Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quan điểm của HCM về vai trò của của con người và chiến lược trồng Người. Vận dụng quan điểm đó trong việc phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện ta.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.9 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
I.

Quan điểm của HCM về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”
2

1.

Quan điểm Hồ Chí Minh về con người............................................................2

1.1.

Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể..........................................2

1.2.

Con người cụ thể, lịch sử............................................................................2

1.3.

Bản chất con người mang tính xã hội.........................................................2

2.

Quan điểm của HCM về vai trò của con người...............................................3

2.1.
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
cách mạng..................................................................................................................... 3
2.2.


Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng; phải coi
trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.............................................................3
3.

Quan điểm của HCM về chiến lược trồng người............................................5

3.1.
“ Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng..................................................................................................................... 5
3.2.

Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN...........5

3.3.
Chiến lược “ trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển KT-XH........................................................................................6
II.
Vận dụng quan điểm chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ
phận hợp thành của chiến lược phát triển KT-XH vào trong việc phát triển giáo
dục đào tạo ở nước ta hiện ta.....................................................................................7
1.

Tình hình giáo dục nước ta hiện nay................................................................7

2. Một số quan điểm của Đảng về chiến lược “trồng người” phát triển Kinh tế Xã hội trong giáo dục đào tạo.....................................................................................8
3.

Thực trạng phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay...........................9

3.1.


Thành tựu....................................................................................................9

3.2.

Hạn chế......................................................................................................11

3.3.

Nguyên nhân..............................................................................................12

4.
Giải pháp khắc phục trong vận dụng quan điểm chiến lược “trồng người”
là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội trong việc phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.............................13
KẾT LUẬN................................................................................................................ 16


Đề 2:
Quan điểm của HCM về vai trò của của con người và chiến lược trồng Người. Vận
dụng quan điểm đó trong việc phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện ta.
MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điếm khoa học rộng lớn, sâu sắc
và phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, tư tưởng của Người là một kho tàng những giá trị nhân văn cao cả. Một trong
những giá trị đó là tư tưởng về con người và chiến lược “trồng người”. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một bước phát triến mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được vận dụng một
cách sảng tạo vào thực tiên giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chỉ Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết
xã hội vù giải phỏng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt

lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của
Người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trồng người là một sự nghiệp có tính chiến lược.
Người mong muốn biến khát vọng vì chủ trương của các thế hệ cha ơng về “khai dân
trí” thành hiện thực. Do đó từ khi có chính quyền, Hồ Chí Minh đã thực hiện một sự
nghiệp “khai dân trí” rộng lớn chưa từng có trong lịch sử nước ta và thu được những
thành công hết sức to lớn. Người đã xác định “chống giặc dốt” là nhiệm vụ thứ tư
trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước lúc bấy giờ, là bước khởi đầu và cũng
là nhiệm vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí. Người chỉ rõ: “Dốt nát
cũng là kẻ địch. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân.
Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng. Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”. Từ đó, sự nghiệp GD trở thành sự nghiệp của toàn thể dân tộc, và
đối tượng của GD cũng là toàn thể dân tộc. Người chắt chiu, rèn luyện từng con
người, mở những lớp huấn luyện cho từng tốp nhỏ học trò với cả tấm lòng nhiệt thành,
kiên trì, nhẫn nại. Người thường xuyên tổng kết kinh nghiệm của các phong trào quần
chúng, kiên trì lắng nghe và tìm đọc, suy ngẫm về những gương tốt, những ý hay của
nhân dân. Người viết “Dân rất thông minh, quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất
nhiều, chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi”. Người căn dặn: Phải học,
học ở nhà trường, học trong sách vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần
chúng là một sai lầm lớn. Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời khơng q bằng nhân
dân. trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, Vơ
luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người
cho rằng "việc dễ mấy khơng có nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng
xong".
I.

Quan điểm của HCM về vai trò của con người và chiến lược “trồng
người”



1. Quan điểm Hồ Chí Minh về con người
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó:
đa dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng
bào...): đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng cũng như năm ngón
tay dài, ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn tay: mấy mươi triệu người
Việt Nam
I.1.

Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể

- Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thế lực
và các hoạt động của nó. Con người ln có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ
mặc dù "có thế này, thế khác".
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa
dạng trong quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào...):
đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng cũng như năm ngón tay dài,
ngắn khác nhau, nhưng đều hợp nhau lại nơi bàn tay: mấy mươi triệu người Việt Nam,
có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nịi giống Lạc Hồng: đa dạng trong
hồn cảnh xuất thân, điều kiện sống, làm việc ..
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và
ác hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,... bao gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản
năng - mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người có tốt có xấu,
nhưng "dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình"1.
I.2.

Con người cụ thể, lịch sử

Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm "con người" theo nghĩa rộng trong một số
trường hợp ("phẩm giá con người", "giải phóng con người", "người ta", "con người",
"ai"...), nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung, còn phần lớn.

Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới
tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi (phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp (cơng nhân,
nơng dân, trí thức...), trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công,
thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vơ
sản). Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan.
1.3.

Bản chất con người mang tính xã hội

- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản xuất,
con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội: hiểu
về mình và hiểu biết lẫn nhau..., xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là
sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh,
em: họ hàng: bầu bạn: đồng bào, loài người.
2. Quan điểm của HCM về vai trò của con người


2.1.

Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành cơng của sự nghiệp
cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không quý bằng nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vơ luận việc gì, đều
do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người cho rằng "việc dễ
mấy khơng có nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là
người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn:
dân ta tổt lắm. Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin
tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân

nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ
mãi khơng ra"'. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường
cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực
lượng vơ tận của dân tộc ta, với lịng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân
đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành cơng của cách mạng. "Lịng u nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”
2.2.

Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng; phải coi
trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người

- Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ
Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao
động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911,
giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Người ra đi
với ý chí "quyết giải phóng gơng ta được hồn tồn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được cùm nô lệ cho đồng bào”.
Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là "làm sao
cho nước học hành".
- Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người
cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược
lại, người có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải
phóng của chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con
người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người.
Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách
mạng. Khi đất nước cịn nơ lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng
dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu

ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy
chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân
có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc
đối với con người".


- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích
lâu dài, lợi ích trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp
và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết
sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.
- Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo
của quần chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất
cả"...
Niềm tin vào sức mạnh của dân cịn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân
dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu khơng có nhân dân thì Chính
phủ khơng đủ lực lượng: nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng có ai dẫn
đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực
lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vơ địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự
giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
- Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời
cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người
cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh
nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu

thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn
bệnh nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng
việc".
- Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà
nước mới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh lấy cơng - nơng - trí làm nền tảng. Từ thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở
trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp cơng nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với
những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư
bản. Muốn vậy giai cấp cơng nhân chỉ có liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó
với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những. con người
được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi
dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt
Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có
lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.


Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con
người -động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
- Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ
chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói
quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè khơng dám nói.
khơng dám làm, khơng dám đề ra ý kiến, tóm lại khơng dám đổi mới và sáng tạo.
3. Quan điểm của HCM về chiến lược trồng người
3.1. “ Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng

Xuất phát từ quan niệm coi con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định đối
với sự thành bại của cách mạng, là mục tiêu và động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh
hết sức coi trọng chiến lược con người.
Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nhằm phát huy
cao nhất mọi tiềm năng của con người.
Chiến lược “trồng người” vừa mang tính thường xuyên, cấp bách, vừa mang tính
cơ bản lâu dài, phải làm công phu, tỉ mĩ như người làm vườn vậy.
3.2.

Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN

+ Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người xã
hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con người xã hội chủ nghĩa rồi mới
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan
tâm suốt q trình.
+ “Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là khơng phải tất cả
mọi người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn chỉnh
ngay một lúc, mà chỉ có nghĩa là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được
những nét tiêu biểu của người xã hội chủ nghĩa để có thể làm gương và lơi cuốn người
khác cũng như tồn xã hội xây dựng con người mới; đồng thời, họ cũng không ngừng
được hoàn thiện, được nâng cao.
+ Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn diện: Đức,
Trí, Thể, Mỹ.
+ Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh:


Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư
tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám

chịu trách nhiệm, quyết chí vươn lên, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, u
thương con người, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, có tinh thần quốc tế trong
sáng, lối sống lành mạnh.
Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết tâm, tổ
chức, kỷ luật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động hăng say, khơng sợ
khó, sợ khổ, làm việc vì lưọi ích của xã hội, tập thể và của bản thân.
Có năng lực làm chủ: làm chủ bản than, gia đình và cơng việc mình đảm nhiệm,
đủ sức khoẻ và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện tốt quyền cơng
dân; khơng ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hố, khoa học cơng nghệ, chun
mơn nghiệp vụ để làm chủ.
Ngoài những tiêu chuẩn chung trên, Hồ Chí Minh cịn nêu những tiêu chuẩn cụ
thể cho từng giới, từng ngành.
3.3.

Chiến lược “ trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển KT-XH

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản Trọng: “Thập niên chi
kế mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân” mà khẳng định: “Vì lợi ích
mười năm phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh trong
suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết quả cụ thể qua từng chặng
đường của thời kỳ quá độ. Bởi vì, nếu sao nhãng việc trồng người, nhất định sẽ dẫn
đến những bất cập, hơn nữa cịn là những suy thối về con người có thể gây những hậu
quả khơn lường. R.Tagore nói: “một ngày mà quên giáo hoá, ta lùi gần về thú tính
hơn”.
+ “Trồng người”, xây dựng con người mới phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi
người. Đây là quyền lợi, cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người với sự nghiệp

xây dựng đất nước. Đồng thời nó cũng thể hiện sự trưởng thành, vươn lên của mỗi cá
nhân.
+ Những người có trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng bởi quần chúng
nhân dân, bởi tập thể những người đi trồng và được trồng, bởi cuộc sống thực tiễn và
sự tự vun trồng trong suốt cuộc đời của chính họ.


Giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ
tạo ra tính thiện, đem lại giở lại tươi sáng cho thành niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ
ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả
đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội
chủ nghĩa lên hàng đầu. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc
làm...
Trồng người là cơng việc “trăm năm”, khơng thể nóng vội “một sớm một
chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó.
Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời
mỗi người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Việc học khơng bao giờ cùng, cịn sống cịn phải học”.
II.
Vận dụng quan điểm chiến lược “trồng người” là một trọng tâm,
một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển KT-XH vào trong việc phát
triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện ta.
1.

Tình hình giáo dục nước ta hiện nay

– Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.
– Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xă hội.
– Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Hiểu được điều này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia rất coi trọng sự

phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây dựng nền giáo dục thực sự vững
mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những năm qua Đảng và nhà nước đã
luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục Việt Nam.
Trong khi thế giới đang bùng nổ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nước ta
đã và đang chủ động tiếp cận, đón đầu thời cơ do nó mang lại để phát triển đất nước,
phát triển GD-ĐT và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhiệm vụ xây dựng, phát
triển đất nước hiện nay đòi hỏi phẩm chất, năng lực con người cũng phải theo những
tiêu chí mới. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú ý xây dựng con người xã hội,
con người công dân, hướng tới phát huy cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân; phát
triển hài hòa con người cá nhân và con người xã hội. Với mục tiêu GD-ĐT cần đổi
mới, Nhà nước có nhiều chính sách điều chỉnh theo hướng vừa chú ý phát triển hài
hịa con người xã hội, con người cơng dân, vừa hướng tới phát huy tiềm năng của mỗi
học sinh, sinh viên; kết hợp hài hòa dạy chữ, dạy nghề và dạy người; chú trọng giáo
dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp... Mục tiêu giáo dục
phải phù hợp với bối cảnh và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, trình độ, đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh, sinh viên Việt Nam.


Hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 376 trường đại học, với khoảng 6600 giáo
sư và phó giáo sư. Tuy nhiên theo ông tổng thư ký hội đồng chức danh giáo sư, nếu
đánh giá đúng theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt nam chỉ có khoảng từ 15 đến 20% có trình
độ tương ứng với chức danh đó. Cịn lại không chỉ thấp mà hơn dưới 1/3 rất thấp.
Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ thi trượt đại học nhiều nhất thế giới. Hiện nay chỉ
có 1/10 người ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh. Tuy nhiên, quốc gia này đang
được xếp vào những nước có tỷ lệ dân số đạt trình độ đại học trở lên thấp nhất của khu
vực và trên thế giới. Ngay các nước láng giềng cũng đang phấn đấu để đạt được tỷ lệ
tuyển sinh đại học là 60 – 80% hoặc cao hơn nữa, trong khi chúng ta mới chỉ đạt được
khoảng 10 – 15%. 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc và
hầu hết là các mơn này nhằm mục đích tun truyền chính trị.
Nhìn chung giáo dục Việt Nam chưa thực sự sát với thực tế, sinh viên sau khi tốt

nghiệp các trường đại học chưa hẳn đã có việc làm, dường như GD chưa đáp ứng
được những đòi hỏi của xã hội. Sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp các trường đại
học ra thường phải học thêm một số chương trình mà bên tuyển dụng yêu cầu, vì họ
cho rằng cái mà sinh viên học được ở trường lớp chỉ đa phần là lý thuyết suông, chưa
thể áp dụng vào thực tế.
2. Một số quan điểm của Đảng về chiến lược “trồng người” phát triển Kinh tế Xã hội trong giáo dục đào tạo
Ngày nay, nhân loại đang bước vào một nền văn minh trí tuệ, một nền kinh tế tri
thức, một xã hội thông tin. Thế giới đang trong cuộc chạy đua về tốc độ trong hệ thống
kinh tế - xã hội, vì vậy, người ta nói muốn biết tương lai của một dân tộc ra sao hãy
nhìn vào hiện tại xem dân tộc đó đang làm giáo dục như thế nào. Trong nền kinh tế tri
thức, ưu thế không hoàn toàn lệ thuộc vào các nhân tố truyền thống như tài nguyên,
đất đai,…mà nhân tố có ý nghĩa quyết định là trí tuệ con người, là đội ngũ lao động
chất lượng cao. Việt Nam muốn “sánh vai với các cường quốc năm châu”, trước tiên
phải làm tốt chiến lược “trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi bằng con
đường phát triển giáo dục, phát triển năng lực sẵn có trong mỗi con người, chúng ta
mới có thể đón đầu, phát huy thế mạnh của con người Việt Nam như yêu nước, ham
học, thông minh, sáng tạo,…để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng ngươi” là kim chỉ nam để Đảng và Nhà nước
ta xây dựng đường lối giáo dục và đào tạo trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa; phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều nghị
quyết về phát triển giáo dục, đào tạo khoa học và công nghệ khẳng định tầm quan
trọng, định hướng cũng như xác định mục tiêu, nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo đại học:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định: cùng với khoa học
công nghệ, “giáo dục là tương lai của dân tộc”, là “quốc sách hàng đầu”, đóng vai trị
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và là một động lực đưa đất


nước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Giáo dục
là tương lai của dân tộc, tức là tương lai của con người, của mọi người, vì sự phát triển

tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Trước
hết ở đây là đào tạo, rèn luyện, xây dựng con người, là chiến lược “trồng người”.
Với tầm nhìn chiến lược sắc bén, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai khóa
VIII của Đảng ta đã khẳng định: “thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục- đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục- đào tạo là đầu
tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục- đào tạo. Có
các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng,
của Nhà nước và của toàn dân, mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa
khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển”. Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người
– yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2001,tr.108-109).
3. Thực trạng phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay
3.1.

Thành tựu

Giáo dục gắn liền với xã hội lồi người, có con người là có giáo dục vì nhân loại
ln hướng đến mục tiêu ngày một hồn thiện hơn. Việt Nam ln xác định: Chỉ có
giáo dục mới nâng cao được dân trí, bồi dưỡng được nhân tài, mới tạo ra được nhiều
của cải vật chất và những giá trị tinh thần tiên tiến.
Ngày nay, trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam càng coi trọng
giáo dục, khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu để sáng tạo ra hệ thống giá trị
hiện đại, mới mẻ, làm nguồn lực thúc đẩy và phát triển kinh tế-xã hội. Việc vận dụng
quan điểm chiến lược “Trồng người” là một trọng tâm một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vào trong việc phát triển giáo dục – đào tạo ở

nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Đảng ta lãnh đạo đổi mới toàn diện sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nên lĩnh vực này càng được toàn dân quan tâm. Hơn nữa,
hầu như gia đình nào cũng có người đi học nên giáo dục và đào tạo khơng cịn là
chuyện của riêng ngành giáo dục, mà là của cả xã hội, của mỗi cá nhân.
Nước ta đã đi qua ba cuộc cải cách, đổi mới giáo dục: Lần 1 (năm 1950) nhằm
xây dựng một nền giáo dục của dân, vì dân; lần 2 (năm 1956) nhằm hướng tới đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ thanh niên trở thành những công dân tốt, có tài đức; lần 3 (năm


1981) tiến hành đồng bộ cả về hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học.
Mỗi cuộc đổi mới đều có nội dung, tính chất phù hợp với xu thế phát triển của đất
nước và thế giới. Đến nay, những kết quả đạt được là rất khả quan trong việc thực hiện
sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chúng ta đã huy động
tối đa trẻ em trong độ tuổi được đến trường. Quy mô các cơ sở giáo dục không ngừng
được mở rộng. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các tỉnh
62/63 tỉnh thành trên cả nước. Cơ sở các trường được nâng cao cải thiện. Hệ thống
giáo dục đa dạng hóa cả về loại hình, phương thức và nguồn lực từng bước hồ nhập
với xu thế chung của thế giới. Từ hệ thống chỉ có trường cơng lập chủ yếu là loại hình
chính quy đến nay đã có các trường ngồi cơng lập, loại hình khơng chính quy, có
trường mở, có phương thức đào tạo liên kết với nước ngồi. Quy mơ giáo dục tăng đáp
ứng được nhu cầu học tập của xã hội. Cả nước đã hồn thành cơng tác xố mù chữ,
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở.
Tính đến năm học 2015-2016, bậc giáo dục mầm non có 14.532 trường với tổng
số hơn 4,62 triệu trẻ em; bậc giáo dục tiểu học có 15.254 trường với hơn 7,73 triệu học
sinh; bậc giáo dục phổ thông (trung học cơ sở và trung học phổ thơng) có 12.721
trường với hơn 7,56 triệu học sinh; bậc cao đẳng, đại học có 442 trường với 2,24 triệu
sinh viên. Những con số này không chỉ là minh chứng sống động về quyền được học
tập của thanh-thiếu nhi Việt Nam, mà còn phủ nhận những bình luận ác ý trên một số
trang mạng nước ngồi rằng, trẻ em Việt Nam khơng được chăm lo học hành, rất nhiều
trẻ em không được đến lớp, phải đi lao động, làm thuê…

Nhìn một cách khách quan, ngành giáo dục Việt Nam có những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nổi bật là: Thực
hiện nền giáo dục tồn dân; hệ thống trường lớp và quy mơ giáo dục phát triển đáp
ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân; chất lượng giáo dục được nâng cao,
góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội; đội ngũ nhà
giáo ngày càng được củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất
của hệ thống giáo dục từng bước được hiện đại hóa. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp
cận tri thức mới của học sinh, sinh viên được nâng cao, giáo dục trung học phổ thơng
đạt trình độ cao của khu vực và thế giới, số học sinh đạt giải quốc gia và quốc tế ở một
số môn học tăng, số đông sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học, có hồi bão lập thân,
lập nghiệp và có tính thần tự lập năng động.
Từ năm 2004 đến 2016, Việt Nam đăng cai và tổ chức thành công nhiều kỳ thi
quốc tế: Olympic Vật lý châu Á (2004), Olympic Toán học quốc tế (2007), Olympic
Vật lý quốc tế (2008), Olympic Hóa học quốc tế (2014). Năm 2016, Việt Nam là nước
chủ nhà của Cuộc thi Olympic Sinh học quốc tế lần thứ 27-IBO 2016. Đây là minh
chứng cho sự tin tưởng, đánh giá cao của quốc tế đối với nền giáo dục Việt Nam.
Chúng ta đã gặt hái thành quả đáng khích lệ: Giành 6 huy chương vàng, đứng đầu
Cuộc thi Olympic Toán học châu Á-Thái Bình Dương (APMOPS 2016). Việt Nam là


nước Đơng Nam Á có nhiều giải nhất Hội thi Khoa học Kỹ thuật quốc tế-Intel ISEF
2016 (Hoa Kỳ), với 4 dự án đạt giải ba lĩnh vực Hóa học, Kỹ thuật mơi trường, Kỹ
thuật cơ khí, Sinh học tế bào và phân tử. Chúng ta đã giành 1 huy chương vàng, 4 huy
chương bạc, 1 huy chương đồng trong Cuộc thi Olympic Tốn quốc tế (IMO) 2016;
xuất sắc có 1 giải đặc biệt Grand Champion, 11 huy chương vàng, 24 huy chương bạc,
47 huy chương đồng trong Cuộc thi Tốn học trẻ quốc tế 2016 (IMC). Ngồi ra, học
sinh nước ta còn nhận 2 huy chương vàng, 2 huy chương bạc và 1 huy chương đồng
Cuộc thi Olympic Vật lý quốc tế năm 2016…
Giáo dục đại học từng bước vươn lên, đào tạo được một số đông đảo cán bộ khoa
học, kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ đang cơng tác và xóa những cống hiến quan trọng

trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhờ những thành tựu xã hội của giáo dục
và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số phát triển con người (HDI) của chương trình
phát triển Liên hợp quốc (UNDP) hơn chục năm gần đây có những tiến bộ đáng kể từ
0,456 - xếp thứ 121 tăng lên 0,683 - xếp thứ 115/188.
Năm 2013, Đảng ta đã có Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Nghị quyết đã xác
định: “Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết
quốc tế về giáo dục, đào tạo... Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước
ngồi có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp... Có cơ chế
khuyến khích các tổ chức quốc tế quản lý, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học
và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế”. Những
chỉ dẫn quan trọng này của Đảng là cơ sở thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Những thành tựu về giáo dục Việt Nam có được
đều là do bộ phận nhân dân có tinh thần hiếu học, đặc biệt là Đảng và nhà nước đã rất
quan tâm và có những chủ trương đúng đắn cho phát triển giáo dục.
3.2.

Hạn chế

Với quan điểm chiến lược "trồng người" là một trọng tâm, một bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Hồ Chí Minh, đất nước ta đã thu
được rất nhiều thành tựu to lớn. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng khơng thể tránh
khỏi những mặt hạn chế và yếu kém trong quá trình vận dụng quan điểm của Người.
Đánh giá chung, tình hình phát triển nền kinh tế phát triển-xã hội chưa vững
chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm
chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp thiếu thị trường
tiêu thụ cả trong nước lẫn ngoài nước.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đánh giá:



- Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao cịn hạn chế;
- Chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội.
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất
lượng, giữa dạy chữ và dạy người.
- Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, đổi mới chậm;
- Cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo;
- Chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Quản lý nhà nước về giáo dục cịn bất cập.
- Xu hướng thương mại hố và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm,
hiệu quả thấp đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội
Những hạn chế này là thách thức lớn đối với nước ta trong thời gian hiện tại
và sắp tới. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có những giải pháp thích hợp và kịp thời
nhằm khắc phục và giảm thiểu các hạn chế, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo
nhằm vận dụng tốt quan điểm của Hồ Chí Minh trong chiên lược “trồng người”.
3.3. Nguyên nhân
 Về phía người dạy
- Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao
nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làm người học
tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết, thiếu cập nhật
thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp.
- Chưa chú trọng bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ: Đơi khi q chú trọng đến thành
tích mà thiếu sự quan tâm, chỉ bảo, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, từ bỏ lối sống cá
nhân ích kỉ, thiếu định hướng cho thế hệ trẻ hướng đến lợi ích chung, đến lối sống vì
người khác.
- Chưa chú trọng vào định hướng nghề nghiệp, bồi dưỡng ước mơ cho thế hệ trẻ.


 Về phía người học
- Tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của học sinh, sinh viên nhìn
chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào,
học cho qua, “học theo hội chứng bằng cấp”, do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức
để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ.


-Việc học chạy theo thành tích, áp lực thi cử đè nặng do khối lượng kiến thức quá
nặng khiến thế hệ trẻ ít chú trọng đến những giá trị đạo đức trong cuộc sống: tình u
thương, lịng bao dung, sự tử tế…Thay vào đó là sự ích kỷ, hơn thua, ganh ghét.

 Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưa
gắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫn tới
học sinh, sinh viên phải học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thực tiễn.
 Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng cấp
- Nền kinh tế nước ta còn thấp, kém hiệu quả, cơ sở vật chất, kĩ thuật lạc hậu
- Do con đường chúng ta đang đi rất mới mẻ, vừa làm vừa phải tìm tịi, rút kinh
nghiệm để đổi mới; những khó khăn vốn có của nền kinh tế không dễ mắc phục trong
một thời gian ngắn, tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới.
-Những tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào tạo đại học mà
nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và cơ chế quản lý chưa phù
hợp đã tạo những “sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp, phương pháp làm việc vừa kém về năng lực nhận thức, tư duy và phương pháp
nghiên cứu khoa học, xã hội không thừa nhận và rồi “sản phẩm” của giáo dục đào tạo
đại học khơng có chỗ đứng trên thị trường, người học xong đại học khó hoặc khơng
tìm được việc làm.
-Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từng bước
thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáo dục toàn
diện cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạy kiến thức, nặng

về lý thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành động cho học sinh.
-Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước: Sự phát triển kinh tế của
đất nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam phát triển, hiện
nay chúng ta có một xã hội học tập, người người đi học, gần 30 triệu học sinh các cấp
là một con số khổng lồ, qua các kỳ thi đại học ta thấy có sự chen chúc nhau quá mức,
các trung tâm luyện thi, các thầy giáo dạy thêm, học thêm, học sinh cố học để tìm
kiếm một trường học thích ứng. Khi một đất nước có tốc độ phát triển khá cao và đều
đặn như hiện nay, các nhà quản lý giáo dục phải có biện pháp đón đường, dự kiến
những nhu cầu của ngành, của nhân dân, của học sinh để có những biện pháp thích
hợp.
- Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp: Hiện nay ngành giáo dục các
địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn là chịu tác động
hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạy học, thi cử đúng như
quy chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thi rớt nhiều, lưu ban nhiều thì
địa phương sẽ có ý kiến, thậm chí có những ý kiến chỉ đạo, “bệnh thành tích” có cơ
hội để phát triển trong cơ chế quản lý giáo dục hiện nay.


4.
Giải pháp khắc phục trong vận dụng quan điểm chiến lược “trồng
người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội trong việc phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay.
- Phát triển giáo dục – đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng – an ninh.
+ Phát triển giáo dục phải nhằm đảm bảo sự hợp lý về cơ cấu trình độ, cơ cấu
ngành nghề, cơ cấu vùng miền… gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phịng;
+ Mở rộng quy mơ trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả;
+ Kết hợp giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục gắn với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tiễn,

nhà trường gắn với gia đình và xã hội
-

Phát triển giáo dục phải gắn liền với phát triển kinh tế

+ Hệ thống giáo dục cần có mục tiêu rõ rành và thiết thực tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng
+ Chương trình và phương pháp giáo dục cần tạo ra nguồn lực đáp ứng nhu cầu xã hội
+ Mục tiêu của các chương trình đào tạo phải được thiết kế đồng bộ với hệ thống đánh
giá năng lực đã được chuẩn hóa dựa trên khoa học đo lường hiện đại là bước quan
trọng nâng cao chất lượng giáo dục
+ Cần phổ biến khoa học đo lường hiện đại để xây dựng các hệ thống đánh giá năng
lực người học giúp nâng cao chất lượng giáo dục và xây dựng nguồn nhân lực tiêu
chuẩn hóa.
+ Đồng thời khơng thể thiếu hoạt động không ngừng bồi đắp đạo đức trong kinh
doanh
-

Phát triển giáo dục gắn với củng cố an ninh quốc phòng

+ Củng cố lòng yêu nước của nhân dân đặc biệt là thế hệ thanh niên có cái nhìn đúng
đắn về đường lối, chính trị của Nhà nước.
+ Gìn giữ và phát huy tinh thần yêu nước của thanh niên ngày nay
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục; cải thiện và nâng cao cơ sở
vật chất kỹ thuật
+ Đầu tư đồng bộ cho giáo dục, nâng cao và hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất


+ Xây dựng chương trình giáo dục tồn diện kết hợp đức, trí, thể mỹ, phải đặt
đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lỗi sống xã hội lên hàng đầu. Hai mặt đức tài phải thống nhất với nhau, khơng tách rời nhau trong đó đạo đức làm gốc, là nền

tảng cho tài năng phát triển, phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói và
việc làm,…
+ Đổi mới tư duy và phương pháp học cho phù hợp với nhu cầu kinh tế - xã hội
hiện đại: Kết hợp phương pháp học truyền thống và đổi mới tư duy học tập, phối hợp
đa dạng phương pháp học, vận dụng vào giải quyết thực tiễn cuộc sống
+ Tăng cường sử dụng khoa học kĩ thuật vào dạy học, nâng cao chất lượng giờ
học cũng như góp phần vào thay đổi tư duy học truyền thống của học sinh
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy, bên cạnh đó nâng cao đạo
đức nghề nghiệp cho từng cán bộ, vì đội ngũ cán bộ giáo dục này chính là tấm gương
cho học sinh noi theo
+ Đổi mới chương trình học, lý thuyết phải đi đơi với thực tế, vận dụng vào
trong cuộc sống, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội.
+ Nội dung giáo dục cần được xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội, liên tục cập
nhật sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với xã hội hiện đại
- Tiếp thu có chọn lọc nên văn hóa thế giới, tạo nên những con người xã hội mới
hiện đại, nhưng vẫn mang trong mình những giá trị văn hóa truyền thống
+ Trong q trình hội nhập thế giới mở cửa tiếp thu những giá trị văn hóa của
các nước trên thế giới tuy nhiên cần có sự quản lý của nhà nước, để những văn hóa
du nhập vào Việt Nam là những giá trị văn hóa, hạn chế tiếp thu nhưng mặt tiêu cực
sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến thế hệ trẻ hiện nay
+ Bên cạnh tiếp thu bản sắc văn hóa nước ngồi, trong nước chúng ta cũng cần
có những chính sách bào trừ hủ tục lạc hậu, đồng thời xây dựng những chương trình
tìm hiểu về văn hóa truyền thống (tổ chức các sự kiện, các hoạt động như trò chơi
dân gian, các lễ hội,…) bồi đắp và giữ trong mỗi con nguồi những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam
- Chú trọng bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ:
+ Không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục mà trong từng gia đình cũng cần
có sự quan tâm, chỉ bảo, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, từ bỏ lối sống cá nhân ích
kỉ



+ Cần đặc biệt quan tâm bồi dưỡng phẩm chất đạo đức học sinh, sinh viên, khắc
phục những yếu kém và tiêu cực trong nhà trường.
- Xây dựng Đảng trong sạch, tạo niềm tin và là tấm gương cho toàn thể nhân dân
noi theo học tập: bên cạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục, Đảng cũng cần chú
trọng bồi dưỡng đạo đức cho các Đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh,
tạo niềm tin cho nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa và nhà nước Việt Nam
- Tích cực học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Đưa việc giảng dạy
tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương trình học sao cho phù hợp với từng độ tuổi khác
nhau, tùy từng đối tượng
- Chú trọng vào định hướng nghề nghiệp, bồi dưỡng ước mơ cho thế hệ trẻ, có
chính sách đãi ngộ nhân tài phù hợp


“Trồng người” là nhiệm vụ lâu dài, không phải làm một lúc là xong, hay
có thể làm tùy tiện đến đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề vấn đề này có
ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong mỗi cuộc đời con người và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của đất nước

KẾT LUẬN
TTHCM về con người và chiến lược “trồng người” là một giá trị to lớn đã để lại
cho dân tộc Việt Nam, là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời Người, mang
tính nhân văn sâu sắc và có giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển KT –
XH, phát triển giáo dục đào tạo
Thế kỉ XXI, chúng ta hồn tồn có thể tin tưởng rằng, với những quan điểm và
chủ trương đúng đắn của Đảng về con người và chiến lược “trồng người” thời kì đổi
mới, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam ngày càng được khơi dậy,
được nhân lên và phát triển, tạo ra nguồn lực nội sinh to lớn quyết định sự phát triển
KT – XH, phát triển giáo dục đào tạo. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng

đối với nước ta hiện nay, khi mà nguồn lực tài chính và vật chất cịn nhiều hạn hẹp và
trong thời đại kinh tế trí thức hiện nay, nguồn lực con người với tiềm năng và sức sáng
tạo vô cùng phong phú đang ngày càng trở thành yếu tố quan trọng nhất của sự giàu có
và phát triển toàn diện đất nước.



×