trên cơ sở tìm hiểu quan niệm thơ của Lê Đạt, cái tơi trữ tình của
Lê Đạt trong thơ, các biểu tượng và ngôn ngữ thơ ca.
3. Lịch Sử nghiên cứu vấn đề
Đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào, bài viết nào đề cập
đến tư duy nghệ thuật thơ Lê Đạt mà chỉ có một số bài viết ngắn về thơ
ông. Đến với lịch sử nghiên cứu về thơ Lê Đạt, chúng tơi trình bày qua 2
chặng :
- Trước năm 1960 : Vấn đề mà các bài viết về Lê Đạt tập trung phản ánh
trong giai đoạn này là thái độ chính trị trong sáng tác của nhà thơ. Lê Đạt
thời kỳ Nhân văn- Giai phẩm là đối tượng để lên án và kết án. Xuân
Hoàng viết Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt đăng trên báo
văn nghệ số 11, tháng 4/ 1958 đả kích Lê Đạt. Theo ơng, thơ văn của Lê
Đạt bộc lộ ‚cái tư tưởng phản bội, cái dã tâm chống đảng bên trong … cái
mới mà Lê Đạt đưa ra chỉ reo rắc sự hồi nghi, tính hiếu thắng, lịng tự


đại [22, 71]. Trong Tạp chí văn nghệ số 13, tháng 6/ 1958 Xuân Diệu đã
đả kích nhà thơ Lê Đạt qua bài Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư
sản trong thơ Lê Đạt. Ở bài viết này, Xuân Diệu sau khi đi vào phân tích
một số tư tưởng của Lê Đạt đã đi đến kết luận rằng: ‚Lê Đạt đóng vai trị
quan trọng trong việc lũng đoạn Hội nhà văn, Lê Đạt tích cực dùng ngịi
bút viết lối văn hai mặt …Xét Lê Đạt, ta phải nhìn cho hết, rằng Lê Đạt
chống đối ta, phá hoại tư tưởng ta từ trong bản chất giai cấp thù địch‛. Và
Xuân Diệu khẳng định thêm ‚lấy một Lê Đạt làm ví dụ của thứ văn nghệ
Nhân văn –Giai phẩm, chúng ta đã rút ra một bài học cảnh giác với chủ
nghĩa cá nhân tư sản có nhiều biến hố mưu mánh‛. Hai số báo Nhân dân
ra ngày 1/4/1958 và ngày 2/4/1958 Phan Nhân đã gộp hai tác giả Lê Đạt và

Trần Dần thành một nhóm và lên án qua bài viết mang tựa đề Thực chất
cái gọi là “đi tìm cái mới”của nhóm Trần Dần- Lê Đạt”. Phan Nhân chia
bài viết thành hai phần lớn. Trong phần I, tác giả bài viết tập trung phân
tích kỹ ‚Nội dung tư tưởng trong thơ Lê Đạt, Trần Dần‛ tác giả nhấn
mạnh tư tưởng chống đối thực tại- ‚Mới để mà mới‛ và ‚Xuyên tạc sự
thật đả kích chế độ, gieo rắc bi quan‛ trong sáng tác của Lê Đạt. Sang
phần II, bài viết của Phan Nhân trình bày mánh khoé của Lê Đạt, tác giả
khẳng định Lê Đạt đã sử dụng biện pháp ‚tả đầu lưỡi- lợi dụng Mai-a cóp
nhặt từ, hình ảnh, kĩ thuật mới‛ từ đó ơng lấy Mai-a và sáng tác của Mai-a
đem so sánh với Lê Đạt để chỉ rõ sự khác biệt về tư tưởng và thơ văn của
hai đối tượng này. Tác giả khẳng định Lê Đạt đã khơng có tâm hồn Mai-a
thì khơng thể học được Mai-a. Nhà thơ Tố Hữu kết tội Lê Đạt mang
‚những quan điểm văn nghệ phản động. Các bài viết trên không nảy sinh
và phát triển trên cơ sở học thuật mà là kết quả của lối phê bình xã hội
học, lấy tư duy chính trị làm chuẩn. Với những sáng tác của Lê Đạt, các
tác giả đã cố ý tìm những động thái, ẩn ý chính trị hơn là những cố gắng


Cách- Tân với một tinh thần phủ nhận. Cách nhìn này xuất phát từ đặc
điểm lịch sử của giai đoạn. Miền Bắc hồ bình nhưng miền Nam vẫn cịn
đang chiến tranh chống chọi với kẻ thù xâm lược nên mục tiêu hàng đầu
vẫn là cách mạng, văn nghệ không thể từ chối phục vụ. Chiến tranh là hồn
cảnh khơng bình thường đối với một đất nước nên cũng đẻ ra những đặc
điểm khơng bình thường của văn học, đó là nền văn học phục vụ chính
trị, cổ vũ chiến đấu, hướng hẳn về quần chúng cơng- nơng- binh, thậm chí
văn học phải ‚minh hoạ‛ cho những chủ trương, đường lối của cách
mạng. Vì vậy bản sắc của cá nhân muốn thể hiện trong văn học là một
điều dường như là rất khó khăn, cá nhân thường bị chìm lấp trong đồn
thể như giọt nước trong làn sóng biển. Vì vậy sáng tạo của Lê Đạt khơng
được hoan nghênh mà cịn làm ơng khốn khó là tất yếu.

- 1960 – nay: Sau 30 năm cấm in, Lê Đạt được ‚phục hồi‛ một số tác
phẩm của ông mới được ra mắt độc giả nhưng trong tinh thần khá dè dặt
của các nhà xuất bản. Năm 1989, Lê Đạt in chung với Dương Tường 36
bài tình. Thời kỳ đầu đổi mới, những ấn phẩm của Lê Đạt được xuất bản
trở lại nhưng giới phê bình với sự dè dặt chung ít nhắc tới Lê Đạt vì đây
vẫn là một vấn đề nhạy cảm trong một giai đoạn nhạy cảm. Năm 1994,
Tập thơ Bóng chữ được xuất bản, ra mắt bạn đọc đã gây xôn xao dư
luận. Không biết xuất phát từ đâu dư luận cho rằng thơ Lê Đạt khó hiểu.
Có người gọi tập thơ Bóng chữ của ơng là thơ ‚hũ nút‛. Có người lên án là
‚thơ ú ớ‛ sùng bái vơ thức chống lại ý thức. Sau Bóng chữ, Lê Đạt tiếp tục
cho xuất bản Ngó Lời (1997), U75 Từ tình (2007), Đường chữ (2009), giới
nghiên cứu phê bình do đó có điều kiện tiếp cận trực tiếp, sâu rộng hơn
để đưa ra những đánh giá mang tính hệ thống hơn. Nếu trước kia Lê Đạt
bị đả kích kịch liệt, bị kết án nặng nề thì giờ đây ơng đã được nhìn nhận
lại một cách đúng mức với những sáng tác mang nhiều giá trị, góp phần


xây dựng nên nền thơ Việt Nam hiện đại. Năm 2007 Lê Đạt được nhận
Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Và cho tới nay, các bài viết
về Lê Đạt đã vượt qua cái nhìn cũ, khẳng định Cách Tân và đóng góp của
nhà thơ. Đó là Võ Thị Hảo với Người vác thập giá chữ [24], Tùng Huy- Lê
Đạt quặn lòng với những con chữ [30], Thuỵ Khuê- Thơ tạo sinh- Lê Đạt
[33], Trần Thiện Khanh- Trạng thái thơ Lê Đạt [37], Trần Thiên Khanh- Lê
Đạt tư duy về thơ [38], Đặng tiến - Lê Đạt và Bóng chữ [59], Đỗ Lai Thuý,
Lê Đạt - chữ [67], Đỗ Lai Thuý- Mã thơ Lê Đạt [69]. Điểm thống nhất của
các bài viết này là sự ghi nhận đóng góp của Lê Đạt trên một số phương
diện cơ bản. Thứ nhất, xác định vấn đề bao trùm và xuyên suốt những tác
phẩm của Lê Đạt là đào sâu vào chữ để tìm ra nhiều vỉa từ nhằm làm cho
thơ đa nghĩa, cơ đúc và sâu sắc. ‚Ơng chơi chữ, nghịch chữ và tạo cho thơ
mình một điệu nhạc riêng, một ‚thiên lí chữ‛ khơng dễ lặp lại‛ [38]. Thứ

hai, xác định: tư tưởng lớn của Lê Đạt chính là bút pháp của ông. Ecriture
Lê Đạt với sự cố ý làm sai, làm lệch, mắc lỗi, thậm chí kháng chỉ, là sự vi
phạm các trật tự hiện hành, trước hết là trật tự ngơn ngữ [67]. Thứ ba,
khẳng định tính hiện đại trong các sáng tác của Lê Đạt như: cấu trúc hình
thức, phép tạo hình trong thơ của ơng, tính bất định của khơng gian thẩm
mỹ mà Lê Đạt theo đuổi…
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu về thơ Lê Đạt qua 2 giai đoạn, chúng tơi
thấy sự phê bình và tranh luận đã có sự thay đổi. Giai đoạn thời kỳ Nhân
Văn- Giai phẩm Lê Đạt cũng như thơ ông bị phê phán quyết liệt. Giai
đoạn sau, khi Lê Đạt được phục hồi tư cách hội viên Hội nhà văn và
quyền xuất bản, thơ ông dù mới đầu chưa được dư luận đón nhận nhưng
với những tập thơ tiếp sau, Lê Đạt đã được khẳng định đề cao. Trước kia
Lê Đạt bị kết tội nặng nề, nhưng bây giờ đọc lại những sáng tác của Lê
Đạt giới nghiên cứu và phê bình thấy Lê Đạt khơng định chống Đảng,


không hề phản động mà chỉ nỗ lực thể hiện sự thành thật, nồng nhiệt trong
cách tân văn chương, muốn tạo điều kiện cho nghệ thuật phát triển. Và
như vậy, rõ ràng dưới ảnh hưởng của thành tựu lý luận thế giới các nhà
nghiên cứu, phê bình đã dần đưa ra những cách đọc mới, khả dĩ tiếp cận
sáng tác của Lê Đạt. Tuy nhiên, những bài viết mới dừng ở mức độ cảm
nhận sơ lược, chung chung chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc, tồn
diện về thơ Lê Đạt nhưng đó thật sự là những gợi ý giá trị cho luận văn
của chúng tôi.
Tiếp nối những bài viết nghiên cứu về thơ Lê Đạt, Luận văn sẽ đi tìm
hiểu nghiên cứu một vấn đề hồn tồn mới: “Thơ Lê Đạt dưới góc nhìn tư
duy nghệ thuật” nhằm phát hiện ra những tìm tịi, đổi mới trong sáng tạo
nghệ thuật của Lê Đạt, khẳng định phong cách thơ Lê Đạt, những đóng
góp của ơng đối với nền thơ ca Việt Nam đương đại .
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp lịch sử: Chúng tôi đánh giá Lê Đạt và các vấn đề trong thơ
của ông trong sự gắn kết với hoàn cảnh của cá nhân, dân tộc và thời đại mà
ông sống để thấy được sự tác động của lịch sử lên một đời thơ và cách
thức phản ứng đặc biệt của Lê Đạt.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu :
Trong quá trình nghiên cứu tư duy thơ Lê Đạt, chúng tôi so sánh thơ
Lê Đạt với một số tác giả khác cùng thời, cùng dòng thơ, để thấy được sự
Cách Tân của thơ ông. Mặt khác, so sánh ông với chính ông để thấy sự đổi
mới liên tục của nhà thơ trong suốt chặng đường thơ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này
để thiết lập hệ thống luận điểm. Từ sự phân tích cụ thể tác phẩm, người
viết tổng hợp khái quát để có những kết luận, nhận định thấu đáo, tránh
những áp đặt chủ quan không bám sát văn bản thơ.


5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình dài hơi nghiên cứu về tác giả Lê Đạt. Nghiên
cứu tư duy thơ của Lê Đạt qua hệ thống quan niệm thơ đến sự vận động và
phát triển của cái tơi trữ tình, hệ thống biểu tượng và ngơn ngữ thơ ca
nhằm tìm ra những nét khác biệt trong cách cảm, cách nghĩ, những tìm tịi
sáng tạo của Lê Đạt và những đóng góp của ơng đối với tiến trình đổi mới
thơ Việt Nam hiện đại.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật và quan niệm thơ
của Lê Đạt
Chương 2. Cái tơi trữ tình và một số biểu tượng đặc sắc trong thơ Lê Đạt
Chương 3. Ngôn ngữ thơ Lê Đạt


PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TƢ DUY NGHỆ
THUẬT VÀ QUAN NIỆM THƠ CỦA LÊ ĐẠT
1.1. Một số vấn đề lí luận về tƣ duy nghệ thuật
1.1.1 Khái niệm tư duy


Tư duy không chỉ là đối tượng nghiên cứu của khoa học tâm lý, triết
học, … mà còn là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật. ‚Tư duy
là hoạt động nhận thức lý tính của con người. Khí quan của tư duy chính
là bộ óc người với một hệ thống tinh vi của gần 16 tỉ tế bào thần kinh [52,
676]. Tư duy không chỉ là một sản phẩm xã hội hay chỉ là sản phẩm tự
nhiên, mà là sản phẩm có tính tổng hồ của q trình lịch sử nhân loại. Tư
duy là kết quả phát triển của vật chất tự tổng hợp qua hàng vạn, hàng triệu
năm. Sự ra đời của tư duy chính là bằng chứng về sự xuất hiện của con
người. Do vậy có thể định nghĩa: ‚Con người là một động vật có tư duy‛.
Tư duy (pensée) là toàn bộ những hoạt động tâm lý của con người,
chỉ có con người mới có, đó là đời sống trí tuệ của con người. Tư duy
được phân biệt với ý thức (conscience). Nói đến ý thức là nói đến sự
‚phản ánh‛ hiện thực của hoạt động tâm lý. Hay nói đúng hơn, ý thức là tư
duy ở trạng thái tĩnh, và tư duy ở trạng thái động, tư duy là hành động nhận
thức của con người. Tư duy và lý trí (raison) khơng phải là một. Nói đến lý
trí là nói đến cái lơgích có tính ngun tắc của nhận thức. Nói đến tư duy
là nói đến sự vận động có tính tổng thể của các yếu tố tư tưởng và tình
cảm, cảm xúc và lý trí nhằm mục đích nhận thức. Tư tưởng (Idée) hay còn
gọi là quan niệm tư tưởng vừa là kết quả lại vừa là xuất phát điểm của tư
duy. Quan hệ con người với con người, con người với xã hội, con người
với hoàn cảnh sống … là những mối quan hệ chủ yếu tạo nên quan niệm tư

tưởng ở mỗi con người. Tư tưởng mang tính chất dân tộc, đồn thể, quốc
gia, tính giai cấp… nghĩa là mang tính chủ quan hơn so với tư duy. Tư
tưởng nằm ở phạm trù nội dung, tư duy nằm ở phạm trù phương pháp. Tuy
nhiên giữa chúng vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. ‚Đặc trưng của tư
duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thế giới khách
quan, quan hệ con người với con người và quan hệ giữa các sự vật, hiện
tượng; truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các


phương tiện ngơn ngữ, đó là tồn bộ chức năng nhận thức của tư duy [64,
18].
Nói đến tư duy là nói đến những hoạt động của bộ óc người ở trạng thái
sống động của nó. Tư duy nảy sinh từ sự sống và gắn liền với hoạt động
của các tế bào não. Đó là một q trình xử lý lượng thơng tin do các khí
quan cảm giác thu nhận được. Trong lịch sử phát triển của con người, sự
hình thành và phát triển của tư duy gắn làm một với sự hình thành và phát
triển của chủ thể. ‚Vậy, phán đoán đầu tiên của sự sống là ở chỗ, với tư
cách là chủ thể cá thể, sự sống tự tách mình ra khỏi tính khách quan‛
(G.V.Ph.Hêglen) .
Nói đến sự sống trong vận động tư duy chính là nói đến cơ sở sinh
lý của tư duy. Yếu tố ‚sống‛ đó sẽ tạo cho tư duy một thuộc tính quan
trọng, đó là sự trao đổi tinh thần có tính chất giao tiếp, tính chất ‚cảm
ứng‛ ‚giao cảm‛ giữa người với người. Bởi vậy, giao tiếp ngơn ngữ là một
giao tiếp có tính bề ngồi, cịn trao đổi tinh thần, giao lưu tư tưởng và tình
cảm là bản chất của hoạt động tư duy.
Tư duy là một ‚trạng thái‛ bên trong của vật chất (Plêkhanơp) nhưng chỉ có
ở vật chất đặc biệt, phát triển ở trình độ cao, tức là ở con người. Mọi quan
niệm cho rằng tư duy, tinh thần hay ý niệm tồn tại độc lập, bên ngồi đầu
óc con người, đều là quan niệm tư duy phi chủ thể, hoặc là tạo ra một chủ
thể siêu nhiên đối lập với con người.

Nhưng cả tư tưởng và tư duy sẽ không nảy sinh được nếu khơng có
ngơn ngữ. Ngơn ngữ là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
tư tưởng. ‚Khơng có ngơn ngữ thì tư duy chỉ là những dự báo mơ hồ,
những phản ứng có tính bản năng trước hiện thực. Khơng có tư duy thì
ngơn ngữ chỉ là tiếng kêu bập bẹ của trẻ sơ sinh mà thôi. Tư duy làm cho
ngôn ngữ phát triển phong phú, tinh xảo. Ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư
duy đi sâu được vào bản chất của sự vật hơn‛ [64, 19].


1.1.2. Quan niệm về tư duy nghệ thuật
Tư duy nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người trong lĩnh
vực nghệ thuật. Có nhiều quan điểm về vấn đề này, tuy nhiên chúng tôi
thống nhất với quan điểm của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học NXB Giáo dục
2006 và ý kiến của tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ và tư
duy thơ hiện đại Việt Nam NXB văn học Hà Nội 1996. Trong Từ điển thuật
ngữ văn học định nghĩa: ‚Tư duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của
con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Bản chất
của nó do phương thức thực tiễn tinh thần của hoạt động chiếm lĩnh thế
giới bằng hình tượng quy định. Sự chun mơn hố lối tư duy này tạo
thành đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng nhận thức của nó. Tư duy nghệ
thuật là một phương thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hoá hiện
thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mỹ. Phương tiện của nó là các biểu
tượng, tượng trưng có thể trực quan được. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu
hiệu bản chất của tư duy nghệ thuật là: ngồi tính giả định, ước lệ, nó
hướng tới sự nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính mang nội
dung khả nhiên (cái có thể có) có thể cảm thấy, theo xác suất khả năng và
tất yếu. Chính nhờ đặc điểm này mà nội dung khái quát của nghệ thuật
thường mang tính phổ quát hơn, triết học hơn so với sự thật cá biệt. Bằng
trí tưởng tượng sáng tạo vốn là chất xúc tác của hoạt động tư duy nghệ

thuật, nghệ sĩ xây dựng các giả thiết, làm sáng rõ các bộ phận còn bị che
khuất của thực tại, lấp đầy các ‚lỗ hổng chưa biết‛ tính cấu trúc của tư
duy nghệ thuật gắn với năng lực nhìn thấy thế giới một cách tồn vẹn,
nắm bắt nó qua những dấu hiệu phát sinh, đồng thời phát hiện các mối liên
hệ mới chưa được nhận ra…


Tư duy nghệ thuật địi hỏi một ngơn ngữ nghệ thuật làm ‚hiện thực
trực tiếp cho nó. Ngơn ngữ đó là hệ thống các ký hiệu nghệ thuật, các hình
tượng, các phương tiện tạo hình và biểu hiện. Nó có mã nghệ thuật, tức là
hệ thống năng động gồm các quy tắc sử dụng ký hiệu để gìn giữ tổ chức
và truyền đạt thông tin. Điểm xuất phát của tư duy nghệ thuật vẫn là lý
tính, là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hoá các kết
quả nhận thức. Đặc điểm của tư duy nghệ thuật là tính lựa chọn, tính liên
tưởng, tính ẩn dụ. Trên cơ sở của tư duy nghệ thuật người ta tạo ra các tư
tưởng và ‚quan niệm nghệ thuật‛ lựa chọn các phương tiện, biện pháp
nghệ thuật. Dạng tư duy này chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với tài năng,
biết cảm nhận được một cách nhạy bén về viễn cảnh lịch sử, nắm bắt tinh
thần thời đại, dự báo tương lai và tài năng sáng tạo nghệ thuật [26, 381382].
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái quát những vấn đề về tư
duy nghệ thuật Tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn Tư duy thơ và tư duy
thơ hiện đại Việt Nam đã bàn nhiều về vấn đề tư duy nghệ thuật nói
chung và tư duy thơ nói riêng và đi đến kết luận: ‚Tư duy nghệ thuật là sự
khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hố hiện
thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi
phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân sinh quan của người sáng tạo‛.
Tư duy nghệ thuật khác với tư duy khoa học ở chỗ: tư tưởng tình cảm
khơng chỉ là năng lượng của tư duy mà còn là đối tượng nhận thức của tư
duy. Hình tượng nghệ thuật được coi là hình tượng của cảm xúc, nghĩa là
‚năng lượng‛ tình cảm cịn đọng lại trong hình tượng như là một yếu tố

nội dung, một bộ phận hợp thành. Tuy vậy, nếu đối lập lý trí với tình cảm,
tư duy khoa học với tư duy nghệ thuật, chúng ta sẽ đi đến chỗ coi nghệ
thuật chỉ bao hàm những yếu tố trực giác, những ấn tượng cảm tính mà
khơng có ý nghĩa sâu sắc, khơng mang nội dung trí tuệ‛ [64, 54-55].


Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Tư
duy thơ là phương thức nhận thức và biểu lộ tình cảm của con người bằng
hình tượng ngôn ngữ. ‚Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự thể
hiện của cái tơi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tơi trữ
tình trong thơ được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tơi trữ
tình trực tiếp và cái tơi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình, coi trọng sự biểu
hiện cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài thơ… Do
sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại
mà vị trí của cái tơi trữ tình có những thay đổi nhất định… Tư duy thơ
phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại‛ [64, 56].
So với tư duy lơgích thì tư duy hình tượng có được một phạm vi
rộng rãi hơn cho sự liên tưởng và quyền tưởng tượng của người sáng tạo.
Tư duy thơ chấp nhận một khả năng tưởng tượng của tư duy khoa học là ở
chỗ trừu tượng hoá, vơ hình hố các sự vật và hiện tượng. Cịn nhà thơ thì
cụ thể hố, hình tượng hố hiện thực khách quan theo một đường dây liên
tưởng.
Tư duy thơ có khả năng hướng nội, hướng ngoại, và kết hợp giữa
hướng nội và hướng ngoại. Hướng ngoại là nhằm vào đối tượng miêu tả,
trình bày nó dưới ánh sáng của một quan niệm thẩm mỹ. Hướng nội là tác
giả tự nghĩ về mình, tự quan sát và biểu hiện cái tơi nội cảm của mình.
Tìm hiểu tư duy thơ là tìm hiểu sự vận động của hình tượng thơ. Ngơn
ngữ đối với nhà thơ vừa có ý nghĩa phương tiện vừa có ý nghĩa mục đích,
nó là một thứ ‚cơng cụ‛ trực tiếp của tư duy. Khả năng tự do của tư duy
thơ phụ thuộc vào yếu tố ngôn ngữ, phụ thuộc vào cấu trúc thể loại…

1.2. Quan niệm thơ Lê Đạt .
1.2.1. Thơ như là một sự thể nghiệm
Trong kháng chiến chống pháp, Lê Đạt làm việc ở Ban tuyên huấn
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Khi hồ bình lập lại trên miền Bắc,


ông tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn hoá- nghệ thuật. Cùng với một số
trí thức, văn nghệ sĩ, ơng đã kiên trì địi hỏi xây dựng một mơi trường tự
do cho sáng tạo, cho sự phát triển lành mạnh của nền văn hoá nghệ thuật
nước nhà.
Theo quan niệm thơ chính thống thì thơ phải phản ánh thực tại, phải
là vũ khí, tuyên truyền, phục vụ chính trị, phục vụ nhân sinh, phục vụ cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Khác với quan niệm thơ chính thống, theo Lê Đạt
thơ là ‚cuộc chơi‛ mà thi nhân đem cả đời người để thử nghiệm. Ông phản
đối lối thơ tuyên truyền, làm chính trị một cách giản đơn theo những cơng
thức tầm thường dễ dãi, ơng địi hỏi thơ ca nói chung và bản thân mình nói
riêng phải bứt phá khỏi cánh đồng bằng phẳng, yên ổn mà thưa thớt cá
tính sáng tạo. Ơng ghét lối thơ đơn nghĩa và gọi nó là ‚thơ lộ thiên‛ ông
muốn một thứ thơ không vần mở ra nhiều nghĩa bất chấp cái đa nghĩa
nhiều khi làm người đọc khó hiểu. Quan niệm này của ơng rất giống với
quan niệm của Trần Dần và một số nhà thơ khác trong nhóm văn học Nhân
văn- Giai Phẩm.
Lê Đạt muốn chống lại thứ văn nghệ độc tôn, thực hiện tự do sáng
tác và đã mạnh dạn nói lên khát vọng của mình trong các tác phẩm. Với Lê
Đạt, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng khơng chỉ là một bánh xe lăn
mãi một con đường mòn đã cũ, phải dựa trên cơ sở, cá tính độc đáo của
từng nghệ sĩ mà phát huy và lãnh đạo. Trong thơ, ơng địi hỏi sự tự do trong
tư tưởng vì nếu khơng có tự do tư tưởng thì khơng thể có nghệ thuật chân
chính. Là một trong những nhà thơ tiên phong đi đầu trong phong trào Nhân
văn- Giai phẩm, Lê Đạt luôn mong muốn cách tân thơ Việt. Ông muốn dấn

thân đến cùng vì yêu cầu sinh tử của nghệ thuật. Nhà thơ khao khát phá vỡ
sự độc tơn của những ngun tắc thi pháp cũ. Chính quan niệm về thơ này
của Lê Đạt, cũng như của Trần Dần và một số nhà thơ khác trong nhóm
văn học Nhân văn- Giai phẩm đã làm bùng lên cuộc tranh luận ồn ào đến


nay vẫn chưa dứt. Và cũng từ quan niệm này của Lê Đạt sẽ sinh ra cái tôi
bất hợp tác với hoàn cảnh trong Nhân văn- Giai phẩm mà chúng tôi sẽ bàn
tới ở chương 2 của luận văn.
1.2.2. Thơ gắn với chữ, với ngôn từ nghệ thuật (từ sau vụ Nhân vănGiai phẩm)
Trong suốt hơn 30 năm đại hạn Nhân văn, Lê Đạt có nhiều thời gian
suy nghĩ về thơ mình cũng như về thơ nói chung. Trong Đường chữ, ông
viết: ‚Tôi buồn rầu nhận ra rằng thơ tôi chưa có cái cách tân triệt để- về
cấu trúc mà nói, nó vẫn chưa thốt khỏi thơ ‚Mới‛ những năm 1930 …
Nhưng triệt để như thế nào tôi vẫn chưa hình dung được‛ [21, 620]. Lê
Đạt khơng có cái may mắn của Trần Dần, bạn thơ cùng thời, là ngay từ đầu
nhận ra ngay ‚con đường chữ‛ của mình để đi một mạch. Có lúc Lê Đạt
phải qua những khúc quanh nhận thức, có những đoạn dừng lại tự xỉ vả
mình vơ dụng để ‚mặc cảm tội lỗi‛ và ‚tự tu lập‛ bước qua. Nhưng có vẻ
như cái chìa khố của ‚sự tu‛ lại là một chữ ‚chơi‛ đầy hào sảng và khí
phách trong thơ của nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ: Trời đất cho ta một
chữ tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi, là cuộc gặp lại triết học ‚trị
chơi‛ trong câu nói của Freud: ‚Mọi đứa trẻ khi chơi, ứng xử như một nhà
thơ với ý nghĩa nó tạo ra cho mình một thế giới hay nói chính xác hơn, nó
chuyển dịch những đồ vật của thế giới nó đương sống sang một trật tự mới
phù hợp. Nó coi trị chơi của mình là rất nghiêm túc‛.
Từ một cuộc dằn vặt nhận thức, Lê Đạt bước vào cơng cuộc ‚phu
chữ‛ để tạo ‚vân chữ‛ cho mình chống lại ‚thiên mệnh‛ đặt bày trong bàn
tay thời cuộc luôn không ngừng can thiệp. Thời kỳ ‚làm người vô dụng‛
ơng tìm cách bắt tay với quan niệm chữ và sáng tạo thi ca của Freud,

Mallarmé, Lacan, Trang tử , Niezsche, Heiclerger và Roland Barthes….Một
thời kỳ khổ ải đến mức những cửa thư viện he hé mở rồi lườm nguýt khép


lại. Ông viết đầy hài hước và chua chát: ‚Trên đất nước bốn nghìn năm
văn hiến ai ngờ đọc sách mà cũng gian nan thế‛ [21, 623].
Trong thời kỳ bị kỷ luật, Lê Đạt không bị áp lực của việc xuất bản
nên ơng có nhiều thời gian nghĩ về thơ và càng đọc nhiều ơng càng cảm
thấy thơ mình bỏ qua một khoảng mênh mông của chữ. Và bằng tài năng,
sự nỗ lực, lịng đam mê, kiên trì khơng mệt mỏi, Lê Đạt đã ‚mở một kỷ
nguyên mới cho đường chữ ‚[34]. Như vậy, cuộc tìm ‚bóng chữ‛, ‚đường
chữ‛, ‚vân chữ‛ của Lê Đạt là cuộc tự nhận thức sau sự cố Nhân văn- Giai
phẩm. Ông đã đi từ trong sương mù bất định của nhận thức, đến giải quyết
cho cái câu hỏi da diết từ nội tại được đặt ra: ‚Đâu là điểm tự do xa nhất
chữ có thể đạt tới, đâu là điểm cực hạn nhất thiết không được bước
qua?‛.
Trong những nhà thơ cùng trang lứa, Lê Đạt (cùng với Trần Dần ) là
nhà thơ vị chữ. Ông đề cao tinh thần lao động chữ của nhà thơ đến mức ông
gọi nhà thơ là ‚phu chữ‛. Phu hay culi cũng đều thể hiện sự vất vả, cực
nhọc muôn phần trong sáng tạo nghệ thuật. Lê Đạt nghét thứ thơ đơn nghĩa
và gọi nó là ‚thơ lộ thiên‛. Vì vậy, ơng chủ trương đào sâu vào chữ để tìm
ra nhiều vỉa từ nhằm làm cho thơ đa nghĩa, cô đúc và sâu sắc.
Nhà thơ Lê Đạt rất coi trọng chữ trong thơ. Đối với ông, chữ không
chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn cựa quậy,
là một thứ mặc khải để thi nhân bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Sự
linh diệu của chữ chính là sự linh diệu của thơ. Đây là phép biện chứng
trong sáng tạo thơ ca. Vì trọng chữ nên theo Lê Đạt: ‚Nhà thơ không coi rẻ
chữ như những vật vô tri vô giác, những công cụ quẳng đi khi đã hết tác
dụng mà tôn trọng chữ như những sinh vật có hồn, lắng nghe tiếng nói của
chữ và trị chuyện với chữ như những nhà ngoại cảm lắng nghe và trò

chuyện với thế giớ bên kia‛ [20, 131].


Khơng coi rẻ chữ, lắng nghe và trị chuyện với chữ, nghĩa là Lê Đạt
đã đối thoại với thơ. Chữ trong thơ, vì thế đã trở thành người bạn tri âm
của thi sĩ. Lựa chọn chữ, nghiêm khắc với chữ trong thơ cũng chính là sự
chọn lựa của tình u và trách nhiệm với ngịi bút của mình. Đó là sự tơn
trọng chính mình và tơn trọng người đọc. Vì theo Lê Đạt: “Với đa số chữ
là tình nghĩa/ Với nhà thơ chữ là tình u” [21, 419]. Chính vì rất đề cao
vai trị của chữ trong thơ mà ơng đã xác quyết: ‚Một nhà thơ có kinh
nghiệm là nhà thơ biết im lặng để nghe chữ phát biểu‛ [21, 395]. Và ông
rất tôn trọng sự ‚dân chủ’’của chữ khi cho rằng: ‚Những tác phẩm thơ hay
thường là kết quả sự cưỡng lại của chữ [21, 402]. Vì thế khơng phải ngẫu
nhiên mà trong các sáng tác của mình, chữ được Lê Đạt nhắc đến với tần
số cao. Chữ- cô đơn; chữ- cách tân; chữ- phong phú; chữ- bình đẳng; chữthái độ sống. Và chữ, nhiều lần được ông gọi là ‚cử tri‛ bầu lên nhà thơ, là
‚gene được cấy trong công nghệ sinh học của sáng tạo, là ‚đội vệ sĩ đông
đảo hùng hậu‛ để ‚cứu cái phần người bao giờ cũng lâm nguy trong mỗi
con người‛.
Theo Lê Đạt: ‚Người làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ. Nhà
thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa tiêu dùng, nghĩa tự vị của nó, mà ở
diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan
hữu cơ với câu, bài thơ‛ [20, 116]. Hiện hữu của nhà thơ chính là hiện hữu
của chữ trong thơ. Chữ trong thơ thế là một ‚nhãn hiệu cầu chứng‛ cho sự
hiện tồn của thi nhân; là một trong những yếu tố quan trọng nhất nếu khơng
nói là yếu tố quyết định tạo nên phong cách nhà thơ. Xuất phát từ một quan
niệm giá trị như thế nên trong tư duy thơ của mình, Lê Đạt xem chữ như là
một hệ quy chiếu để định vị nhà thơ và sự cách tân trong thơ. Và cũng từ
quan niệm trọng chữ trong thơ mà Lê Đạt khi trò chuyện với phóng viên
Vovnews đã nói về việc cách tân thơ xuất phát từ ý muốn sử dụng chữ một
cách toàn diện: ‚Trong chữ có 2 phần: phần định nghĩa và phần hàm nghĩa.



Xưa nay trong văn chương nói chung, hay thơ nói riêng, nói là người ta
hồn tồn khơng sử dụng hàm nghĩa thì khơng đúng nhưng người ta chú ý
nhiều đến phần định nghĩa. Và như thế, cả một phần rất rộng lớn là hàm
nghĩa thì mọi người ít để ý. Đó là một sự ‚đãng trí‛ rất lớn. Tơi chỉ
muốn… như học cách đá bóng của Hà lan, họ đá bóng tổng lực, mình dùng
chữ một cách tổng lực‛.
Lê Đạt từ đầu đến cuối quan niệm ‚Chữ đẻ ra chữ‛, mỗi chữ chỉ là
cái bóng, đè lên những chữ khác, ông lựa chọn chữ rất kĩ và công phu khi
sử dụng để mưu cầu sự đa nghĩa. Quan niệm này chi phối sâu sắc thi pháp
thơ Lê Đạt. Đến với thơ ông, độc giả phải chăm chú vào chữ, ‚Những con
chữ trong câu thơ dẫn dắt trên con đường tâm thức ra khỏi lối ngữ nghĩa
tiêu dùng một chiều quen thuộc hằng ngày (Bóng chữ).
1.2.3. Thơ là một nghề nhưng là “nghề của bề sâu”
Biết bao nhà thơ cả đời ln khao khát đi tìm bản thể thơ để trả lời
câu hỏi thơ là gì? Lê Đạt cũng vậy. Suốt cuộc đời dấn thân vì thơ, ơng
ln đối thoại với thơ như đối thoại với tâm linh của mình. Thơ hiện hữu
trong tâm thức ơng khơng chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một thứ
‚Bóng chữ‛ mà cịn có cả những ưu tư của ông về thơ. Với ông, thơ như là
một thứ đạo, một thứ tôn giáo, một thứ cơ duyên. ‚Người đời ví thi nhân
với kiếp tằm, Lê Đạt tự ví mình như một lá dâu, cịn lại trơ gân, xác xơ
thân xác‛ (Đặng Tiến).
Theo Lê Đạt: ‚Thơ là một nghề. Đã là một nghề thì phải có kỷ luật
lao động, khơng nên thụ động thắp hương chờ mà phải chủ động gọi hứng
đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật nghiệt ngã và gian khổ [20, 139].
Nói như vậy, nghĩa là Lê Đạt rất coi trọng sự sáng tạo của nghề thơ. Ông
yêu cầu người làm thơ phải tận hiến cho thơ, phải chủ động ‚cày sâu cuốc
bẫm‛ trên cánh đồng thơ để tìm thi hứng. Khơng chỉ có thế, với Lê Đạt
thơ cịn là một thứ nghiệp chướng không thể dứt bỏ được. ‚Không người



làm thơ nào không trải qua những cơn tuyệt vọng muốn quẳng bút đi làm
nghề khác cho nó khỏe. Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm đuối
[20, 143]. Nghề thơ trong quan niệm của Lê Đạt không chỉ có gian khổ mà
cịn là một nghề ‚hơi bị nguy hiểm… khơng nói đến cái nguy cơ bị ăn địn
bởi các nhà phê bình đao to búa lớn- thời nào cũng có những kẻ đao búa.
Cái nguy hiểm trầm trọng hơn là tình trạng mà Rilke gọi là niềm ‚cơ đơn
không tận‛ của nghiệp thơ‛ [ 20, 142].
Cô đơn phải chăng là một yếu tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Khơng hít thở trong bầu khí quyển cơ đơn ấy người nghệ sĩ không thể
sáng tạo được những tác phẩm để đời. Bởi thế, Inrasara cho rằng ‚sở dĩ ta
chưa có những tác phẩm lớn vì người nghệ sĩ hiện thời chưa đủ cơ đơn
cho sáng tạo‛. Cơ đơn vì vậy, không chỉ là một phẩm chất sáng tạo của
người nghệ sĩ mà cịn là một yếu tính của nghệ thuật, thiết yếu cho sáng
tạo. Hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ ln mang dấu ấn cá nhân.
Điều đó khơng những thể hiện cá tính sáng tạo mà cịn biểu lộ tài năng thi
sĩ.
Thơ là một nghề nhưng là ‚nghề của bề sâu‛, nghề thơ cũng như nghề
giếng, chỉ có đi sâu mới tìm ra nước. Lao động thơ là một thứ lao ‚động’’
thầm lặng, chán nản, đơn độc, vất vả‛ [20, 149], là ‚sự giằng xé căng
thẳng‛ [20, 136] từ trong sâu thẳm tâm thức của thi nhân. Theo Lê Đạt, con
đường thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau của từng người.
Khơng có đại lộ chung một chiều cho tất cả. Con đường thơ chính là số
phận của một nhà thơ. Nhưng dẫu theo con đường nào, một nhà thơ cũng
phải cúc cung tận tụy, đem hết tâm trí dùi mài, lao động: ‚Biến ngơn ngữ
cơng cộng thành ngôn ngữ đặc sản độc nhất làm phong phú cho tiếng mẹ
như một lão bộc trung thành của ngơn ngữ. Làm thơ là một lao động nhọc
mệt, ít tiền và gian nan. Do đó các nhà thơ, các nhà phê bình thơ phải đùm
bọc, giúp đỡ nhau, nên vì thơ hơn vì tên tuổi cá nhân mình, cần tránh



thiên hướng bới lơng tìm vết. Phải biết trân trọng đối thoại với cái khác,
cái lạ của bạn. Con đường thơ là một chu kỳ mở, không ai được vỗ ngực
độc quyền chân lý cũng như cho phép mình nói tiếng nói cuối cùng [20,
119].
Khơng những trong thơ mà trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
có lẽ khơng thể có tiếng nói cuối cùng về bất cứ vấn đề gì. Cuộc sống ln
vận động và phát triển. Mọi sự vật và hiện tượng trong cõi nhân sinh luôn
biến đổi. Khơng ai có thể tắm hai lần trên một dịng nước như một lời triết
gia đã nói. Sự hiện hữu bao giờ cũng là sự hiện hữu của khoảnh khắc vô
thường. Hiện hữu và hư vô là hai mặt của một quá trình biện chứng. Thơ
cũng thế! Thơ bao giờ cũng hiện hữu trong hư vô và hư vô trong hiện hữu.
Thế nên, khi bàn về tính hiện đại trong thơ Lê Đạt cho rằng: ‚Thơ không
sống bằng phủ định loại trừ mà bằng khẳng định bổ sung. Không phải chỉ
có một cách hiện đại mà có nhiều cách hiện đại. Khơng có một tổng cơng ty
độc quyền phát hành tín phiếu hiện đại. Thơ hiện đại khơng phải một
trường hợp phải khép kín. Mà một trường hợp phải mở‛ [20, 107]. Và
‚Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta
sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ…
Biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngơn ngữ trị chơi (hiểu theo nghĩa
mạnh) trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một
sự chú ý bồng bềnh (Attention flottante )‛ [21, 627].
Khi bàn về thơ hay, Lê Đạt đã có một ý tưởng khá độc đáo và lý thú.
Ông cho rằng: ‚Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ kết quả
của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lịng quỷ thần
chứ khơng phải may rủi đơn thuần
Làm thơ không phải đánh quả. Và không ai trúng số độc đắc suốt
đời‛ [ 20, 117]. Thật vậy, ‚trúng số độc đắc‛ đã là một sự mầu nhiệm, và
khơng thể có sự mầu nhiệm suốt đời. Làm được những câu thơ hay trong



quan niệm của Lê Đạt là một phép mầu như ‚trúng số độc đắc‛. Sự so sánh
tưởng chừng giản đơn này đã hàm chứa trong đó sự tơn vinh những giá trị
cao cả của thơ. Rõ ràng khơng có sự thăng hoa kì diệu trong sáng tạo thì
khơng thể có những câu thơ hay. Sáng tạo thơ bao giờ cũng là sự ám ảnh
của vô thức và tâm linh. Đi vào thế giới của thơ là đi vào thế giới của
những ảo diệu, của mặc khải để người nghệ sĩ thể hiện những dự phóng
sáng tạo của mình .
Tiêu chí thơ hay của Lê Đạt là đọc xong phải có được sự thay đổi
trong tâm hồn mình. Với ơng thơ hay giống như người đi qua đị, có gió, có
sóng mà vẫn sang được bờ bên kia. Một câu, một bài thơ hay bao giờ cũng
chống lại thời gian. Thơ hay có đạo đức cao vì nó tạo ra thói quen đạo đức
mới. Ở thơ hay, đạo đức, nhân văn, mỹ học là một.
Trong quan niệm của Lê Đạt, để khẳng định sự tồn sinh của mình
‚Người làm thơ tự trọng trên lĩnh vực ngôn ngữ phải bận tâm đến việc mở
mang bờ cõi ngôn ngữ, tương tự một nhà bác học mở rộng bờ cõi của khoa
học, đổi khác cách nhìn tự nhiên, khai khẩn những vùng sương mù của
kiến thức‛ [21, 493]. Và theo ông ‚Chỉ nhà thơ có tiếng nói riêng mới được
coi là nhà thơ đã trưởng thành‛ [20, 135].
1.3. Đánh giá hệ thống quan niệm thơ Lê Đạt
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam trải qua những cuộc chiến
đấu chống giặc ngoại xâm, những cuộc đấu tranh xã hội nhằm giải phóng
và nâng cao quyền sống của con người. Văn chương luôn là người bạn
đồng hành với lý tưởng xã hội tiến bộ. Nhiều tác phẩm văn chương đã ở
giữa cuộc đời, phản ánh vận mệnh của đất nước, thân phận của con người
và thể hiện một thái độ nhân sinh tích cực.
Những năm đất nước kháng chiến chống Pháp (1946-1954), cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản lãnh đạo đã trở thành
nhiệm vụ hàng đầu. Vì thế, đường lối văn nghệ vô sản đã được truyền bá



trong đông đảo văn nghệ sĩ, văn học phải trở thành một bộ phận trọng yếu,
không thể thiếu được trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Trong suốt
thời kì chiến tranh, văn học nói chung và thơ nói riêng đã trở thành vũ khí
đắc lực đấu tranh chống kẻ thù cướp nước và bán nước, đồng thời nó cịn
kêu gọi, cổ vũ các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh để bảo vệ tổ
quốc.
Như vậy ở Việt Nam như một tất yếu, văn nghệ đã trở thành vũ
khí đấu tranh cách mạng, phục vụ lợi ích của tổ quốc, của nhân dân, của
Đảng.
Ở thời điểm 1955- 1958, niềm vui cách mạng, niềm vui kháng
chiến được nhân lên trong cuộc sống hồ bình, nhưng những khó khăn của
cuộc sống hồ bình cũng khiến người ta lại phải nhìn nhận cuộc sống từ
nhiều phía, nhiều chiều. Có lẽ vì thế, những năm đầu hồ bình lặp lại, khi
cuộc sống trở nên thư thái hơn những năm chống Pháp, người nghệ sĩ có
điều kiện nhận thức rõ hơn mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Lê Đạt
cũng như một số nhà thơ khác trong nhóm Nhân văn- Giai phẩm đã mạnh
dạn đề xuất trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ, trả chuyên môn cho chuyên môn.
Với ông, thơ như là một sự thể nghiệm, khơng phải là vũ khí tuyên truyền.
Ở thời điểm đó, bày tỏ quan điểm như thế không phải là phản động nhưng
rõ ràng đã tách rời ra khỏi điều kiện lịch sử dân tộc trong khi mục tiêu đấu
tranh giải phóng dân tộc vẫn là mục tiêu hàng đầu. Miền Bắc hồ bình
nhưng miền Nam vẫn còn đang chiến tranh chống chọi với kẻ thù xâm lược
nên mục tiêu hàng đầu vẫn là cách mạng, văn nghệ nói chung và thơ ca nói
riêng khơng thể từ chối phục vụ. Các kỹ sư tâm hồn phải đặt cái ‚tôi‛
xuống dưới tập thể, đặt quần chúng nhân dân, đặt sự nghiệp của Đảng lên
địa vị cao nhất chứ khơng thể tự do sáng tác theo ý thích cá nhân. Tuy
nhiên, xét ở một phương diện nào đó, có thể thấy quan niệm của Lê Đạt đã
hướng vào một phương diện mà thơ ca Việt Nam còn chưa chú ý đúng



mức: xem ngôn từ là đối tượng sáng tạo của thơ ca chứ không đơn giản chỉ
là phương tiện chuyển tải. Với quan niệm thơ như là một sự thể nghiệm,
Lê Đạt muốn có những cách tân nghệ thuật mới mẻ trên tinh thần dân chủ,
tự do, nghệ thuật là chính. Ơng muốn trả cho văn chương giá trị đích thực
của nó.
Lê Đạt với quan niệm đề cao vai trị của chữ, có thể có người cho là
một thứ cực đoan hình thức. Nhưng trong một bối cảnh nào đó, khi khuynh
hướng xã hội học dung tục đã lấn áp và nếu cịn lấn áp cá tính sáng tạo
của nhà thơ như nó đã từng xảy ra trong đời sống văn học dân tộc ở một
thời chưa xa thì những ý kiến của ơng về vai trị của chữ trong thơ vẫn cịn
ngun giá trị. Vấn đề ‚cao trọng hố‛ vai trị của chữ trong thơ khơng chỉ
dừng ở quan niệm mang tính lý thuyết mà Lê Đạt cịn ứng dụng trong quá
trình sáng tạo thơ.
Cuộc tìm chữ một cách khổ công, Lê Đạt đã gọi nhà thơ là ‚phu
chữ‛. Đây không phải là điều mới. Truyền thống thơ Á Đơng và thơ Trung
đại thế giới là truyền thống tìm chữ. ‚Sự bao cấp tư tưởng‛ của đạo thiên
chúa, đạo hồi, của các chế độ chuyên chế tìm kiếm cái đẹp ở những kiến
trúc tổng thể, những tư tưởng và triết học của riêng mình, nên đành phải
hướng tài năng vào việc tinh luyện câu chữ. Các Nhà thơ trung Hoa và Việt
Nam đua nhau đi tìm các thần tự, nhãn tự. Đỗ Phủ làm thơ mà chưa hạ
được một chữ kinh động quỷ thần thì ăn khơng ngon ngủ không yên. Gia
Đạo mắc kẹt giữa hai chữ thôi, xao như con lừa chết đói giữa hai bó cỏ…
Các nhà thơ xưa thường tìm nghĩa của chữ ở trong bản thân chúng, tức là
ở trong cái hiện thực mà nó phản ánh. Họ không biết rằng, chữ nghĩa chỉ là
một thứ kí hiệu mang tính võ đốn. Nghĩa của từ ở ngoài câu là ở dạng
tiềm sinh. Nghĩa chỉ xuất hiện khi từ có quan hệ kề cận hoặc lựa chọn với
các từ khác trong câu. Phát hiện này của F.desaussure đã làm cho ngữ học
thực sự trở thành một khoa học (với nghĩa là có đối tượng riêng, có



phương pháp riêng). Các nhà thơ hiện đại không thể không biết đến ngữ
học như là một khoa học về vật liệu, vật liệu ngôn từ. Nhưng nhà thơ
không chỉ dừng lại ở vật liệu, mà phải biến vật liệu thành nghệ thuật, biến
ngôn ngữ tiêu dùng (giao tiếp) thành ngơn ngữ thi ca bằng sự cấu trúc hố
nó, nghĩa là đặt nó vào những tương quan mới để nó phát nghĩa.
Trong ngôn từ nhật dụng, mỗi từ thường chỉ phát một nghĩa, bởi nếu
phát nhiều nghĩa thì tạo ra sự nhiễu tin làm ách tắc quá trình giao tiếp. Đa
số những người làm thơ hiện nay vẫn sử dụng kiểu phát nghĩa đơn tuyến
này. Người phu chữ Lê Đạt khơng đi tìm những thần tự, nhãn tự để làm
sang cho thơ. Sự tìm chữ của ơng thực chất là tìm cách phát nghĩa mới.
Mỗi từ của Lê Đạt đều phát nhiều nghĩa bởi nó nằm trong nhiều mối quan
hệ với các từ khác trên cả trục kề cận lẫn trục liên tưởng.
Thơ là thơ nhưng thơ cũng chính là cuộc đời. Vì vậy, qua những đối
thoại của Lê Đạt về thơ, về nghề thơ, nghiệp thơ ta thấy được những quan
niệm của ông về cuộc sống và con người. Đó là những khát vọng về dân
chủ, về tự do, về chân lý, về sự khẳng định nhân vị con người. Là một nhà
thơ ln đề cao cá tính sáng tạo, với những trải nghiệm của mình, Lê Đạt
muốn đối thoại với thơ để khám phá bản thể của thơ. Đó cũng là cách để
ơng đối thoại với đời và khám phá bản thể con người.
Thơ là một nghề nhưng là nghề của bề sâu, với quan niệm này. Lê
Đạt đã đề cao nghề thơ, nghiệp thơ và đề cao cá tính sáng tạo trong thơ.
Ơng địi hỏi trong thơ phải ln có sự đổi mới, bởi đổi mới là tạo ra một
entropi âm, nó chính là sinh tố cải lão hồn đồng của trí tuệ [20, 106].
Vì vậy, với những quan niệm thơ của Lê Đạt sẽ góp phần gợi thức
cho chúng ta trong việc nhận diện khuôn mặt thơ hôm nay, nhằm cách tân
nền thơ ca dân tộc, hướng đến một xã hội nhân văn. Vì nói như Lê Đạt:
‚Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước một bến đị gió
nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện những



vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn)… [20, 115]
Tiểu kết chƣơng 1
Trên đây chúng tơi đi vào tìm hiểu một số vấn đề về tư duy nghệ
thuật và quan niệm thơ của Lê Đạt cũng như sự phát triển của quan niệm
đó qua các chặng đường sáng tạo. Quan niệm thơ của Lê Đạt vận động và
phát triển qua hai thời kỳ: Trước vụ Nhân văn- Giai phẩm và sau vụ Nhân
văn- Giai phẩm. Trọng tâm của nó bàn về đặc trưng của thơ, thơ như là
một sự thể nghiệm đến thơ gắn với chữ, với ngôn từ nghệ thuật và coi thơ
là một nghề nhưng là ‚nghề của bề sâu‛. Quan niệm thơ của Lê Đạt rất
nghiêm khắc và giàu giá trị nhân văn sẽ góp phần tích cực vào cơng cuộc
cách tân thơ Việt.

Chƣơng 2
CÁI TƠI TRỮ TÌNH VÀ MỘT SỐ BIỂU TƢỢNG ĐẶC
SẮC TRONG THƠ LÊ ĐẠT
2.1. Cái tơi trữ tình trong thơ Lê Đạt
2.1.1. Khái niệm về cái tơi, cái tơi trữ tình trong thơ
Cái tôi thực chất là một khái niệm triết học. Các nhà triết học duy tâm
từ R. Đê- các, J.Gphichtê, G.x.Hê ghen, H.Becxông,… S.phơ-rơt là những
người đầu tiên chú ý đến cái tôi khi đề cao ý thức, chủ quan- khách quan,
cá nhân- xã hội.
R. Đê- các (1569- 1650) đã đưa ra một định nghĩa nổi tiếng: ‚Tôi tư duy
vậy là tôi tồn tại‛. Theo ông, cái tôi thuộc về thực thể biết tư duy, như căn
nguyên của nhận thức duy lý. Nhà triết học Bécxông (1859- 1941) lại cho
rằng, con người có hai cái tơi. Cái tơi bề mặt là các quan hệ của con người
đối với xã hội. Còn cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức. Ý thức mới



×