Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở huyện thạch hà đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.12 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

PHẠM NAM ANH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN THẠCH HÀ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

PHẠM NAM ANH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN THẠCH HÀ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm


Hà Nội – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa được công bố trong bất cứ cơng trình nào.
Tác giả

Phạm Nam Anh


Môc Lôc
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm
1.2. Tầm quan trọng và nội dung xây dựng cán bộ, công chức cấp xã đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN THẠCH HÀ KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện Thạch Hà
2.2. Kinh nghiệm và yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã ở huyện Thạch Hà
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN THẠCH HÀ

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
3.1. Phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện Thạch Hà đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính nhà nước hiện nay
3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện Thạch Hà đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính nhà nước hiện nay

Trang
1

13
13
26

37
37
58

63

63

70

KẾT LUẬN

97


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CCTTHC

Cải cách thủ tục hành chính

CBCC

Cán bộ cơng chức

CNH,HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CTQG

Chính trị quốc gia


HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

Nxb

Nhà xuất bản

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo

GPMB

Giải phóng mặt bằng

KH - CN

Khoa học – công nghệ

KT - XH

Kinh tế - xã hội

NNLCLC


Nguồn nhân lực chất lượng cao

TW

Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” (1947) Chủ tịch Hồ Chi
Minh đã đánh giá cao vai trò của cán bộ, Người coi "Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, có
cán bộ tốt thì việc gì cũng xong. Vì vậy “huấn luyện là công việc gốc của
Đảng” [58, tr.269] Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi
giành được chính quyền cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chăm
lo đến công tác cán bộ.
Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội
VI năm 1986) đến nay, công tác cán bộ, công chức (CBCC) luôn được Đảng

và Nhà nước ta chú trọng, quan tâm. Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa VIII,
Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố trực tiếp quyết định đến sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [23, tr.34]. Đất nước ta đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, địi hỏi Đảng ta
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ nặng nề hiện
nay, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay. Vấn đề này được ghi
nhận tại Điều 118 - Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992
(sửa đổi năm 2001). Cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, là nơi
trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống
1


hàng ngày của nhân dân ở địa phương. CBCC cấp xã trực tiếp tiếp xúc với
nhân dân, làm cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Họ có vai trò rất
quan trọng trong việc quyết định hiệu quả của hệ thống chính trị cấp cơ sở nói
riêng và hệ thống chính trị nói chung.
Cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp thực hiện giải quyết và
bảo đảm trên thực tế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân có được tơn trọng và bảo
đảm thực hiện hay không, trước hết phải được thể hiện ở hoạt động của chính
quyền cấp xã, mà thơng qua đó là chất lượng của CBCC cấp xã. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [58, tr.371].
Thực tiễn cho thấy, nơi đâu có đội ngũ CBCC cơ sở vững mạnh thì nơi
đó tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế, văn hóa phát triển; quốc phòng,

an ninh được giữ vững. Ngược lại, cơ sở nào đội ngũ CBCC không được đào
tạo, không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, thì địa phương đó sẽ gặp khó
khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển. Điều đó cho thấy, CBCC cấp xã có vai
trị rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ thống
chính trị cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức cấp xã, phường, thị trấn nói chung và ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
nói riêng là vấn đề có ý nghĩa thời sự và rất cấp thiết. Trong những năm qua
huyện Thạch Hà có sự điều chỉnh về địa giới hành chính. Có 6 xã vùng biển
của huyện chuyển về huyện mới (huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), do đó mọi
mặt kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội có nhiều biến động. Hiện nay trên địa
bàn có nhiều dự án, cơng trình trọng điểm của tỉnh và quốc gia đang đồng thời
được triển khai thực hiện. Công tác GPMB, tái định cư trên địa bàn phục vụ
các chương trình, dự án cịn có nhiều khó khăn, phức tạp; q trình thực hiện
cịn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ nặng nề, phức
2


tạp về xây dựng và quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng,
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, phịng chống các tệ nạn xã hội, quản lý dân cư, đảm bảo an ninh chính
trị - trật tự an tồn xã hội và xây dựng nông thôn mới... Để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ nêu trên, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội thì vai trị của đội
ngũ CBCC cấp xã là hết sức quan trọng. Huyện Thạch Hà phải có một đội
ngũ cán bộ chủ chốt của huyện nói chung và đội ngũ cán bộ, cơng chức của
Hệ thống chính trị cấp xã nói riêng vững mạnh, có phẩm chất, năng lực,
phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén, năng động, đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới. Tuy nhiên, hiện nay do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan, đội ngũ CBCC cấp xã của huyện
Thạch Hà cịn có những hạn chế, bất cập: tỷ lệ cán bộ được đào tạo cơ bản

cịn ít; chất lượng, năng lực điều hành của cán bộ chưa đồng đều, còn khá
nhiều CBCC yếu, kém; cơ cấu cán bộ về nhiều lĩnh vực: giới tính, độ tuổi…
cịn có những bất hợp lý.
Trước u cầu của việc cải cách bộ máy hành chính nhà nước hiện nay,
đội ngũ CBCC của huyện Thạch Hà cần phải được xây dựng, phát triển cả về
số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm góp phần trực tiếp thúc đẩy q trình
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Xuất phát từ những khía cạnh vừa
nêu, tơi chọn vấn đề: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
Thạch Hà đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ, chun ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung, cán bộ, cơng chức nói riêng là nội dung được
nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Trong số các bài viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài, cơng trình
nghiên cứu, các luận văn, luận án đã cơng bố, liên quan đến các vấn đề cán bộ
có nhiều cơng trình, bài viết đã có những đóng góp, kiến nghị hết sức sâu sắc,
có giá trị thực tiễn cao như:
3


Một số cơng trình đã in thành sách
- Nguyễn Quốc Phẩm (Chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở
và dân chủ hóa đời sống xã hội nơng thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
Nxb CTQG. Hà Nội. Tác giả trình bày thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở vùng nơng thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số ở
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trước yêu cầu thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở. Đề tài cũng đã phân tích đánh giá thực trạng của đội ngũ cán bộ cấp xã
ở các địa bàn vừa nêu, đồng thời kiến nghị những phương hướng và giải pháp
nhằm kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của HTCT, thực hiện quy chế dân
chủ trên địa bàn nói trên.

- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2001), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn
sách đã phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học cho việc nâng
cao ĐNCB, đặc biệt là ĐNCB lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ đó đưa ra những
kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển đội ngũ này
cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
- Hồng Chí Bảo (Chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị nơng thơn nước
ta hiện nay. Nxb CTQG. Hà Nội. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề từ quan
điểm lý luận đến thực tiễn, đồng thời cũng đưa ra một số phương hướng và
giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở
nông thôn nước ta.
- Đào Duy Quát (2005), Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết của tác giả về
công tác tư tưởng và vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơng tác tư
tưởng; kiên định những quan điểm có tính ngun tắc trong cơng tác tư tưởng
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới.
4


- Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ
và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cơng
trình tập thể với sự tham gia của các GS,TS Hồng Chí Bảo; PGS, TS Lưu Đạt
Thuyết; PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh; PGS,TS Nguyễn Quốc Phẩm... bàn về
dân chủ, hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trong cuốn
sách này có bàn đến đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở các vùng nông thôn Việt Nam.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã nêu lên những nét cơ bản về cuộc đấu tranh tư

tưởng, lý luận của các nước XHCN và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế
thời kỳ từ năm 1991 đến nay; phê phán các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt
trận tư tưởng, lý luận; nêu lên cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
trong hơn 20 năm đổi mới. Từ đó dự báo tình hình, phương hướng các nhóm
giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu, phê phán các quan điểm sai trái, cơ
hội, thù địch trong thời gian tới.
- Cao Khoa Bảng (2008) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã
trình bày những kinh nghiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
thuộc diện Ban Thường vụ quản lý, thực trạng, kinh nghiệm và những yêu cầu
đặt ra.
Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2001) Các giải pháp thúc đẩy cải cách
hành chính ở Việt Nam. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày q
trình cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua, nhưng khó khăn,
nguyên tắc phương pháp thúc đẩy cải cách hành chính.
Các bài báo khoa học:
- Nguyễn Minh Phương (2003), Đổi mới chính sách, chế độ đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở. Tạp chí Quản lý Nhà nước (02), tr. 9-12. Tác giả đã nêu lên
thực trạng chính sách, chế độ đối với cán bộ cơ sở hiện nay và phương hướng
đổi mới chính sách, chế độ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.
5


- Nguyễn Phương Đông (2002), Vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tạp chí Kiểm tra (07), tr 26 -27.
Tác giả đã nêu lên tầm quan trọng và hiệu quả, hình thức, phương pháp giáo
dục tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.
Các luận văn, luận án.
- Vũ Huy Bình (2010) chất lượng cán bộ, công chức cấp xã của tỉnh
Bắc Ninh. Luận văn thạc sĩ luật, chuyên ngành, lý luận và lịch sử nhà nước và

pháp luật. Luận văn đã làm rõ cơ sở khoa học về chất lượng cán bộ công chức
cấp xã; đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng cán bộ
công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Ninh; chỉ ra mục tiêu, quan điểm và đề ra những
giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu trong giai
đoạn hiện nay.
- Phạm Công Khâm (2001), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn đồng bằng sơng Cửu Long hiện nay. Luận án Tiến sĩ Chính trị
học, chuyên ngành Xây dựng Đảng. Luận án đã làm rõ cơ sở khoa học về vai
trị ĐNCBCC và cơng tác xây dựng ĐNCBCC cấp xã; đánh giá thực trạng và
những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng ĐNCBCC cấp xã vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long; Chỉ ra mục tiêu, quan điểm và đề xuất những giải
pháp để xây dựng ĐNCBCC theo yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay.
- Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ. Luận án
Tiến sĩ Triết học chuyên ngành CNXH khoa học. Luận án đã nghiên cứu một
cách cơ bản và có hệ thống về cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt trong HTCT cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ; trên cơ sở đó đề xuất
một hệ thống các giải pháp tác động phù hợp và kiến nghị những đổi mới nội
dung, chương trình, phương thức giáo dục lý luận chính trị, góp phần nâng
cao vai trò, phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta trong
quá trình đổi mới theo định hướng XHCN.
6


- Thành Từ Dũ (2006) Báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho
các bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh hiện nay. Luận văn Thạc sĩ Triết học. Luận
văn tìm hiểu thực trạng vai trị báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị cho
cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh và đưa ra những giải pháp chủ yếu nâng cao
vai trò báo chí trong giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở
Tây Ninh.

- Thái Thị Duy Quyên (2006), Chất lượng công tác tư tưởng của các
Đảng bộ xã vùng có đơng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên Giang. Luận
văn Thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành xây dựng Đảng. Luận văn đã làm rõ
cơ sở lý luận, thực tiễn và các giải pháp nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng của các Đảng bộ xã vùng có đơng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên
Giang giai đoạn hiện nay.
- Mai Đức Ngọc (2007), Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã
trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay (qua
thực tế vùng đồng bằng sông Hồng). Luận án được bảo vệ thành cơng năm 2007
tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một cơng
trình giúp tham khảo những khía cạnh lý luận và thực tiễn về vai trò của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nơng
thơn trong q trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, ….
- Trần Duy Hưng (2009), Chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng đồng
bằng sơng Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án này cũng được bảo vệ thành
cơng năm 2009 ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nội
dung cơ bản Luận án đã phân tích, luận giải về chất lượng bí thư đảng ủy xã
vùng đồng bằng Sơng Hồng- Những kết quả cũng như những hạn chế, yếu
kém trong đào tạo bồi dưỡng tạo nguồn, bí thư đảng ủy xã trên địa bàn vùng
đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu của đẩy mạnh CNH, HĐH.
Các Luận văn Thạc sĩ:
Bên cạnh các luận án, những năm gần đây ở Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh và một số cơ sở đào tạo sau đại học khác Việt
7


Nam đã có khá nhiều Luận văn Thạc sĩ các chuyên ngành Triết học, Chính trị
học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Xây dựng Đảng,v.v… Đi đầu nghiên cứu về
hệ thống chính trị cấp cơ sở và việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán
bộ, lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu địi hỏi mới của sự

nghiệp CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thôn.
Dưới đây chỉ xin tường thuật một số luận văn tiêu biểu đã được bảo
vệ thành công:
- Nguyễn Thị Huệ (2007), Thông tin việc hoạt động lãnh đạo, quản lý
của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa. Luận văn đã phân tích làm
rõ vai trị của thông tin với hoạt động lãnh đạo, quản lý của các bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa trong điều kiện hiện nay. Đây là một luận văn rất
cấp thiết tham khảo khi triển khai đề tài nghiên cứu của học viên.
- Lường Thị Mến (2008) Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn hiện nay. Luận văn Thạc sĩ chuyên
nghành Triết học này đã đi sâu phân tích về bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn song đã cho thấy
nhiều điểm hạn chế chung ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp xã
ở các địa bàn nông thôn Việt Nam nước ta. Đây cũng là một nguồn tài liệu
tham khảo đáng quý cho quá trình thực hiện Luận văn.
- Tống Phước Trường (2008), Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ
nghĩa cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. Đây là một luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, đã đi sâu nghiên cứu
làm rõ tầm quan trọng của ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
- Nguyễn Văn Vũ (2008), Kiện tồn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc
Liêu hiện nay. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học này
đã phân tích luận giải về việc kiện tồn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Bạc
Liêu , trong đó có việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở… Đây cũng là việc Luận văn giúp tham khảo trong
nghiên cứu đề tài.
8


- Trần Ngọc Danh (2005), Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ

thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị
học này đã đi sâu bàn về chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị ở cơ sở ở tỉnh Nghệ An giúp tham khảo khi bàn về chính sách, đãi ngộ
với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.
- Nguyễn Ngọc Khanh (2006), Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận
chính trị cho cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Thái Nguyên. Đây
cũng là một Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học, giúp làm tài liệu
tham khảo khi bàn về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà hiện nay.
- Trần Trung Trực (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học cũng đã phân tích thực trạng,
phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị
cấp xã ở huyện Bình Chánh. Đây cũng là một tài liệu tham khảo giúp triển
khai đề tài.
- Giao Thị Châu (2005), Chất lượng Bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay. Đây là một Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng rất
cần tham khảo, kế thừa thành quả nghiên cứu về việc đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao chất lượng đội ngũ bí thư đảng ủy xã trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Lê Văn Tam (2006), Xây dựng đội ngũ bí thư đảng ủy cấp xã của tỉnh
Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay. Luận văn Thạc sỹ Xây dựng Đảng này
cũng đã giúp làm tài liệu tham khảo bổ ích triển khai đề tài.
- Tăng Nghĩa (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp huyện tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ
Xây dựng Đảng này đã bàn trực tiếp về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh nói chung. Đây là tài liệu tham
khảo đáng quý về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã ở tỉnh Hà
Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
9



- Nguyễn Phi Long (2007), Quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này đã đi sâu
nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở tỉnh Ninh
Bình, giúp làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh.
- Trịnh Thăng Sự (2008), Xây dựng phong cách người bí thư Đảng ủy
xã ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay. Luận văn là tài
liệu tham khảo tốt khi nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt cấp cơ sở nói chung.
Các sách, báo, luận án, luận văn vừa được tổng thuật đã cung cấp làm tài
liệu tham khảo quý cho việc triển khai đề tài. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào bàn sâu, hệ thống hóa mối quan hệ giữa đội ngũ CBCC cơ sở trước yêu cầu
cải cách hành chính nước ta hiện nay trên địa bàn một huyện như huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Những tồn tại, vấn đề đặt ra sẽ được luận văn này đi sâu nghiên cứu,
góp phần giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng về xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã,
luận văn đề xuất những phương hướng cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lượng của đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thạch Hà đáp ứng yêu cầu
cải cách hành chính nhà nước hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, luận chứng nhằm làm rõ hơn những căn cứ lý luận và thực
tiễn về xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thạch Hà .
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở
huyện Thạch Hà và những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thạch Hà

đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay.
10


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về việc xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở huyện Thạch Hà
(bao gồm các yếu tố số lượng, chất lượng, cơ cấu của đội ngũ này).
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn tập trung chủ yếu vào việc xây dựng đội ngũ CBCC ở xã và
thị trấn trên địa bàn huyện (bao gồm 30 xã và 1 thị trấn).
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2007 đến nay (tính từ thời điểm một
số xã (6 xã) của huyện Thạch Hà tách về huyện Lộc Hà).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ
nghĩa Mác - LêNin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề CBCC; Đó là vai trò
quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ đảm bảo tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối chính trị của Đảng .
- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách Nhà nước về
CBCC và vai trò tổ chức thực hiện của người cán bộ nói chung, người cán bộ
cấp cơ sở nói riêng. Dựa trên quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa
IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn.
- Vận dụng kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trước nghiên cứu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã, thị trấn.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp lơgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã

hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn. Đánh giá hoạt
động của cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn ở huyện Thạch Hà.
11


6. Đóng góp của luận văn
- Trong phạm vi nghiên cứu nhất định, Luận văn góp phần làm rõ
thêm cơ sở khoa học của quan niệm về xây dựng đội ngũ CBCC cấp xã ở
huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện, các đồn thể chính trị của
huyện; cho đảng ủy, UBND, các đồn thể chính trị cấp xã, thị trấn huyện
Thạch Hà trong công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ
thống chính trị. Luận văn cịn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng
và xây dựng hệ thống chính trị cấp xã, thị trấn ở trường Chính trị tỉnh và các
Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo, Phụ lục luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức

Cán bộ, công chức (CBCC) là thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ,
công chức và thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa
ra các cách giải thích khác nhau về các thuật ngữ "cán bộ", "công chức" và
"viên chức". Thuật ngữ "cán bộ" được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội
chủ nghĩa và bao hàm trong phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu
vực nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Song, để xác định cụ thể
những tiêu chí nào là cán bộ và cơng chức đến nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều
ý kiến khác nhau.
Thuật ngữ "cán bộ, công chức" thường được hiểu một cách khái quát là
những người được Nhà nước tuyển dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm
vụ nhất định, do Nhà nước trả lương và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân
dân, phục vụ Nhà nước theo các quy định của pháp luật.
Theo Từ điển Tiếng Việt cán bộ là “người làm công tác nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước, Đảng và đồn thể có chức vụ”, cơng
chức là “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp”
[85, tr.67].
Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, tùy thuộc vào thể chế chính trị,
cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, của lịch sử và văn hoá dân tộc mà phạm
vi xác định cán bộ, cơng chức lại là khác nhau. Có những quốc gia coi công
chức là những người làm việc trong bộ máy nhà nước (bao gồm cả các cơ
quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp hay các lực lượng vũ trang, cơng
an). Trong khi đó có những nước lại chỉ giới hạn những người làm việc trong
13


các cơ quan quản lý nhà nước hay hẹp hơn nữa là trong các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước.
Ở các quốc gia (Anh, Thái Lan, Singgapore...), công chức được hiểu là

người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong bộ máy hành chính của các
Bộ thuộc Chính phủ. Như vậy, những đối tượng khác tuy làm việc ở Bộ
nhưng không trực tiếp làm công tác chuyên môn nghiệp vụ theo chức năng
quản lý của Bộ thì khơng phải là công chức, và cũng theo quan niệm về công
chức như vậy thì những người làm trong bộ máy chính quyền của địa phương
cũng không được coi là công chức.
Quan niệm công chức không chỉ là những người thực hiện các hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ quản lý trong bộ máy hành chính của các Bộ
(trung ương) mà cũng bao gồm những người làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ quản lý trong bộ máy hành chính thuộc chính quyền của các địa phương
(Nga, Trung Quốc, Ba Lan, Hunggari...)
Khác với quan niệm trên, một số nước xác định phạm vi công chức bao
gồm cả những người thực thi công vụ tại các tổ chức cung ứng dịch vụ công
hoặc cả ngành lập pháp, tư pháp (Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha...)
Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trước khi Luật Cán bộ,
công chức được ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng như trong các hoạt
động quản lý, chúng ta chưa xác định được rõ ràng cán bộ; công chức; viên
chức. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, kể từ Hiến pháp 1992 (đã sửa
đổi, bổ sung) cho đến các luật khác (ví dụ như Luật Tổ chức Chính phủ; Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Luật Bình đẳng giới; Luật
Giáo dục;...) đều có những điều, khoản sử dụng các thuật ngữ "cán bộ", "cơng
chức" nhưng chưa có một văn bản luật nào giải thích các thuật ngữ này.
Trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm đặc biệt là đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn có sự liên thơng với nhau. Theo u
cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển họ giữa
các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Với điểm
14


đặc thù này, việc nghiên cứu để xác định rõ cán bộ; công chức; viên chức một

cách triệt để rất khó và phức tạp.
Khái niệm “cơng chức” bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức,
trong đó cơng chức chỉ được xác định trong phạm vi các cơ quan Chính phủ,
được quy định tại Điều 1 “những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân
dân tuyển dụng, giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính
phủ, ở trong hay ở ngồi nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ những
trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Tuy nhiên, do hồn cảnh
những năm tháng kháng chiến sau đó, mặc dù khơng có văn bản nào bãi bỏ
Sắc lệnh 76/SL nhưng trên thực tế các nội dung của quy chế này không được
áp dụng. Một thời gian dài chúng ta quen thuộc với việc thực hiện chế độ
“cán bộ” trên phạm vi cả nước, lấy người cán bộ làm trung tâm. Theo đó, tất
cả những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nước, nông trường, lâm trường và lực
lượng vũ trang đều được gọi chung trong một cụm từ là "cán bộ, công nhân
viên chức nhà nước".
Sau đó, đến những năm đầu thập niên 90 khái niệm công chức mới xuất
hiện trở lại. Tại Nghị định số 169/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành
ngày 25/5/1991 về công chức Nhà nước đã quy định công chức theo một
phạm vi rộng hơn, bao gồm:
a) Những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước ở
Trung ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương.
b) Những người làm việc trong các Đại sứ quán, lãnh sự quán của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
c) Những người làm việc trong các trường học, bệnh viện, cơ quan
nghiên cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà
nước và nhận lương từ ngân sách.
d) Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan Bộ Quốc phòng.
15



e) Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong bộ máy của các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát các cấp.
g) Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong bộ máy của Văn phòng Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội
đồng nhân dân các cấp.
Những trường hợp riêng biệt khác do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy
định.
Phạm vi công chức không bao gồm:
a) Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
b) Những người giữ các chức vụ trong các hệ thống lập pháp, hành pháp, tư
pháp được Quốc hội hoặc Hội đồng Nhân dân các cấp bầu ra hoặc cử ra theo
nhiệm kỳ.
c) Những hạ sĩ quan, sĩ quan tại ngũ trong Quân đội Nhân dân Việt
Nam, bộ đội biên phòng.) Những người làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp
đồng và những người đang thời kỳ tập sự chưa được xếp vào ngạch.
e) Những người làm việc trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh của Nhà
nước.
g) Những người làm việc trong các cơ quan của Đảng và Đoàn thể nhân
dân (có quy chế riêng của Đảng và Đồn thể nhân dân).
Đến năm 1998, khi Pháp lệnh Cán bộ, công chức được ban hành, những
người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, đoàn
thể được gọi chung trong một cụm từ là "cán bộ, công chức". Lúc này, phạm
vi và đối tượng cán bộ, công chức đã được thu hẹp hơn so với trước, nhưng
vẫn gồm cả khu vực hành chính nhà nước, khu vực sự nghiệp và các cơ quan
của Đảng, đoàn thể. Những người làm việc trong các tổ chức, đơn vị còn lại
như doanh nghiệp nhà nước, lực lượng vũ trang thì do các văn bản pháp luật
về lao động, về sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, về công an nhân dân
Việt Nam... điều chỉnh. Với quy định của Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức, các
tiêu chí: Cơng dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ Ngân sách nhà

nước mới chỉ là những căn cứ để xác định một người có phải là "cán bộ, cơng
16


chức" hay không. Năm 2003, khi sửa đổi, bổ sung lần thứ hai (lần thứ nhất là
vào năm 2000), một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Nhà nước đã
thực hiện việc phân định biên chế hành chính với biên chế sự nghiệp. Việc
phân định này đã tạo cơ sở để đổi mới cơ chế quản lý đối với cán bộ, công
chức trong các cơ quan Nhà nước với cán bộ, công chức trong các đơn vị sự
nghiệp của Nhà nước. Nhưng đến thời điểm này, vấn đề làm rõ thuật ngữ
"công chức" và thuật ngữ "viên chức" vẫn chưa được giải quyết.
Vì khơng xác định và phân biệt được rõ thuật ngữ "cán bộ"; "công
chức", "viên chức" nên đã dẫn đến những hạn chế và khó khăn trong quá trình
xác định những điểm khác nhau (bên cạnh những điểm chung) liên quan đến
quyền và nghĩa vụ, đến cơ chế và các quy định quản lý, tuyển dụng, bổ
nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, kỷ luật, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ
phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động của cán bộ cũng như của công
chức, viên chức. Việc làm rõ thuật ngữ "cán bộ"; "công chức"; "viên chức"
được coi là vấn đề cơ bản, quan trọng, là một nhu cầu cần thiết xuất phát từ
thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý đặt ra hiện nay. Điều này đã được Luật Cán
bộ, công chức năm 2008 giải quyết tương đối khoa học, phù hợp với lịch sử
hình thành đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức; phù hợp với thể chế chính
trị và thực tiễn quản lý của Việt Nam, tạo cơ sở và căn cứ để đưa ra những nội
dung đổi mới và cải cách chế độ công vụ, công chức trong thời gian tới. Đồng
thời đây cũng là căn cứ để xác định rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật
và để đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ do một văn
bản luật khác điều chỉnh. Từ đây chúng ta có căn cứ và cơ sở để tiếp tục đẩy
mạnh việc hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý đội ngũ cán bộ; đội ngũ công
chức; đội ngũ viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội.

Do đó, nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và đầu tiên mà Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 đã làm được, đó là làm rõ được những tiêu chí xác định ai là
cán bộ, ai là cơng chức.
17


Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 13/11/2008 [54], có hiệu lực
chính thức từ ngày 01/01/2010 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ
quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp
và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; …
1.1.2. Yêu cầu của cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khi đề ra đường lối đổi
mới, trước hết là đổi mới tư duy đến đổi mới kinh tế, đổi mới các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội, đã chủ trương “thực hiện cuộc cải cách lớn về tổ
chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”, với mục tiêu là thiết lập cơ chế

quản lý nhà nước mới phù hợp với cơ chế kinh tế mới “thể hiện quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp” [18, tr.118].. Văn kiện
Đại hội đồng thời xác định sáu nhiệm vụ cụ thể mà bộ máy nhà nước được
đổi mới phải có năng lực thực hiện. Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội VI đến
Nghị quyết các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, vấn đề cải cách hành
chính chưa được đặt ra một cách trực diện, độc lập, mà nằm trong khuôn khổ
18


đổi mới bộ máy nhà nước nói chung; thuật ngữ “cải cách hành chính” chưa
xuất hiện; các cơ quan hành chính, vấn đề quản lý hành chính cũng chưa được
nhận thức đầy đủ về tính chất, phạm vi hoạt động, vẫn được gọi là “cơ quan
quản lý hành chính - kinh tế”; quản lý hành chính chỉ được tiếp cận chủ yếu
trên lĩnh vực kinh tế, gắn với cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước; cũng chưa
có sự phân biệt rõ cán bộ với cơng chức hành chính, tính đặc thù trong hoạt
động cơng vụ của đội ngũ này. Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội VI cũng cho thấy,
cải cách hành chính là hết sức cần thiết, xuất phát từ yêu cầu cải cách cơ chế
quản lý kinh tế cũ, là nguyên nhân “đẻ ra bộ máy quản lý cồng kềnh, với những
cán bộ quản lý kém năng động, không thạo kinh doanh, với phong cách quản lý
quan liêu, cửa quyền” [18, tr.63].; nhấn mạnh đó là “một q trình cải cách có
ý nghĩa cách mạng sâu sắc, là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến
bộ và cái lạc hậu. Cuộc đấu tranh để đổi mới khơng những bị sức mạnh của
thói quen níu lại mà còn vấp phải những đặc quyền, đặc lợi của một số người
gắn bó với cơ chế cũ. Đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng và cơ quan nhà
nước, đấu tranh giữa những người đồng chí, đấu tranh với chính bản thân
mình”[18, tr.65].
Vấn đề cải cách hành chính được Đảng chính thức đề cập tại Đại hội đại
biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khóa VII và Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII. Văn kiện Đại hội chỉ rõ “xúc tiến cải cách
hành chính”, với lý do khơng chỉ từ u cầu của cải cách kinh tế, mà cịn từ

chính sự yếu kém của nền hành chính, sự yếu kém này đã bộc lộ qua 3 năm
tiến hành cải cách kinh tế và từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, mở
rộng và thực thi dân chủ, “phát huy vai trị điều hành của bộ máy hành pháp”,
“bảo đảm tính liên tục của nền hành chính”.
Theo chủ trương của Đại hội, Hội nghị lần thứ tám ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VII), và liên tục là các Đại hội VIII, Đại hội IX, Đại hội X
cải cách hành chính nhà nước đã được chính thức đặt ra, được xem là trọng tâm
của toàn bộ hoạt động cải cách bộ máy nhà nước, với những lý do chủ yếu sau:
19


- Từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phải xác định mối quan hệ giữa
nhà nước, trực tiếp là nền hành chính nhà nước với kinh tế; mối quan hệ giữa
quyền lực nhà nước với quy luật kinh tế thị trường; giữa quản lý nhà nước với
quản lý doanh nghiệp; giữa nền hành chính nhà nước với xã hội, trong điều
kiện mà những lĩnh vực tư nhân của xã hội dân sự phát triển, đặt ra những yêu
cầu mới, chính đáng mà nền hành chính phải đáp ứng, phải phục vụ.
Từ yêu cầu mở rộng dân chủ xã hội, trong đó có dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế, bảo đảm các nguyên tắc tự do kinh doanh, các quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
Từ sự tác động của tồn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ và
chủ trương chủ động hội nhập quốc tế.
Từ sự yếu kém của nền hành chính được thể hiện ra ở tất cả bộ phận hợp
thành nền hành chính, đến chế độ cơng chức và quy chế cơng vụ hành chính và
tài chính cơng. Nghị quyết 17/NQ-TW ngày 01/8/2007 củ Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu qủa quản lý của bộ máy nhà nước đã chỉ ra: “Hệ thống thể chế pháp luật,
nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều
bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống

hành chính nhà nước chưa đủ rõ, cịn trùng lặp, và chưa bao quát hết các lĩnh
vực quản lý nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu; tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng… Thủ tục hành chính cịn
nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán
bộ, công chức chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn nhiều yếu
kém”. [31, tr.156].
Chính từ những lý do trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, và Hội
Nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X tiếp tục chủ trương đẩy
mạnh cải cách hành chính.
20


×