Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.66 KB, 154 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tháng 6/1919, người Việt Nam yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội
nghị hồ bình Vec-xây bản "u sách của nhân dân Việt Nam" gồm 8 điểm
trong đó u cầu Chính phủ Pháp "cải cách nền tư pháp Đông Dương bằng sự
ban bố cho người bản xứ những đảm bảo về pháp lý giống như đối với người
châu Âu..." và "thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật". Sự kiện đó đã
đánh dấu khát vọng về sự bình đẳng và được bảo đảm các quyền trước pháp luật
của nhân dân An Nam được lên tiếng. Cũng chính khát vọng nước nhà được độc
lập và vươn đến một xã hội dân chủ, bình đẳng cho nhân dân đã ni dưỡng ý
chí hàng triệu người con đấu tranh vì Tổ quốc. Cách mạng tháng Tám năm 1945
thắng lợi. Chính quyền về tay nhân dân. Trong mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập
công bố ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những quyền khơng ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
mưu cầu hạnh phúc". Lời tuyên bố đó đã đặt cơ sở pháp lý để xây dựng một nhà
nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Trước thời kỳ đổi mới, việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp
luật được thực hiện trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp. Từ Đại hội VI, Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, trong
đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
Trong q trình đó đã nảy sinh quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, từ nhận thức đến thực tiễn cịn là một
khoảng cách. Có lúc nhận thức đúng, nhưng lại vận dụng sai. Khi thực hiện,
chúng ta chưa theo kịp với sự vận động khách quan của công cuộc đổi mới kinh
tế - xã hội. Vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội chưa thực sự được tôn
trọng đúng mức.

1



Nguyên nhân của những hạn chế trên đây là do hồn cảnh thực tế và do
trình độ quản lý cịn non kém. Những ảnh hưởng, tàn dư của tư tưởng cũ, trong
cách nghĩ, cách làm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức. Năng lực của đội ngũ cán bộ còn rất hạn chế về trình độ chun mơn,
về kiến thức quản lý, kiến thức pháp luật, phong cách điều hành, tác phong công
tác. Rất nhiều cán bộ quen điều hành theo mệnh lệnh, bằng uy quyền, chứ khơng
bằng uy tín; họ rất ít quan tâm đến pháp luật. Người dân chưa có thói quen chấp
hành pháp luật, chấp hành không nghiêm, hơn nữa quan niệm "phép vua thua lệ
làng" đã gây khơng ít khó khăn cho Nhà nước trong quá trình thực thi pháp luật.
Từ Đại hội VII (năm 1991) của Đảng đến nay, tình hình hoạt động của bộ
máy nhà nước nói chung có tiến triển theo chiều hướng tốt. Đây là giai đoạn
chúng ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng về lĩnh vực kinh tế. Các tiền đề kinh
tế, chính trị, tư tưởng, xã hội và quốc tế thúc đẩy sự hình thành ngày càng đầy đủ
và tồn diện hơn những tư tưởng, quan điểm, sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng nhà nước pháp quyền là
mục tiêu cần hướng tới của bất kỳ xã hội nào, vì nó đáp ứng được khát vọng tự do,
dân chủ, công bằng xã hội, phúc lợi cho nhân dân, là phương thức hữu hiệu bảo
đảm sự tôn trọng nhân phẩm và các quyền cơ bản của con người.
Như vậy, ở Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền tuy còn
mới mẻ, nhưng nó đang mở ra phương hướng mới đầy triển vọng khi xác định
đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính q trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta (từ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) và đứng trước yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đã tạo ra những thay đổi lớn về hạ tầng cơ sở. Cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và đang phát triển. Cùng với kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng vững chắc, các thành phần kinh tế khác
như kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài, đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong

sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cơ sở hạ tầng thay đổi, tất yếu dẫn

2


đến sự thay đổi của Nhà nước và pháp luật (với tư cách là những bộ phận trọng
yếu của kiến trúc thượng tầng). Nhà nước và pháp luật phải phản ánh, đại diện
đầy đủ cũng như điều hoà được các lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân
trong xã hội. Nhà nước khơng cịn là người bảo trợ, bao cấp cho xã hội, mà chỉ là
"bà đỡ", tạo ra các điều kiện, môi trường, định hướng cho xã hội phát triển; pháp
luật không chỉ là công cụ của Nhà nước để quản lý xã hội mà còn là công cụ, là
chỗ dựa vững chắc của người dân để họ sống và xử sự theo pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; pháp luật phải là hiện thân của nguyên tắc:
công dân được làm tất cả những gì pháp luật khơng cấm; cán bộ, cơng chức cơ
quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Thực tế đã đòi hỏi
chúng ta phải nhìn nhận và xác định rõ vị trí, vai trị và chức năng của Nhà nước
và pháp luật cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phù hợp với hoàn cảnh mới, phải tạo ra những điều kiện, môi trường và các định
chế pháp lý cần thiết cho việc bảo đảm các quyền tự do kinh doanh, quyền tự do,
dân chủ của công dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tình hình quốc tế thay đổi và có những diễn biến phức tạp, địi hỏi
chúng ta phải có những đối sách thích hợp với điều kiện, hồn cảnh mới: một
mặt, phải giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ được bản sắc và truyền
thống của dân tộc trong quá trình phát triển; mặt khác, chúng ta phải biết tranh
thủ, tận dụng những nhân tố mới và tinh hoa mới của thời đại. Kết hợp nhuần
nhuyễn và hiệu quả giữa sức mạnh có tính quyết định của nội lực với sức mạnh
của thời đại để tạo ra sức bật mới cho quá trình phát triển và hội nhập.
Chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế
thế giới. Trước yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng, chăm lo đời sống nhân dân,
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong bối cảnh hiện nay. Việc

xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền để ngày càng hoạt động tốt
hơn là rất cần thiết.
Hơn nữa, ở Việt Nam vấn đề nhà nước pháp quyền còn mới mẻ cả về lý
luận lẫn thực tiễn, do đó việc cần làm rõ hơn về nhà nước pháp quyền cũng như
việc hoàn thiện nó trong bối cảnh hiện nay là vấn đề rất cấp thiết.

3


Từ nhận định về tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề như vậy, tác giả
chọn đề tài: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
bối cảnh tồn cầu hố” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay đã được
nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều phương diện, mức độ khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ triết học có các cơng trình như: "Xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới" của tập thể tác giả do
GS, TS Lê Hữu Nghĩa chủ biên, "Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam - những
thành tựu chủ yếu của 60 năm xây dựng và phát triển" của tác giả Đào Trí Úc
(www.issi.gov.vn), "Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH đến việc
xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay" (Tác giả Hồng Chí
Bảo, Tạp chí Triết học số 11 tháng 11/2002), "Một số nét đặc thù của Pháp quyền
XHCN ở Việt Nam" (tác giả Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học số 9/ 2005), " xây
dựng nhà nước Pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay
(PGS, TSKH Lương Đình Hải )… Các cơng trình hầu hầu hết đều chỉ ra quá trình
xây dựng nhà nước ở nước ta, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam là kết quả của quá trình đúc rút từ thực tiễn xây dựng đất nước và kinh
nghiệm của các nước trên thế giới để đưa ra hình thức tổ chức nhà nước nhằm
đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân.
Các cơng trình này đã đề cập đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN ở nước ta là việc làm cần thiết, tất yếu. Tuy nhiên, các công trình này
hoặc chỉ dừng lại ở các bài báo hoặc chưa xem tồn cầu hố, hội nhập kinh tế
quốc tế như là nhân tố tác động lớn đến nhu cầu cần đổi mới hình thức, hoạt
động của nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên sự phân tích cơ sở thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay, quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và yêu cầu
của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, luận văn chỉ ra sự cần thiết để xây

4


dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay
một cách có hiệu quả.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích trên, Luận văn đi vào nghiên cứu những vấn
đề cụ thể sau:
Một, làm rõ quan niệm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
Hai, những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Ba, đưa ra những phương hướng cơ bản để xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu :
Luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi tìm các cơ sở khoa học cho việc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và hƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; về vai trị của pháp luật đối với
xã hội; các cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết
hợp các phương pháp: Lịch sử và lơgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn
dịch; điều tra - so sánh... nhằm đạt tới mục đích mà luận văn đã đề ra.

5


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu thành cơng sẽ góp phần vào việc xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay; củng cố niềm tin
vào đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy các mơn lý luận chính trị, pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết:
Chƣơng 1: Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chƣơng 2: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - quá trình
xây dựng và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Chƣơng 3: Một số phương hướng cơ bản để xây dựng, hoàn thiện nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố hiện
nay.

6


Chƣơng 1
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về nhà nƣớc pháp quyền
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền không phải là một sản phẩm của riêng
thời đại, chế độ nào mà là một giá trị chung có tính phổ biến mà nhân loại tích
luỹ được trong suốt lịch sử đấu tranh lâu dài và gian khổ để hướng tới một cuộc
sống tốt đẹp hơn. Trong đó, nhà nước hoạt động hiệu quả hơn và nhân dân thì có
điều kiện để hướng tới tự do, hạnh phúc hơn. Những tư tưởng phát triển dân chủ,
bảo đảm quyền con người, loại trừ chun chế, vơ chính phủ bằng cơng cụ pháp
luật ln gắn liền với tư tưởng tích cực, tiến bộ về Nhà nước pháp quyền và hình
thành ngay từ thời cổ đại như Xôcrat (499-399 Tr.CN), Đêmôcrit (460-370
Tr.CN), Platôn (427-347 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN)… những quan điểm
tư tưởng này thể hiện khát vọng của nhân dân về tự do, công bằng, dân chủ.
Các quan điểm, tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các nhà triết học
thời cổ đại đã được các nhà triết học và tư tưởng chính trị tư sản sau này như
John Locke (1632-1704), Montesquieu (1698-1775), J.J. Rút-xô (1712-1778), I.
kant (1724-1804), Hêgen (1770-1831), Tômát Jepphecxơn (1734-1826), Tômát
Pên (1737-1809), Jon Ađam… tiếp tục bổ sung, phát triển.
Về mặt thuật ngữ, "nhà nước pháp quyền" (Trong các văn bản quốc tế, cụm
từ này thể hiện bằng tiếng Anh là: "state of rule of law"; tiếng Pháp là: "e'tat de
droit") do các chuyên gia về hiến pháp và luật người Đức và người áo nêu ra lần
đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX. Từ đấy, thuật ngữ "pháp quyền" được áp dụng tại
nhiều nước theo một tiêu chí như một chế độ của nhà nước, và nó có thể so sánh

được với q trình phát triển khái niệm "nhân quyền". Khi nói đến "nhà nước" là
nói đến một tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan chuyên chính của một giai cấp
nắm quyền thống trị về kinh tế. Khi nói đến "pháp quyền" là nói đến hệ thống
luật pháp tiêu biểu cho quyền lực của một nhà nước, cho bản chất của một chế
độ. Có nhà nghiên cứu cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu

7


nhà nước, mà là một hình thức phân cơng và tổ chức quyền lực nhà nước. Tôi
cho rằng đây là quan điểm đúng, nhà nước pháp quyền chỉ là một hình thức tổ
chức nhà nước mà thơi.
Đến nay, trong lịch sử loài người đã trải qua bốn kiểu nhà nước: nhà nước
chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có ba kiểu nhà nước bóc lột chủ yếu: nhà nước chiếm hữu nô lệ,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu
nhà nước mới, nhà nước dân chủ theo kiểu mới và chuyên chính theo kiểu mới,
khẳng định nhân dân lao động là chủ thể của xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ. Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thực tế đến nay bản chất của một nhà nước pháp quyền cùng với tiêu chí
của nó cũng chưa được xác định một cách rành mạch. Một nhà nghiên cứu người
Đức, Giáo sư, Tiến sĩ Umbach cho rằng, qua các cuộc thảo luận về ý nghĩa của
thuật ngữ "pháp quyền" mang lại ít kết quả, vì nó rất trừu tượng. Theo ơng, u
cầu về pháp chế đã được xây dựng và thực hiện ở các quốc gia sẽ có ý nghĩa nhiều
hơn. Với ơng, các đặc điểm khác nhau của nhà nước pháp quyền được thể hiện
theo nhiều cách, được chia thành nhóm và phân loại các thành phần.
Qua mạng thơng tin Internet, nói đến "nhà nước pháp quyền" như một xu
thế để phát triển nhà nước trong tình hình mới, nhất là trong xu thế tồn cầu hố
kinh tế, chúng ta thấy trong giới nghiên cứu và giới báo chí của nhiều nước hiện

đang bàn luận rất nhiều.
Có rất nhiều nhà khoa học trên thế giới để ý nghiên cứu về nhà nước pháp
quyền. Tại Cộng hồ Liên bang Đức, Chính phủ đã bắt đầu nghiên cứu một dự
án về nhà nước pháp quyền. Có điều là ở châu Âu, nơi phát sinh khái niệm "nhà
nước pháp quyền", tuỳ theo mỗi nước mà xác định cho phù hợp với đặc điểm và
hiến pháp của nước chứ chưa xác định thống nhất được những tiêu chí chung của
một nhà nước pháp quyền. Một số nhà khoa học trên thế giới lại cho rằng, không
cần phải theo mơ hình nhà nước pháp quyền của châu Âu hay châu á, mà nên
theo mơ hình của nước mình. Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm quyền cơ bản của

8


con người. Vì vậy, cho đến nay, vẫn chưa có những tiêu chí chung cho một nhà
nước pháp quyền.
Tuy nhiên, gần đây, ông Bery Hagơ (Barry Hager) thuộc Trung tâm
Mansfield về các vấn đề Thái Bình Dương có đưa ra một số vấn đề có tính
ngun tắc của một nhà nước pháp quyền:
Một là, khi cơ quan lập pháp thông qua một đạo luật, cơng dân phải có
quyền xem xét tính hợp hiến của đạo luật đó;
Hai là, khi cơ quan hành pháp tiến hành khởi kiện, công dân phải có
quyền xem xét tính hợp pháp và hợp hiến của vụ kiện đó;
Ba là, khi cơ quan tư pháp tiến hành khởi kiện, cơng dân phải có quyền
kháng cáo đối với vụ kiện đó. Nếu kháng cáo đã được xem xét kỹ đến cấp tư
pháp cao nhất, thì cần có một cơ chế nào đó để xây dựng một đạo luật mới thay
thế đạo luật hiện hành, theo cách hiểu và thực thi của các toà án [58].
Xu hướng nghiên cứu của ông Bery Hagơ về nhà nước pháp quyền là
thiên về quyền công dân, bởi cả ba vấn đề mà ông nêu lên đều nhằm vào quyền
và trách nhiệm của công dân đối với vấn đề lập pháp, hành pháp, tư pháp trong
nhà nước pháp quyền. Và ông coi đó là quyền cơ bản của con người trong nhà

nước pháp quyền.
Giáo sư, Tiến sĩ D.C. Umbach cho rằng, ý nghĩa nội dung của nhà nước
pháp quyền là nhà nước bảo vệ cơng lý. Nhưng cơng lý là gì, lại là một vấn đề
trừu tượng, mỗi nước hiểu theo một cách khác nhau do nền chính trị của nước đó
quy định. Ông đã đưa ra cách tiếp cận để nghiên cứu về nhà nước pháp quyền:
Thứ nhất, phải xác định nền công lý thực tại;
Thứ hai, phải áp dụng luật pháp thống nhất, bắt buộc và tính ổn định của
pháp luật;
Thứ ba, phải giới hạn sự tự áp đặt của nhà nước pháp quyền thông qua
việc bảo đảm các quyền cơ bản, thoả thuận ràng buộc bởi nguyên tắc tương xứng
và sự phân chia quyền lực.
Ông D.C Umbach cho rằng, khơng một "quỹ chính trị" nào có thể trả lời
được câu hỏi thế nào là cơng lý. Ở đây có thể kể đến nhiều yếu tố khác nhau đã
được đề cập đến trong luật án lệ của Toà án Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Đức

9


được xem như những "yêu cầu mà công lý cần có", như thực thi hiệu quả luật
hình sự. Bên cạnh đó, cơng lý lại địi hỏi việc thực thi luật hiện hành. Rõ ràng là
việc thực thi luật hình sự là một khía cạnh quan trọng đối với nguyên tắc pháp
quyền. Nguyên tắc này được bắt đầu từ việc bảo đảm thủ tục nhân chứng có
quyền từ chối cung cấp bằng chứng và mở rộng đến nguyên tắc "không trừng
phạt khi khơng có tội" và ngun tắc "trừng phạt phải phù hợp với tội trạng".
Giáo sư, Tiến sĩ D.C.Umbach nhấn mạnh đến tính khơng được hoạt động
tuỳ tiện, hoặc ngẫu nhiên của nhà nước pháp quyền, mà nhất thiết phải tuân theo các
tiêu chuẩn đã quy định. Nhà nước pháp quyền phải được chỉ đạo theo các quy tắc
của luật pháp chính thức có tính chất phổ biến chung. Có thể thấy một thí dụ điển
hình về vấn đề này ở nước Anh, một nhà nước quân chủ về hình thức, một nhà
nước pháp quyền về thực chất. Tại đất nước này, việc xây dựng luật pháp chủ yếu

là do các thẩm phán đảm trách và luật pháp theo hình thức án lệ. Việc để cho người
xét xử làm luật là cả một vấn đề pháp lý quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Như
vậy, có nghĩa là việc một quan tồ cơng bằng giải quyết hợp lý một sự tranh chấp
là điều cốt yếu đối với một nhà nước pháp quyền và tương tự như vậy, quyền cơ
bản của con người được bảo vệ trong nhà nước pháp quyền. Còn tại nhiều nước
khác ở châu Âu lại dựa vào nghị viện để ban hành các đạo luật, pháp lệnh và văn
bản pháp quy dưới luật.
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền là
phải xác định được tính hạn chế đối với quyền lực của chính nhà nước đó, ít nhất
là phải đạt đến một giới hạn đủ để tránh lạm dụng quyền lực mà nhiều cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp đã vi phạm.
Giáo sư, Tiến sỹ D.C.Umbach đưa ra những nguyên tắc pháp quyền:
Một là, hiến pháp phải quy định cụ thể về việc ban hành một đạo luật và
về ưu thế của các văn bản pháp luật, tức là mọi quyền lực nhà nước đều thuộc
sự điều chỉnh của pháp luật và nguyên tắc phân chia quyền lực trên tinh thần
của hiến pháp, luật pháp và các văn bản pháp quy. Trong trường hợp này, các
biện pháp riêng của nhà nước không được vi phạm các quy định của luật pháp,
các quy định luật pháp không được vi phạm các quy định của hiến pháp;

10


Hai là, bảo vệ quyền tự do cá nhân của mỗi người thông qua các quyền
dân sự và quyền cơ bản, bảo vệ hiệu lực của pháp luật bằng tính độc lập của
ngành tư pháp;
Ba là, bảo đảm tôn trọng hiến pháp và luật pháp bằng việc xây dựng một
ngành tư pháp độc lập và bằng việc bảo đảm một số quyền xét xử cơ bản như
quyền được xét xử theo pháp luật và quyền được xét xử công bằng, có thể là
quyền xét xử của một tồ án hiến pháp;
Bốn là, cần có sự minh bạch của pháp lý và sự rõ ràng về phân chia

quyền lực.
Ông Ibrahim Shihata, luật sư của Ngân hàng Thế giới (WB), định nghĩa
tóm tắt về nhà nước pháp quyền là nhà nước mà "các nguyên tắc về quyền hạn
của chính phủ phải theo đúng pháp luật; các toà án độc lập; sự minh bạch của
pháp luật và việc giám sát tư pháp về tính hợp hiến của các đạo luật và các văn
bản pháp quy khác". Xu hướng nghiên cứu này thiên về pháp luật.
Vấn đề phân chia quyền lực của nhà nước pháp quyền cũng được đặt ra
để nghiên cứu. Nhiều nước hiện nay vẫn đang áp dụng mơ hình "tam quyền
phân lập", bảo đảm cho các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoạt động
riêng biệt và không nhất thiết phải có sự ăn khớp với nhau. Họ cho rằng, sự
mâu thuẫn trong công vụ pháp lý nhiều khi lại đảm bảo lẽ phải và công lý, và
phần nào khắc phục được các vụ án oan sai. Vì vậy quan điểm nhận thức của
họ về "tam quyền phân lập" là sự cần thiết trong nhà nước pháp quyền. Trên
thực tế đã có tác dụng nhất định khi chế độ nhà nước thực hiện "tam quyền
phân lập". Vì vậy, sẽ là không đúng nếu phủ định sạch trơn học thuyết "tam
quyền phân lập". Tuy nhiên, khi nhà nước tư sản thực hiện "tam quyền phân
lập" cũng đã gặp phải những trở ngại nhất định.
Một xu hướng nghiên cứu hiện nay là xác định tính độc lập của ngành tư
pháp trong nhà nước pháp quyền. Các nhà nghiên cứu về xu hướng này cho
rằng, nếu ngành tư pháp không được bảo đảm hoạt động độc lập, thì nhà nước
đó khơng phải là nhà nước pháp quyền thực sự. Tương tự như vậy, sự phán
quyết của toà án trong một vụ án là sự trợ giúp việc thực thi pháp lý đúng đắn

11


nhất nếu cơ quan tư pháp thực sự có vai trị độc lập, tức là khơng chịu ảnh
hưởng về nhân sự, tổ chức bộ máy và tài chính của hành pháp.
Một số người cho rằng, để có một nhà nước pháp quyền thực sự, điều
trước tiên là phải hết sức chú trọng xây dựng và sửa đổi hiến pháp. Nhà nước

pháp quyền phải là một nhà nước có hiến pháp rõ ràng và khung pháp luật phải
được xây dựng trên cơ sở khoa học chắc chắn. Hiến pháp và luật pháp phải
được xác định bởi sự bảo đảm không cho phép các nhà cầm quyền hành xử
chuyên quyền tuỳ tiện và thất thường, đồng thời, có thể kiểm sốt được sự tôn
trọng pháp luật. Yếu tố ổn định về luật pháp đóng vai trị quan trọng và cần
thiết cho một nhà nước pháp quyền; cũng cần phải có biện pháp bảo vệ sự tin
cậy và tin tưởng vào sự tồn tại trên thực tế của một tình huống pháp lý nhất
định. Một nhà nước đụng chạm đến tính ổn định của pháp luật là nhà nước
chông chênh về pháp luật. Việc bảo đảm các quyền cơ bản và quyền dân sự là
rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là nhà nước phải tự kiềm chế không can thiệp, vi
phạm các quyền này và nó được bảo đảm bằng luật pháp. Nhà nước phải có
trách nhiệm bảo vệ những lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước pháp
quyền không can thiệp vào các quyền của công dân một cách không cần thiết.
Nhìn chung, sự nghiên cứu về nhà nước pháp quyền của các nhà khoa học
trên thế giới cũng mới chỉ dừng lại ở từng mảng. Trong Tổng kết xây dựng Nhà
nước Việt Nam qua 20 năm đổi mới, đã đề cập đến việc nghiên cứu về nhà nước
pháp quyền nói chung và bước đầu có thể rút ra một số vấn đề:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước hoạt động theo pháp luật và bằng
pháp luật. Luật pháp là phép tắc do nhà nước đặt ra để quy định hành vi của mọi
người trong nhà nước đó. Tuy nhiên, quan niệm về luật hiện nay không phải tất
cả mọi người đều chung một nhận thức. Trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội,
G.G. Rútxô cho rằng, luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người. "Luật
có thể quy định rằng, sẽ có một số đặc quyền, nhưng khơng nói rõ đặc quyền cho
một cá nhân cụ thể nào. Luật cũng có thể chia cơng dân làm nhiều hạng, nhưng
không chỉ định cụ thể người nọ người kia là thuộc hạng này hay hạng khác. Luật
có thể quy định việc thành lập chính phủ và hệ thống cấp bậc, nhưng không cử ra

12



một ông vua hay chỉ định ra một gia tộc nào của hồng gia. Tóm lại, mọi chức
năng liên quan đến đối tượng cá nhân không phải là chức năng của quyền lực lập
pháp" [53, tr.68-69]. Ngồi luật pháp, cịn có quy pháp (pháp quy). Pháp quy là
những quy định có tính pháp lý như văn bản pháp quy về đất đai, quản lý xí
nghiệp... (Hiện nay, nhiều nước quan niệm về luật pháp và pháp quy cũng khác
nhau. Có nước đưa tất cả vào luật, nhưng có nước lại tách riêng ra thành pháp lệnh
hoặc nghị quyết, nghị định ...)
Luật pháp phải phản ánh được toàn bộ hoạt động của xã hội. Mối quan hệ
của các luật thể hiện mối quan hệ xã hội. Luật pháp làm nhiệm vụ duy trì trật tự
xã hội và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là chất
lượng của luật phải được bảo đảm bằng chính chất lượng hoạt động của nhà
nước đó. Chất lượng của luật còn được thể hiện ở việc in sâu vào trong lòng
người dân, thắp sáng lên trong lòng dân tộc một niềm tự hào chân chính, tạo
thành hiến pháp chân chính của một quốc gia có chủ quyền. Nhà nghiên cứu luật
pháp Môngtexkiơ cho rằng: "Cũng như việc giáo dục, các luật phải tương ứng
với nguyên tắc của chính thể. Mối quan hệ này giữa luật pháp với nguyên tắc là
nhằm thúc đẩy cho chính thể phát triển, và ngược lại, tạo thêm sức mạnh cho
nguyên tắc" [41, tr.65].
Luật pháp của mỗi nước phải phù hợp với đặc điểm, thể chế chính trị của
nước đó. Quốc hội phải tuỳ theo tình hình của đất nước mình mà ra các đạo luật
cho phù hợp. Trong xu thế tồn cầu hố kinh tế hiện nay, một số điểm của luật có
thể mang tính chung, nhưng dù sao, về cơ bản, khi làm luật, trước hết phải tính
đến điều kiện địa lý, dân số, thể chế chính trị và xu thế phát triển của nước mình
trong tương lai. Thí dụ: ở những nước đất rộng, người thưa, nên luật của những
nước này phải nhấn mạnh vấn đề tăng dân số, khuyến khích sinh sôi nhân khẩu.
Vấn đề này đã từng xảy ra trong lịch sử, như việc vua Lui (Louis) XIV của nước
Pháp đã ra lệnh (luật) trợ cấp cho các gia đình đẻ 10 con và trợ cấp cao hơn cho
các gia đình có 12 con. Những cặp vợ chồng khơng đẻ con phải khai báo lý do
không sinh con và sự khai báo đó phải được nhà chức trách địa phương xác nhận
lý do đó là chính đáng. Tại một số nước ở châu Âu hiện nay, phụ nữ sinh đôi, sinh


13


ba,… được nhà nước đặc biệt chú ý quan tâm chăm sóc và trợ cấp. Đối với những
nước đất hẹp, người đông, nên luật của những nước này lại nhấn mạnh vấn đề
giảm dân số, sinh đẻ phải có kế hoạch. Những gia đình sinh nhiều con phải bị phạt
về mặt tinh thần. Tại một số nước, bộ luật hình sự quy định mức án cao nhất là tử
hình, nhưng một số nước khác lại quy định mức án cao nhất chỉ là tù chung thân.
Khơng thể nói mức án tù chung thân là "văn minh" hơn mức án tử hình và ngược
lại. Qua đó, cho thấy tính chất ra luật không bắt buộc nước này phải giống nước
kia, mà phải tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi nước để ra luật cho phù hợp, đúng phép
tắc của nước đó và không trái với thông luật quốc tế.
Khi soạn thảo một văn bản luật, cần phải xét mặt tổng thể các luật có liên
quan, đồng thời phải xét mặt cụ thể của dự án luật đang soạn thảo. Một trong
những nguyên tắc làm luật là không được vênh với hiến pháp nước đó. Luật
được soạn thảo ra khơng nên q cứng nhắc, nhưng cũng khơng được mềm yếu,
lỏng lẻo. "Tính cứng rắn của luật làm cho luật không thể co duỗi trước các hiện
tượng. Điều đó có khi trở nên tai hại và làm cho nhà nước suy vong trong những
cơn khủng hoảng" [53].
Muốn có luật pháp tốt, người lập pháp phải có trí tuệ ưu việt. Trí tuệ ấy sẽ
dựng lên được những đạo luật có giá trị thực thi lâu dài. Nhà lập pháp phải là "kỹ
sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy"
[53, tr.71]. "Người lập pháp, về tất cả mọi phương diện là một người phi thường
trong quốc gia; phi thường chẳng những do thiên tài mà chính là do được sử
dụng nữa" [53, tr.72]. "Con người trước khi làm ra luật đã phải là con người do
luật tạo nên" [53, tr.74]. Nhưng trong lịch sử, rất hiếm thấy một luật, đạo luật do
một cá nhân dựng lên lại được chấp nhận ngay, mà khơng có sự góp ý của tập
thể và tổ chức. Vì vậy, có thể nói chất lượng của luật phụ thuộc vào sự hoàn
thiện của tập thể những người làm luật, tập thể những người góp ý kiến (nhân

dân) vào dự thảo luật và tập thể (quốc hội) những người thông qua luật.
Một nhà nước pháp quyền phải hết sức chú trọng đến lập hiến, bởi hiến
pháp là luật cơ bản của nhà nước, luật của các luật. Nó quy định chế độ kinh tế,
chính trị, xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ công dân, quy định tổ chức bộ máy nhà

14


nước. Một nhà nước pháp quyền muốn có hiến pháp tốt, trước hết, hiến pháp đó
phải xuất phát từ lợi ích của chính dân tộc đó, nhưng đồng thời lại khơng làm tổn
hại đến lợi ích của dân tộc khác, nhất là những nước láng giềng với mình; phải
phản ánh được những quyền cơ bản của một nhà nước, quyền được bình đẳng,
khơng phân biệt nịi giống, dân tộc ít người và dân tộc đông người, quyền dân
chủ, quyền ứng cử, bầu cử, quyền được lao động, phát huy trí tuệ, nghỉ ngơi, học
hành của mỗi công dân; xây dựng và bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng của
cả một dân tộc. Một hiến pháp tốt có tác dụng xây dựng, bảo vệ và giáo dục xã
hội tốt.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước được thực thi bởi một bộ máy hành
pháp mà hệ thống chính quyền phải thực sự có năng lực điều hành, quản lý bộ
máy đó. Khơng thể gọi là nhà nước pháp quyền nếu khơng có một chính quyền
mạnh. Chính quyền là cơ quan điều khiển, vận hành bộ máy nhà nước. Chính
phủ là cơ quan cao nhất của chính quyền, bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ và
chính quyền địa phương hợp thành; là cầu nối qua lại giữa cơ quan lập pháp với
nhân dân; là ở đây không nên lầm lẫn khi dùng từ "luật pháp" và "pháp luật".
Khi luật pháp đã được thực thi thì trở thành pháp luật. Tiếng Anh, từ "luật pháp"
viết là "law", còn từ "pháp luật" viết là "laws". Nhà nước pháp quyền có hai
quyền lực cộng hưởng: quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp. Quyền lực
hành pháp chính là chính phủ, chính quyền. Điều hiển nhiên là bộ máy của chính
phủ nhỏ, nhưng thể chế chính trị - xã hội chứa trong chính phủ lại lớn. Chính vì
vậy địi hỏi chính phủ trong nhà nước pháp quyền phải có bộ óc làm việc hết sức

khoa học, sự phân công và sự chịu trách nhiệm phải hết sức rành mạch, tổ chức
thật sự có hiệu quả theo mơ hình "chính phủ bé, xã hội lớn" mà nhiều nước đang
áp dụng. Việc sắp xếp bộ máy và xếp người đặt việc trong bộ máy hành pháp là
rất quan trọng. G.G. Rútxơ viết: "Nói tóm lại, sắp xếp thế nào để ln ln có
thể sẵn sàng hy sinh chính phủ vì nhân dân, chứ khơng phải hy sinh nhân dân vì
chính phủ" [53, tr.96-97].
Lực của cơ quan hành pháp trong nhà nước pháp quyền là vấn đề cần phải
tính đến. G.G. Rútxơ viết: "Lực tổng quát của chính phủ là lực của quốc gia; điều

15


đó khơng thay đổi. Nếu chính phủ càng dùng nhiều lực để tác động lên các nhân
viên chính phủ thì phần lực còn lại để tác động vào dân chúng càng giảm đi. Vậy
quan lại càng đơng, chính phủ càng yếu. Đây là một câu châm ngôn cơ bản, cần
giải thích thật rõ ràng" [53, tr.98]. Từ quan điểm trên, G.G.Rútxơ cho rằng, "chính
phủ phải do một người nắm, ý chí riêng của người đó với ý chí cơ thể chính phủ
hồn tồn nhập lại, nên nó có cường độ rất cao. Thế mà việc vận dụng lực là tuỳ
thuộc vào cường độ của ý chí, mà lực tuyệt đối của chính phủ thì khơng thay đổi,
cho nên chính phủ năng động nhất sẽ là chính phủ của một người" [53, tr.99].
Điều mà G.G.Rútxơ muốn nói là sự tập trung quyền hạn của người đứng đầu
chính phủ. Tuy nhiên, trong thực tế ở nhiều nước, có rất ít trường hợp chính phủ
của một người bởi sự ràng buộc của cơ chế. Trong việc giao nhiệm vụ trong chính
phủ, G.G.Rútxơ viết: "Chắc chắn là công tác càng giao cho nhiều người thì càng
chậm xong, làm ăn q thận trọng thì khó phát tài to, vì bỏ qua mất cơ hội, và bàn
cãi nhiều thì thường hỏng việc" [53, tr.100]. Quan điểm của G.G.Rútxơ là "dân
chúng càng nhiều lên thì số quan lại cai trị càng phải giảm bớt đi" [53, tr.100].
Dân chúng tỷ lệ nghịch với bộ máy công quyền.
Quyền lực hành pháp được quy tụ vào trong luật và từ luật thể chế ra
những cơng việc của chính phủ, chính quyền, là sự cộng lực giữa sức mạnh của

nhân dân với sức mạnh của pháp luật. Gọi là quyền hành pháp, nhưng khi thực
thi lại không phải bằng uy quyền, mà phải bằng uy tín. Đây là cái khó, tưởng
chừng như mâu thuẫn nhau. Trên thực tế, nếu nhà hành pháp sử dụng uy quyền
với nhân dân sẽ gây nên sự phản ứng của nhân dân, nhưng nếu nhà hành pháp sử
dụng uy tín trong cơng vụ sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Muốn có uy tín
trong cơng vụ, nhà hành pháp phải có phẩm chất cơng vụ. Muốn có phẩm chất
cơng vụ, nhà hành pháp phải có năng lực cơng vụ và đạo đức cơng vụ. Năng lực
công vụ và đạo đức công vụ tạo thành phẩm chất cơng vụ. Đó là phẩm chất cá
nhân của nhà hành pháp. Một số nước đã áp dụng chính sách sa thải những cơng
chức khơng có phẩm chất cá nhân khi thi hành công vụ. Một trong những yếu tố
tạo thành phẩm chất cá nhân của nhà hành pháp là người đó phải tỏ rõ quan điểm
phục vụ cho ai, vì ai; phải tận tuỵ với cơng việc; sống giản dị, tiết kiệm, chan
hoà, cởi mở, tránh xa hoa, lãng phí. "Cái xa hoa làm hư hỏng cả người giàu và

16


người nghèo; giàu hư hỏng vì chiếm hữu, nghèo hư hỏng vì thèm khát; cái tệ xa
hoa bán rẻ tổ quốc vì sự mềm yếu hoặc vì tính kiêu căng; nó tước mất cơng dân
của nước nhà bằng cách làm cho người này phải nô lệ người khác và tất cả dân
chúng thì nơ lệ theo dư luận" [53, tr.104].
Quyền hành pháp phải được tôn trọng cùng với quyền công dân. Quyền
công dân bị vi phạm là lỗi của quyền hành pháp. Muốn bảo đảm được quyền
cơng dân thì chính phủ của nhà nước pháp quyền phải là chính phủ dân chủ.
Thực hiện dân chủ ở mức độ nào thì vừa, nhà hành pháp phải có tính tốn. Trên
đây G.G.Rútxơ nói chính phủ của một người khơng có nghĩa là chính phủ đó mất
dân chủ, mà muốn nói đến trách nhiệm cá nhân của thành viên chính phủ. Trên
thực tế, dân chủ trong lập pháp dễ thực hiện hơn dân chủ trong hành pháp, bởi
dân chủ trong lập pháp thực hiện tại nghị trường, còn dân chủ trong hành pháp
lại thực hiện ở "chiến trường xã hội", tiếp xúc, va chạm với nhiều hạng người

trong xã hội, hết sức phức tạp và khó khăn, nhiều khi phải đối mặt giữa con
người với pháp lý. G.G. Rútxô viết: "Nếu hiểu thuật ngữ "dân chủ" một cách thật
chuẩn mực thì ta sẽ thấy từ trước chưa bao giờ có dân chủ, và sau này cũng sẽ
khơng bao giờ có dân chủ thật sự. Ta không thể tưởng tượng rằng, cả dân tộc
luôn luôn họp lại để bàn cãi liên miên về công việc chung" [53, tr.103]. "Cần nói
thêm rằng, chính phủ dân chủ hay chính phủ nhân dân đã phải chịu cảnh xáo
động và nội chiến hơn bất cứ loại chính phủ nào, vì trong chế độ dân chủ người
ta ln ln địi hỏi mãnh liệt phải thay đổi hình thức, người ta cần nhiều can
đảm để giữ lấy quyền dân chủ đã giành được" [53, tr.104]. Dù sao, việc thực
hiện chính phủ dân chủ đang là hướng tới của chính phủ nhiều nước trong xu thế
tồn cầu hố hiện nay.
- Nhà nước pháp quyền bảo đảm tính độc lập về chuyên môn của các cơ
quan tư pháp, một bộ phận cấu thành tổ chức nhà nước. Cơ quan tư pháp có đặc
thù riêng, nếu khơng bảo đảm được tính độc lập về chun mơn riêng của nó, thì
bản thân nó sẽ không thực thi được công việc, hoặc thực thi công việc sẽ bị méo
mó nghề nghiệp. Vì vậy, có nước gọi các cơ quan tư pháp là cơ quan đặc biệt.
Đây là cơ quan bảo vệ các luật và quyền lập pháp, quyền hành pháp. Bản thân

17


"nó khơng được có một chút quyền lập pháp hay quyền hành pháp nào cả.
Nhưng chính do đó mà cơ quan tư pháp có quyền cao hơn cả, vì nó khơng làm gì
cả, nhưng lại có thể ngăn ngừa tất cả. Đó là cơ quan thiêng liêng nhất và được
coi trọng nhất, vì nó là người bảo vệ luật, mà luật là do cơ quan quyền lực tối
cao ban hành và do chính phủ chấp hành" [53, tr.174]. Lực của cơ quan tư pháp
khơng nhiều, nhưng nó lại tác động vào cơ thể xã hội được nhiều, "nó có thể lật
đổ tất cả" [53, tr.175]. Xét cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, cơ quan tư
pháp là chỗ dựa vững chắc cho một chế độ.
Xét về mối quan hệ, cơ quan tư pháp là cơ quan điều hoà giữa lập pháp,

hành pháp và cơng dân. Chính vì vậy, nó có thể sẽ hố thành lộng quyền "một
khi nó chiếm lấy quyền hành pháp, mà chính ra nó chỉ là điều hoà. Cơ quan tư
pháp cũng sẽ lộng quyền nếu nó đứng ra ban bố pháp luật, mà chính ra nó chỉ là
kẻ bảo vệ" [53, tr.175]. G.G. Rútxơ cho rằng, "cơ quan tư pháp bị suy yếu cũng
như chính phủ bị suy yếu là vì số thành viên cứ tăng lên mãi" [53, tr.175]. Ông
đưa ra biện pháp hạn chế sự lộng quyền và lạm quyền của ngành tư pháp là
không nên để cho người quản lý thường trực mãi mãi, mà phải quy định thời hạn
cho nó. Thời hạn này khơng nên q dài, để thói lạm dụng khơng kịp hình thành
đã phải thơi chức. Ơng đề nghị nên có luật quy định thời hạn vừa phải cho cơ
quan tư pháp.
Nhân sự trong ngành tư pháp phải được tuyển lựa rất kỹ, phẩm chất công
tác của họ phải rất cao, tính trung thực trong cơng vụ, khả năng phân tích, phán
xét trong việc giải quyết sự việc phải rất lớn. Một yêu cầu cần có và phải có là
một quan chức trong ngành tư pháp phải dựa vào luật mà thực thi công việc, chứ
không được làm theo sự chỉ dẫn của người khác, hoặc làm theo cách của người
trước đó.
Trong xu thế tồn cầu hố, tư pháp quốc tế đang phát triển theo những
nguyên tắc và quy phạm pháp lý quy định quan hệ giữa công dân nước này với
các nước khác hay với công dân các nước khác. Interpol (Cảnh sát quốc tế)
đang là sự liên kết có hiệu quả để tìm tội phạm từ nước này trốn sang nước
khác và tội phạm có tính chất quốc tế.

18


Trong nhà nước pháp quyền, nhiều nước đang chú trọng đến Tồ án Hiến
pháp. Có nước đã lập tồ án này, có nước đang chuẩn bị lập. Những nước đã lập
tồ án hiến pháp, nhìn chung phát huy tác dụng tốt.
Vì sao phải lập Tồ án Hiến pháp? Vì trong thực tế đã xảy ra một số
trường hợp văn bản luật thảo ra không phù hợp với Hiến pháp, hoặc luật đó

khơng phát triển trên cơ sở Hiến pháp. Vì vậy, Toà án Hiến pháp ra đời là để xét
xử những văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp.
Một số nước quy định quyền hạn và nhiệm vụ của Toà án Hiến pháp rất lớn.
Toà án Hiến pháp có quyền phán quyết cả một đạo luật khi đạo luật đó vi hiến; có
quyền huỷ luật nếu luật đó trái với Hiến pháp, mặc dù luật đó đã được Quốc hội
nước đó thơng qua. Cũng có thể Tồ án Hiến pháp khi phát hiện những luật trái với
Hiến pháp thì thơng báo với Quốc hội để Quốc hội xem xét quyết định.
Toà án Hiến pháp xét xử quyết định của cơ quan nhà nước hoặc cá nhân
vi phạm Hiến pháp, xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân đã được quy định
trong Hiến pháp (kể cả bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tồ án.
Trong trường hợp này, Toà án Hiến pháp huỷ bản án, quyết định đó và giao cho
tồ án giải quyết lại).
Trong hoạt động của Nhà nước, khi những người đứng đầu các cơ quan cấp
cao có dấu hiệu vi hiến, ai sẽ là người phán quyết, nếu khơng lập Tồ án Hiến
pháp? Tồ án Hiến pháp có thể được giao nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động của
Nhà nước và giám sát việc soạn thảo luật. Toà án Hiến pháp có trách nhiệm giải
thích Hiến pháp. Hiện nay, những nước chưa có Tồ án Hiến pháp, việc giải thích
Hiến pháp thường được giao cho Ban thường trực Quốc hội đảm nhiệm.
Với sự ra đời của Toà án Hiến pháp, cần phải xem xét để sửa đổi lại thẩm
quyền của một số cơ quan trong việc xem xét, bãi bỏ, huỷ bỏ văn bản pháp luật.
Như vậy, một Nhà nước pháp quyền phải được cấu trúc những thành tố
cơ bản của một chính thể: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba quyền này, tuy
chức năng khác nhau, nhưng lại có mối liên hệ với nhau. Quyền hành pháp bị
ràng buộc bởi quyền lập pháp, quyền lập pháp cũng bị ràng buộc bởi quyền
hành pháp. Luật pháp ban ra mà không được thi hành thì luật pháp cũng chẳng

19


để làm gì. Khơng có luật pháp thì hành pháp sẽ khơng có tiêu chí để thực thi

cơng việc. Khơng có tư pháp sẽ khơng có cơ quan đứng ra bảo vệ pháp luật. ở
một số nước phương Tây thực hiện "tam quyền phân lập" ("to divide three
powers" - executive, judicial, legistative power), trong trách nhiệm độc lập của
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. ("tam quyền phân lập" được xem
như nguyên tắc tổ chức Nhà nước dân chủ, Hiến pháp quy định ba quyền: lập
pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau, giám sát lẫn nhau. Chính
Mơngtexkiơ đã sáng tạo ra học thuyết "tam quyền phân lập" từ thế kỷ XVIII).
Một số nước khác khơng nói rõ thực hiện "tam quyền phân lập", tuỳ theo tình
hình chính trị và luật pháp của nước đó mà vận dụng.
Trong thế giới đương đại có mơ hình Nhà nước pháp quyền tư sản và mơ
hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dù được tổ chức theo mô hình nào,
Nhà nước pháp quyền phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản là luật pháp phải
giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước phải quản
lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật; nội dung của pháp luật phải mang tính
nhân văn sâu sắc, phải vì con người, vì sự tiến bộ của xã hội, phản ánh và phù hợp
với các quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và con người.
Nhìn chung, các quan điểm về nhà nước pháp quyền rất phức tạp, phong
phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, có thể khái quát những đặc
trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại như sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước đảm bảo tính tối cao của pháp luật
trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân
dân, lợi ích chung của xã hội.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền
tự do, dân chủ của công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước cơng dân về
những hoạt động của mình, cịn cơng dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước xã hội.
- Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước
thích hợp, bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân và có cơ chế giám sát sự tuân


20


thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân
dân, chống lại sự tuỳ tiện của nhà nước. Muốn thế phải phân chia và ngăn chặn
lẫn nhau giữa ba quyền, lập pháp, hành pháp và tư pháp; bảo đảm tính pháp
quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước và xác lập sự tôn trọng hiến pháp,
bảo đảm sự độc lập của tồ án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật.
Các Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin mặc dù chưa sử dụng khái niệm nhà
nước pháp quyền, những tư tưởng khoa học về nhà nước pháp quyền đã được kế
thừa, phát triển theo quan điểm khoa học và cách mạng: xây dựng nhà nước kiểu
mới thực sự của dân, do dân, vì dân, hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống pháp luật
dân chủ thực sự, triệt để theo hướng giải phóng con người và tất cả vì con người.
1.2. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện
nay là tất yếu
1.2.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước Pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Phương hướng chung về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Thuật ngữ "xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân" xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ khố VII họp tháng 1-1994 [9, tr.13]. Hội nghị Trung ương 8 khoá VII
(tháng 1-1995) tiếp tục đặt vấn đề "xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã
hội chủ nghĩa" [10, tr.129]. Văn kiện Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng nhấn
mạnh: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao
đạo đức" [11, tr.129]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII (tháng 61997) về tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
sạch, vững mạnh, có một nhận định quan trọng về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Đảng đã "từng bước phát triển hệ

thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" [12, tr.36]. Đại hội IX (năm 2001) đặt vấn đề
tiếp tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của

21


Đảng" [13, tr.131]. Xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là cả một quá trình, từng bước hoàn thiện, nên Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 9 khoá IX (tháng 1-2004) của Đảng đã khẳng định: "Tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, củng cố khối đại đồn kết tồn dân
tộc" [16, tr.79].
Đó là một hệ thống phương hướng của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một vấn đề rất mới ở Việt Nam, nên nghị quyết
của Đảng cũng chỉ phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây
dựng được một hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
sự thừa nhận và khẳng định Nhà nước pháp quyền là tất yếu lịch sử. Nó khơng
chỉ là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của
xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại.
Điểm xuất phát để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhằm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh", xây dựng một xã hội mà trong đó được xử lý bằng mối quan hệ giữa
dân chủ xã hội và luật pháp của Nhà nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam vừa có giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền nói chung,
vừa phải thể hiện được những đặc trưng, bản chất, bản sắc của dân tộc Việt Nam,
con người Việt Nam. Cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở chính trị
là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định bởi
những tiền đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiền đề chính trị xã hội mang đặc điểm của Việt Nam.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực

22


tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối nội và đối ngoại. Đó là bản chất giai cấp
cơng nhân Việt Nam gắn với dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng và quản lý
đất nước. Bản chất đó được quy định bởi mối quan hệ giữa nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa với việc chấp hành pháp luật và sự bảo vệ những quyền lợi dân chủ xã
hội chủ nghĩa; sự bình đẳng về mặt xã hội của các cơng dân; sự địi hỏi mỗi
thành viên trong xã hội phải lao động hết mình vì xã hội, làm theo sức mình và
hưởng theo mức độ đóng góp trong lao động; sự tham gia quản lý các công việc
xã hội, phát triển, thể hiện năng lực của mình một cách đầy đủ nhất; sự học tập,
rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, văn hố của mình.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện
bộ mặt tinh thần và đạo đức xã hội, tính thực thi của pháp luật, sinh hoạt xã hội
lành mạnh và quyền làm chủ của công dân; từng bước đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng hoạt động lập pháp, thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối của Đảng thành
luật pháp và các văn bản pháp quy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn đến
việc đào tạo những cơng dân tích cực, nguồn nhân lực và những nhân tài xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa chính quyền nhà nước và
cơng dân.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tôn
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, hoặc gia nhập.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các thành viên trong Mặt trận; kiên quyết đấu tranh chống quan
liêu, cửa quyền, đặc quyền, đặc lợi; bảo vệ quyền con người, quyền công dân;
chống quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác. Nó được xây dựng
trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết tồn dân tộc, lấy liên minh
giữa giai cấp cơng nhân với nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

23


Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là bảo đảm để Nhà nước hoạt động đúng hướng và có
hiệu quả.
- Những quan điểm cơ bản xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo
đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa
đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, ý chí của nhân dân phải được thể hiện trong luật pháp,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà
nước. Nhà nước và các cơ quan nhà nước là đại diện cho quyền lực của nhân dân
và là người tổ chức thực hiện quyền lực ấy theo nguyện vọng và lợi ích chính
đáng của nhân dân. Nhà nước ln ln có trách nhiệm bảo đảm để mọi công

dân thực hiện tốt các quyền cơ bản của mình (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội,…). Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một bảo đảm để Nhà nước hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng thời phát
huy tính sáng tạo của nhân dân, xem đó vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để
xây dựng kinh tế và phát triển văn hoá, xã hội.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện "quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [11, tr.129]; xác
định rõ vai trò, vị trí của luật pháp, tính tối cao của luật trong quá trình điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng của luật, bảo đảm luật pháp
phải thật sự là của dân, do dân, vì dân và phải bảo vệ lợi ích của nhân dân, quản
lý nhà nước bằng pháp luật, đồng thời coi trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội,
tư cách công dân; xác định rõ các thể chế hoạt động của các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp, trong đó có Quốc hội, Chính phủ; đẩy mạnh cải cách hành

24


chính, cải cách tư pháp; tăng cường vai trị quản lý vĩ mô của Nhà nước trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế; xác định mối tương quan giữa quyền lực
nhà nước và hoạt động kinh tế, giới hạn của quyền lực nhà nước với việc phát
triển kinh tế, bảo đảm tính độc lập tương đối của sự phát triển kinh tế.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản.
Song, nguyên tắc này không chỉ đóng khung trong Đảng Cộng sản, mà nó cịn
phải được thực hiện trong quản lý và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nguồn gốc của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được C.Mác và Ph. Ăngghen
nêu ra và thực hiện trong tổ chức Liên đoàn những người cộng sản và sau đó,

trong "Hội Liên hiệp cơng nhân quốc tế" (Quốc tế I). Nguyên tắc này xuất hiện
do nhu cầu của phong trào công nhân phải thống nhất lực lượng của mình trong
cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh này đòi hỏi giai cấp
cơng nhân quốc tế phải có sự ổn định nhất trí và tính tổ chức của đội tiên phong.
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo nguyên tắc này phù hợp
với những điều kiện lịch sử và thời đại mới. Lần đầu tiên trong lịch sử, theo đề
nghị của V.I.Lênin, Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (tiền thân của Đảng
Bơnsêvích Nga, sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) đã đưa nguyên tắc tập trung
dân chủ ra bàn tại Hội nghị Trung ương của Đảng, họp tại Tammécpho, năm
1905 và đã được Hội nghị công nhận. Sau đó, Đại hội IV (Đại hội thống nhất)
của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (năm 1906) đã thông qua Điều lệ
Đảng, ghi rõ: "tất cả các tổ chức đảng đều phải xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ" [54, tr.313]. V.I.Lênin còn chủ trương vận dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ vào trong lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội và lĩnh vực
kinh tế. V.I.Lênin viết: "Hiện giờ, nhiệm vụ của chúng ta chính là phải thực hiện
chế độ tập trung dân chủ trong lĩnh vực kinh tế" [26, tr.186]. V.I.Lênin quan
niệm rằng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước, quản

25


×