Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.99 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHÍ PHI HỒNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 60.38.01.02

TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2020


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà

Phản biện 1: TS Bùi Thị Thanh Thúy


Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận văn thạc sĩ, Học viện
Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Số:… - Đường………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 20...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống là những vấn đề quan trọng nằm
trong chiến lược phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như của các quốc
gia, dân tộc. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn khi mà các nguồn tài nguyên
thiên nhiên trên tồn thế giới đang dần bị cạn kiệt, cịn mơi trường sống thì càng
ơ nhiễm nặng nề. Thực trạng này đã ảnh hưởng rất tiêu cực và có phần nguy
hiểm đến đời sống xã hội. Do đó việc khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên
khoáng sản và bảo vệ môi trường đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng
đồng quốc tế.
Việc khai thác, sử dụng tài ngun ở Việt Nam khơng nằm ngồi thực
trạng chung của thế giới, có chăng chỉ là tính cực kỳ phức tạp, đa dạng và nan
giải hơn rất nhiều. Bởi trong lòng xã hội Việt Nam hiện nay đồng thời tồn tại
đang xen rất nhiều dạng biểu hiện phức tạp của các nền văn minh nhân loại đã
và đang trải qua: xã hội hoang sơ tiền văn minh ở những nơi vùng sâu vùng xa,
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và cả những yếu tố của văn minh

hậu cơng nghiệp hay văn minh trí tuệ, trong đó văn minh nơng nghiệp đang giữ
vai trị chủ đạo.
Nước ta có nguồn tài ngun khống sản vơ cùng phong phú, ngành cơng
nghiệp khai khống đóng góp rất lớn cho ngân sách nhà nước, tạo ra tác động
xã hội đáng kể. Nhưng khống sản khơng phải là vơ tận, trong những năm gần
đây, nạn khai thác bừa bãi, ô nhiễm môi trường khu vực khai khoáng….
Quảng Ninh là một tỉnh đang phát triển mới, có tiềm năng khai thác
khống sản lớn, đặc biệt là than. Và thực tế, trong những năm qua, ln là một
trong những địa phương có kinh nghiệm hàng đầu của cả nước về khai thác
khoáng sản và thực hiện pháp luật về khoáng sản một cách nghiêm túc. Ngành
than đã đóng góp lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nộp ngân sách
hàng nghìn tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động trên địa bàn, thúc
đẩy việc mở rộng giao thông vận tải… Tuy nhiên, tỉnh cũng đối diện với nhiều
khó khăn trong công tác quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật về khai thác
khoáng sản. Khi mà vấn đề ô nhiễm môi trường do hoạt động khai khoáng ngày
càng nghiêm trọng, tình trạng khai thác, vận chuyển, kinh doanh trái phép than,
cát trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh diễn biến ngày càng tinh vi, tranh chấp về giải
1


phóng mặt bằng… gây ra nhiều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
Việc khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài
ngun khống sản đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa của cả nước cũng như của tỉnh Quảng Ninh. Nhất là trong bối
cảnh phát triển của thời đại mới, tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung
đang hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội bền vững, khẳng định quyết
tâm khơng vì mục tiêu tăng trưởng tăng trưởng kinh tế mà hủy hoại môi trường.
Quảng Ninh là một tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế xã hội, có thể kể
đến đó là vị trí địa lý chiến lược, hệ thống thơng thương cảng biển, biên giới, cửa

khẩu, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nguồn thủy hải sản phong phú. Vì vậy, việc
phát triển ngành than nằm trong một chuỗi tác động qua lại với các ngành kinh tế
khác. Điều này đòi hỏi việc thực hiện pháp luật về khoáng sản cần phải được chú
trọng, đặc biệt là pháp luật về khai thác khoáng sản. Trong những năm gần đây,
việc thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản ngày càng được các cấp Đảng
ủy, chính quyền tỉnh Quảng Ninh quan tâm để đảm bảo ngành khai khoáng nằm
trong mối quan hệ phát triển tồn diện cùng với các thành phần kinh tế khác,
đóng góp hiệu quả cho sự phát triển chung của Tỉnh.
Với mong muốn đóng góp phần nào đó về mặt lý luận cũng như những
thống kê về thực trạng và những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật
đối với khai thác khoáng sản tại địa phương tỉnh Quảng Ninh nói riêng và trên
địa bàn cả nước nói chung. Tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về
khai thác khống sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục từ viết tắt, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
2


Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật khai thác khoáng sản
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về khai
thác khoáng sản ở tỉnh Quảng Ninh

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
KHAI THÁC KHỐNG SẢN
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khống sản, khai thác khoáng sản
1.1.1.1. Khoáng sản
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Khoáng sản là khống vật và đá trong vỏ
trái đất có thể khai thác để trở thành các nguồn lợi kinh tế. Khống vật: hợp
chất hoặc đơn chất tự nhiên có thành phần đồng chất, thường là cứng, cấu tạo
nên vỏ trái đất”.
Luật Khoáng sản năm 2010 quy định: “Khoáng sản là khống vật, khống
chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lịng
đất, trên mặt đất, bao gồm cả khống vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ”.
1.1.1.2. Khai thác khoáng sản
Ở Việt Nam, khai thác khoáng sản là một khái niệm đã được luật hóa.
Theo Luật khống sản năm 2010, khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu
hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và
các hoạt động khác có liên quan.
Khai thác khoáng sản là hoạt động được tiến hành sau khi đã có giấy phép
khai thác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu
xây dựng cơ bản (hay còn gọi là mở mỏ) cho đến khi mỏ kết thúc khai thác
(đóng của mỏ - phục hồi môi trường).
1.1.2. Thực hiện pháp luật

Theo giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Học viện
Hành chính Quốc gia: “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho
những nguyên tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật”.
Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội
viết: "Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật”.
1.1.3. Pháp luật về khai thác khống sản.
Theo giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Học viện
Hành chính Quốc gia thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện,
thể hiện ý chí của nhà nước và phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội điển hình, phổ biến giữa các chủ thể với
4


nhau, thiết lập trật tự kỷ cương của xã hội, bảo đảm cho sự phát triển bình
thường của xã hội”.
Pháp luật về khai thác khoáng sản là những quy tắc xử sự có tính bắt
buộc do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
1.1.4. Thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
Thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản là hoạt động có mục đích của
các chủ thể pháp luật (là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá
nhân được nhà nước trao quyền) nhằm làm cho các quy định của pháp luật về
khai thác khoáng sản thành những hành vi trong thực tế bảo vệ và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân.
1.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
Chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản bao gồm:

Cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
1.3.1. Xây dựng, ban hành văn bản nhằm triển khai thực hiện pháp
luật về khai thác khống sản
Cơng tác xây dựng, ban hành văn bản nhằm triển khai pháp luật là một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có ý nghĩa quan trọng trong việc hồn thiện thể chế góp phần phát triển
kinh tế - xã hội và trật tự an toàn xã hội của địa phương cũng như trên địa bàn
cả nước. Đối với việc triển khai thực hiện pháp luật về khai thác khống sản.
Sau khi Luật khống sản có hiệu lực (ngày 01/7/2011) đến nay các cơ
quan có thẩm quyền liên quan đều đã ban hành văn bản quy định, hướng dẫn để
thi hành. Trong đó có hàng chục văn bản chủ yếu và liên quan trực tiếp lĩnh vực
khoáng sản gồm: Chính phủ ban hành 08 Nghị định (03 Nghị định thay thế, 02
Nghị định sửa đổi, bổ sung 1 số điều); Thủ tướng Chính phủ ban hành 05 Quyết
định; Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành liên quan ban hành 52
Thông tư quy định, hướng dẫn chi tiết một số nội dung hồ sơ cấp phép hoạt
động khoáng sản, phê duyệt trữ lượng khoáng sản, đóng cửa mỏ khống sản;
lập bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng khu vực được phép khai thác
khoáng sản; thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản; thu nhận, lưu giữ, bảo
quản và cung cấp dữ liệu về địa chất, khoáng sản và nhiều văn bản, quyết định
về định mức kinh tế kỹ thuật công tác địa chất, phân loại trữ lượng tài nguyên
khoáng sản; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về cơng tác thăm dị khống sản,
phân tích mẫu…

5


1.3.2. Tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về khai thác khoáng sản
Khi đã xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật thì việc tổ chức thực
hiện các văn bản ấy là điều kiện kiên quyết để pháp luật có thể thực sự đi vào

đời sống xã hội. Xây dựng, ban hành văn bản pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật là các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của
đời sống pháp luật; đồng thời, thể hiện sống động sự phân công quyền lực nhà
nước theo các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền.
1.3.3. Tuyên truyền phổ biến pháp luật về khai thác khoáng sản
Một trong những nội dung quan trọng của việc thực hiện pháp luật là
tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật có tác dụng
tác động vào nhận thức của mọi đối tượng, làm cho họ hiểu được bản chất và tự
giác làm theo những gì pháp luật quy định. Vì vậy, nếu sử dụng một cách có
hiệu quả thì đây sẽ là một phương pháp giải quyết được nội hàm của vấn đề
thực hiện pháp luật.
1.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về khai
thác khoáng sản
Trong q trình thực hiện pháp luật, cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm pháp luật là vơ cùng quan trọng. Mục đích của hoạt động này
là kịp thời phát hiện ra những sai sót trong q trình thực hiện pháp luật để có
thể kịp thời đề ra những biện pháp để khác phục hậu quả, điều chỉnh pháp luật,
văn bản thực hiện để hoàn thiện hơn
1.3.5. Tổng kết, thống kê, đánh giá, báo cáo công tác thực hiện pháp
luật về khai thác khoáng sản
Sau khi đã thực hiện các nội dung trên thì việc tổng kết, thống kê, đánh
giá, báo cáo công tác là bước cuối cùng. Đây là tập hợp của những công tác
nhằm có được những số liệu cụ thể, từ đó báo cáo lại tình hình thực hiện pháp
luật về khai thác khoáng sản tại địa phương cũng như trên địa bàn cả nước. Từ
những hoạt động tổng kết, thống kê, đánh giá, báo cáo công tác ấy mà những cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền sẽ dựa vào những kết quả, thành tựu đã đạt được
để tiếp tục phát huy những điểm tích cực và đề ra những phương hướng, cơng
việc để khắc phục những điểm bất cập, tồn tại.
1.4. Điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về khai thác khống sản
1.4.1. Đảm bảo về chính trị

Bất kỳ hoạt động pháp luật nào hoặc thực hiện pháp luật đều phải đảm
bảo tính chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn
diện, lãnh đạo mọi mặt của đất nước, của đời sống xã hội. Mọi chủ trương
đường lối của Đảng được nhà nước cụ thể hóa thành hiến pháp, luật và các văn
bản dưới luật. Vì vậy, mọi văn bản pháp luật về khai thác khoáng sản và hoạt
6


động thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản cũng phải tuân theo chủ
trương, đường lối của Đảng, đáp ứng được nhu cầu của công cuộc Đổi mới.
Đời sống chính trị ổn định là yêu cầu kiên quyết để hoạt động lập pháp,
hành pháp, tư pháp được đảm bảo thực hiện. Từ đó, ổn định chính trị cũng góp
phần đảm bảo thực hiện các quy định của pháp luật nói chung cũng như thực
hiện pháp luật về khai thác khoáng sản theo đúng mục tiêu đề ra.
1.4.2. Đảm bảo về pháp lý
Để đảm bảo thực hiện pháp luật về khai thác khống sản thì điều kiện
kiên quyết là phải đảm bảo về pháp luật. Chỉ khi các văn bản pháp luật được
xây dựng, ban hành một cách khoa học, hợp lý thì việc thực hiện mới có thể đạt
được hiệu lực, hiệu quả.
Đầu tiên, văn bản pháp luật phải hợp hiến, hợp pháp, không được trái với
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
Thứ hai, văn bản pháp luật khơng được quy định chồng chéo cũng như bỏ
xót đối tượng quản lý.
1.4.3. Đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị
Khai thác khoáng sản là một hoạt động bao gồm nhiều cơng việc mang
tính chun mơn rất phức tạp. Đó là việc quy hoạch khống sản, điều tra địa
chất, thăm dị khống sản, xây dựng hầm mỏ cấp phép…
Bên cạnh đó động khai thác khống sản thường diễn ra với quy mô lớn,
nội dung phức tạp và thường ở những địa bàn đặc biệt với những khai trường có
thể ở vùng núi đi lại khó khăn hoặc xen kẽ trong địa bàn dân cư. Để có thể thực

hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các đối tượng hoặc thực hiện
việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm là vơ cùng khó khăn. Đặc biệt, khi hoạt
động khai thác trái phép khoáng sản vẫn còn xảy ra và các đối tượng khai thác
trái phép sẵn sàng chống trả lại lực lượng chức năng khi bị phát hiện.
Nếu không được trang bị những cơ sở vật chất, trang thiết bị thì vơ cùng
khó khăn trong công tác đánh giá, quản lý để thực hiện pháp luật.
1.4.4. Đảm bảo về nguồn nhân lực
Như đã trình bày ở trên, khai thác khoáng sản là một hoạt động bao gồm
nhiều cơng việc rất phức tạp. Vì vậy việc quản lý nhà nước cũng như thực hiện
pháp luật đối với khai thác khoáng sản cũng bao gồm rất nhiều nội dung. Đó là
bảo vệ khống sản chưa khai thác, bảo đảm an tồn lao động, giữ gìn mơi trường,
cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác, bảo đảm an ninh trật tự khu vực…Vì vậy,
đội ngũ nhân sự thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này cần phải có trình độ
chun mơn sâu, hiểu được cặn kẽ những u cầu của cơng tác khống sản.

7


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Tình hình tự nhiên, kinh tế xã hội, dân cư và khoáng sản ở tỉnh
Quảng Ninh
Quảng Ninh nằm ở phía Đơng Bắc của tổ quốc, cách Hà Nội khoảng
150km. Quảng Ninh là tỉnh địa đầu của Tổ quốc, nằm trong vùng phát triển
kinh tế trọng điểm của miền đơng bắc nói riêng và của cả nước nói chung.
Quảng Ninh với vị trí địa lý - kinh tế - xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng
khơng chỉ với Việt Nam mà cịn đối với cả vùng Đông Nam Á. Với một tỉnh
như Quảng Ninh hội tụ đầy đủ yếu tố thiên thời địa lợi sẽ giúp cho tỉnh phát

triển nhanh, mạnh trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế.
Nhắc đến Quảng Ninh chắc chắn chúng ta nghĩ ngay đến “vựa” khai thác
than lớn của đất nước. Mà nhắc đến than có lẽ chúng ta cũng nghĩ ngay đến tỉnh
Quảng Ninh. Quảng Ninh có đặc điểm là có nguồn tài ngun khống sản
phong phú, nhiều loại đặc thù, trữ lượng lớn, chất lượng cao như: than, cát thủy
tinh, đá vôi, cao lanh tấn mài, đất sét,… Với trữ lượng lưu trữ là 3,6 tỷ tấn than,
tập trung tại các khu vực: Hạ Long, Cẩm Phả và ng Bí - Đơng Triều được
cổng thông tin điện tử của tỉnh công bố, đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh có trữ
lượng than lớn nhất cả nước, cùng với đó là cơng suất khai thác than lớn nhất cả
nước với sản lượng khoảng 30-40 triệu tấn mỗi năm. Khơng chỉ có than, những
khống sản q giá khác như các mỏ đá vôi, đất sét, cao lanh… ở đây cũng có
trữ lượng tương đối lớn, phân bố rộng khắp trong tỉnh. Là một tỉnh có nguồn tài
nguyên khống sản, về trữ lượng than trên tồn Việt Nam thì riêng Quảng Ninh
đã chiếm tới 95%, đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nguyên liệu sản xuất vật
liệu xây dựng, cung cấp vật tư, nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong nước
và xuất khẩu, đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP
của tỉnh. Quảng Ninh còn là trung tâm nhiệt điện của cả nước với sản lượng
nhiệt điện chiếm 15% và xi măng chiếm 14% của cả nước. Hoành Bồ, Cẩm Phả
là những địa danh nổi tiếng với mỏ đá vôi; mỏ cao lanh ở các huyện miền núi
Hải Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên n, mỏ đất sét ở Đơng Triều, Hồnh Bồ và
thành phố Hạ Long... Những địa phương này góp phần quan trọng trong việc
cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng để sản xuất vật liệu xây dựng cung cấp
cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Quảng Ninh không chỉ nổi tiếng với
khống sản mà cịn có tiềm năng du dịch lớn cùng vị trí chiến lược đã giúp
Quảng Ninh trở thành vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam.
8


Hoạt động khai thác khoáng sản của tỉnh khá mạnh mẽ; các sở Tài
nguyên và Môi trường, Xây dựng, Công thương đã thực sự đóng vai trị quan

trọng trong việc điều tra, đánh giá, thăm dò, khai thác, sử dụng và quản lý tài
nguyên khoáng sản. Việc khai thác với sản lượng mỗi ngày một tăng dần các
loại khoáng sản đã mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho tỉnh; song cũng ảnh
hưởng khơng nhỏ đến mơi trường. Có nhiều dạng tai biến địa chất tiềm ẩn, có
khả năng gây ảnh hưởng đến đời sống dân sinh và môi trường sinh thái.
2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
- Cơ quan nhà nước:
UBND tỉnh Quảng Ninh;
UBND các huyện, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Ninh;
UBND các xã, phường, thị trấn.
- Các đơn vị, tổ chức, cá nhân
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
2.3.1. Thực hiện xây dựng, ban hành văn bản nhằm triển khai thực
hiện pháp luật về khai thác khoáng sản tại Quảng Ninh
Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã nhận thức rõ ràng về yêu cầu
thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản, tạo động lực phát triển kinh tế xã
hội trong thời đại mới. Đảng bộ và chính quyền tỉnh đã nghiêm túc xây dựng và
ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai thực hiện pháp luật về khai thác
khoáng sản.
Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày
12/01/2014 về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý,
khai thác, vận chuyển, chế biến, kinh doanh than trên địa bàn tỉnh.
Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 12, Ban chấp hành Đảng bộ
tỉnh Quảng Ninh tiếp tục ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 09/5/2019 về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý tài nguyên than,
khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
Các sở ban ngành, UBND các địa phương và các đơn vị hoạt động
khoáng sản đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện nghiêm Nghị quyết,
làm tốt công tác quản lý, kiểm tra các hoạt động khai thác, vận chuyển, tiêu thụ

tài ngun than, khống sản, kiện tồn tổ chức các lực lượng chức năng để xử
lý các vi phạm. Cấp ủy các địa phương đã vào cuộc tích cực, 100% các cấp ủy
địa phương đã quản triệt, triển khai Nghị quyết và các văn bản chỉ đạo liên quan
đên lĩnh vực quản lý tài nguyên, khoáng sản.
Những văn bản được ban hành có thể kể tới như:
9


Văn bản số 4684/UBND-CN ngày 04/8/2016 về tăng cường công tác
quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản trên địa bản tỉnh;
Quyết định 3865/QĐ-UBND của UBND Tỉnh v/v Ban hành phương án
bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Công văn số 3898/UBND-CN ngày 07/6/2018 về việc quản lý sản lượng
khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Quyết định số 18/2019/QĐ-UBND ngày 11/4/2019 của UBND Tỉnh về
việc quy đổi từ khoáng sản thành phẩm ra số lượng khống sản ngun khai.
2.3.2. Thực tiễn cơng tác tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về
khai thác khoáng sản tại Quảng Ninh
Ngay sau khi Nghị quyết 12 được ban hành, UBND Tỉnh đã thường xuyên
chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp cùng các doanh nghiệp khai thác khống
sản nói chung và ngành than nói riêng đây mạnh đấu tranh xử lý vi phạm, tăng
cường quản lý tài nguyên, tuyến vận tải, tiêu thụ; thường xun nắm bắt tình
hình, đảm bảo chế độ thơng tin, báo cáo; phân định rõ trách nhiệm của tập thể, cá
nhân trong công tác bảo vệ tài nguyên, ranh giới mỏ, sản phẩm than; quán triệt
đến cấp xã, phường, tổ dân, khu phố và nhân dân nội dung của Nghị quyết, chỉ
đạo của UBND tỉnh. Đã tích cực kiến nghị, đề xuất đề Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 26/8/2015 “về tăng cường công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than trên địa bàn”; Quyết định số
403/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 điều chỉnh Quy hoạch phát triển Ngành than. Nét
nổi bật là tính kiên quyết, sâu sát, kịp thời, xử lý tốt các vấn đề nổi lên trong quản

lý theo đúng chủ trương chỉ đạo chung của tỉnh, điển hình tại Thơng báo kết luận
số 278/TB-UBND ngày 03/12/2016, Công văn số 3196/UBND-CN ngày
28/5/2018... Thực hiện và duy trì chế độ giao ban thường kỳ của Tỉnh với ngành
than để chủ động nắm bắt tình hình và kịp thời xử lý, tháo gỡ các khó khăn
vướng mắc. Chỉ đạo thanh tra, rà sốt các sắp xếp các cảng bến thủy nội địa liên
quan tới than, khoáng sản và tuyến đường vận chuyên than trên địa bản tỉnh; các
chỉ đạo liên quan đến xử lý các sai phạm trong hoạt động tại một số dự án phát
triển kinh tế xã hội liên quan đến khống sản (tại Hồnh Bồ, Đơng Triều, Hạ
Long), các tồn tại khu vực Cụm cảng Km6, Cụm cảng Khe Dây... Thực hiện quy
chế phối hợp giữa 05 tỉnh, thành phố Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Giang, Hải
Dương, Lạng Sơn và ngành than trong công tác quản lý, trao đổi thông tin để
kểm tra, xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm.
Đối với Ủy ban nhân dân các địa phương, các sở ban ngành và các các
đơn vị hoạt động khoáng sản đã chủ động tổ chức quán triệt, triển khai các nội
dung bằng các hình thức phù hợp như thông qua hội nghị, các buổi sinh hoạt chi
bộ, các tin, bài, phóng sự tuyên truyền, tổ chức quán triệt sâu rộng đến cán bộ,
10


đảng viên và các tầng lớp nhân dân các nội dung của Nghị quyết tạo sự đồng
thuận cao và chuyển biến về nhận thức đối với công tác quản lý, khai thác, vận
chuyển, chế biến và kinh doanh than trên địa bàn; coi trọng hơn nữa việc tiếp
nhận quản lý, xử lý, bảo mật thơng tin; có cơ chế động viên, bảo vệ người tham
gia tố giác vi phạm. Hàng năm xây dựng kế hoạch và phát động phong trào
quần chúng tham gia công tác quản lý tài nguyên chưa khai thác và bảo vệ môi
trường thông qua các ngày lễ, tuần lễ về môi trường trong năm.
2.3.3. Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khai thác
khống sản tại Quảng Ninh
Cơng tác tun truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về khai thác khoáng
sản được các cấp Đảng ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

hết sức coi trọng. Bên cạnh các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
khai thác khoáng sản thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo in,
đài tuyền hình, đài phát thanh…, tỉnh Quảng Ninh đã phát huy sức mạnh các tổ
chức chính trị xã hội và cả của nhân dân toàn tỉnh. Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể quần chúng các cấp đã thường xuyên phối hợp với các cấp chính quyền chỉ
đạo đoàn viên, hội viên cùng với nhân dân trên địa bản triển khai thực hiện các
văn bản chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBND tỉnh; tuyên truyền giải thích người dân
không tham gia hoạt động vận chuyển, khai thác than, khống sản trái phép.
Vận động đồn viên, hội viên và nhân dân tham gia phát hiện, ngăn chặn các
hoạt động liên quan đến khai thác, vận chuyến, kinh doanh than trái phép;
không tiếp tay cho các đối tượng vi phạm pháp luật; tố giác hành vi khai thác
khoáng sản trái pháp luật; tuyên truyền bằng nhiều hình thức như loa đài, tại các
cuộc họp thôn, khu... mang lại hiệu quả thiết thực.
2.3.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật về
khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Về kết quả công tác đấu tranh, xử lý những vi phạm liên quan đến than
trong 05 năm từ 2014 đến 2018: có 2.610 trường hợp vi phạm, xử phạt vi
phạm hành chính việc khai thác, vận chuyển, chế biến kinh doanh than trái
phép; cụ thể:
Về khai thác than: Có 395 vụ khai thác than trái phép; triệt phá 177 cửa lò
trái phép, 191 lượt đào bới thăm dò than trái phép do người dân địa phương đào
bới, 01 khu vực tái đào bới; tịch thu 2.416,56 tấn than, cùng nhiều lán trại, công
cụ khai thác than trái phép; xử phạt tổng số 11.580,5 triệu đồng, trong đó:
Năm 2014: Có 61 vụ vi phạm, xử phạt vi phạm hành chính 24 triệu đồng: Năm
2015: Có 119 vụ vi phạm, xử phạt 8.156,5 triệu đồng, Năm 2016: Có 17 vụ vi
phạm, xử phạt 3.439 triệu đồng; Năm 2017: Có 06 vụ vi phạm và năm 2018 có
118 vi phạm;
11



Riêng lực lượng Công an Tỉnh trong 05 năm từ 2014 đến 2018 đã tổ chức
triệt phá 386 lượt điểm lò, khu vực đào bới, khai thác than trái phép; phá dỡ
1763 lán trại; cắt 40 tuyến đường mở trái phép, san lấp 23 điểm đường cùng
nhiều công cụ, phương tiện phục vụ khai thác than trái phép; buộc về nơi cư trú
trên 1.000 đối tượng. Công an các đơn vị, địa phương trong 05 năm đã phát
hiện, bắt giữ 39 vụ, trong đó đã khởi tố 4 vụ 46 bị can về tội vi phạm các quy
định về khai thác tài nguyên, xử phạt vi phạm hành chính 30 vụ, với tổng số
tiền 8.114.000.000 đồng.
Đặc biệt, trong năm 2019, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã
ban hành nghị quyết số 16-NQ/TU về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác quản lý tài nguyên than, khoáng sản trên địa bàn tỉnh. Sau khi
ban hành và tổ chức triển khai thực hiện, đã đạt được những kết quả bước đầu
khả quan khi các vi phạm pháp luật về khai thác khoáng sản trong năm 2019 đã
giảm hẳn so với các năm trước. Nhờ những giải pháp quyết liệt trên, tính đến
hết tháng 12/2019, Cơng an các đơn vị, địa phương đã tiến hành kiểm tra hành
chính 869 lượt phương tiện thủy, hơn 1.000 lượt phương tiện đường bộ. Qua đó
đã phát hiện, xử lý 247 vụ, 261 đối tượng khai thác, tập kết, vận chuyển than
trái phép; thu giữ trên 26.500 tấn than các loại và khống sản ngồi than; ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính 259 đối tượng, phạt trên 4,5 tỷ đồng;
bán phát mại thu nộp nhà nước khoảng 4,2 tỷ đồng. Trong công tác đấu tranh,
xử lý vi phạm liên quan tới cát, đá, sỏi, Công an tỉnh cũng đã phát hiện, bắt giữ
101 vụ và 131 đối tượng khai thác, tập kết, vận chuyển kinh doanh cát, đá, sỏi
trái phép; thu giữ gần 22.000m3 cát; khởi tố 1 vụ, 1 bị can. Trong công tác đấu
tranh, xử lý vi phạm liên quan tới san lấp, các lực lượng cũng đã phát hiện, xử
lý 28 vụ, 38 đối tượng, 1 tổ chức khai thác vận chuyển đất trái phép, xử phạt vi
phạm hành chính 38 đối tượng với trên 209 triệu đồng.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Kết quả đạt được
Trong 6 năm từ 2014-2019, Đảng bộ, chính quyền các cấp tại tỉnh Quảng
Ninh đã nghiêm túc thực hiện, nghiêm túc triển khai các quy định của pháp luật

về khai thác khoáng sản. Các văn bản được xây dựng, ban hành kịp thời, cụ thể
được quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, đáp
ứng cơ bản hoạt động thực hiện pháp luật đối với khai thác khoáng sản, kịp thời
xử lý những vấn đề liên quan. Công tác tuyên truyền, giáo dục được chú trọng,
thể hiện ở nhiều hình thức, đi vào đời sống hàng ngày. Đặc biệt, tỉnh đã kiên
quyết xử lý những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, xử
phạt theo đúng quy định của pháp luật.
12


Việc thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản được chính quyền các
cấp quán triệt và thực hiện một cách nghiêm túc. Các quy định của pháp luật
được thực hiện minh bạch, kịp thời. Bằng nỗ lực của các cấp chính quyền trên
địa bàn Tỉnh, pháp luật về khai thác khoáng sản được thực hiện một cách
nghiêm minh, khách quan. Các hành vi vi phạm pháp luật về khai thác khoáng
sản đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo ngày càng sâu sát, quyết liệt, thống nhất,
xuyên suốt; công tác chỉ đạo, triển khai thực hiện của các cấp ủy, chính quyền,
đồn thể được coi trọng, rõ trách nhiệm. Nhờ đó, cơng tác thực hiện pháp luật
và hoạt động sản xuất kinh doanh khoáng sản trên địa bàn thời gian qua cơ bản
được giữ vững; trật tự kỷ cương được duy trì. Đặc biệt các vi phạm liên quan
đến than trái phép có xu hướng giảm dần trong năm 2019 so với bình quân
chung giai đoạn từ 2014-2018. Tình hình vận chuyển, kinh doanh than đã được
kiểm soát. Hệ thống cảng, bến được cơ cấu lại, không để xảy ra vi phạm phổ
biến về luồng vận tải than. Hoạt động khai thác, vận chuyển, kinh doanh than
được xử lý kịp thời, khơng có vi phạm đáng kể; khơng phát sinh các dự án kinh
tế xã hội trá hình để khai thác than, khống sản…
Tình trạng cấp phép tràn lan đã cơ bản được khắc phục; Ngành cơng
nghiệp khai thác, khống sản đã chuyển dần từ phát triển theo bề rộng sang phát
triển theo chiều sâu; Các quy định của pháp luật về khai thác khoáng sản đã dần

đi vào thực tế đời sống xã hội.
Quá trình thanh tra, kiểm tra đã lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến
chính sách pháp luật về đất đai, mơi trường, khống sản, tài ngun nước đến
các đơn vị được thanh tra, kiểm tra; qua đó góp phần nâng cao ý thức chấp hành
của tổ chức, phát hiện xử lý các hành vi vi phạm, đảm bảo tính răn đe, tăng
cường cơng tác quản lý các hoạt động khống sản trên địa bàn.
Từ đó, ngành khai thác khống sản đã góp phần quan trọng vào việc phát
triển kinh tế xã hội của địa phương, môi trường tiếp tục được giữ gìn, bảo vệ.
Ý thức người dân ngày càng được nâng cao, hoạt động khai thác khống
sản trái pháp luật ngày càng hạn chế, cơng tác tuyên truyền đã đạt được hiệu
quả, khi mà người dân ngày càng tích cực trong việc chung tay cùng với cơ
quan nhà nước trong việc phát hiện, tố giác, đấu tranh chống các hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế
- Kết quả trong cơng tác phịng chống khai thác, vận chuyển, kinh doanh
than trái phép còn tiềm ẩn nguy cơ diễn biến phức tạp. Vi phạm về than có xu
hướng diễn biến mới, cơ bản khơng cịn đào bới khai thác trái phép mà chuyển
13


sang lợi dụng pháp nhân của một số doanh nghiệp, đơn vị có chức năng để hợp
pháp hóa nguồn than trái phép, việc đấu tranh phát hiện, xử lý còn hạn chế.
- Cơng tác kiểm sốt, quản lý than đầu nguồn trong ngành than cịn có
lúc, có nơi chưa chặt chẽ, tạo nguồn than trơi nổi, gây phức tạp tình hình. Một
số nguồn than chất lượng thấp, xít than, đất đá lẫn than từ các dự án khai thác
chưa được ngành than chú trọng, quan tâm, lập phương án xử lý theo hướng chế
biến thành các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường để giải quyết vấn đề
môi trường và tiết kiệm tài nguyên; đề xuất cơ chế, chính sách với các cơ quan
có thẩm quyền để giữ chân và thu hút người lao động làm việc cho ngành than
(theo chỉ đạo của Bộ Công Thương tại Kết luận số 376/TB-BCT ngày

30/11/2017). Đối với nguồn đất đá lẫn than phát sinh từ các dự án đầu tư xây
dựng cơng trình (Như dự án đường vận chuyền vật liệu xây dựng lên chùa Hồ
Thiên, dự án Nhà máy rác thải xã Tràng Lương ở Đơng Triều) cịn chậm được
giải tỏa, gây khó khăn trong cơng tác quản lý, ảnh hưởng đến môi trường, an
ninh trật tự trên địa bàn. Việc quản lý, chống thất thốt trong ngành than cịn sơ
hở chưa được khắc phục triệt để; một số vi phạm liên quan đến Công ty
Vietmindo mặc dù được UBND tỉnh chỉ đạo nhiều lần nhưng chưa khắc phục
dứt điểm.
- Công tác quản lý tài nguyên trong ranh giới khai trường khai thác, ranh
giới tài nguyên của các đơn vị ngành than đã được chú trọng, kiểm soát; tuy
nhiên việc phối hợp, trao đổi thơng tin, tình hình giữa cấp ủy, chính quyền địa
phương, các cơ quan chức năng và các đơn vị thành viên TKV, Tổng Công ty
Đông Bắc với Cơng an cấp huyện. Hiện nay chỉ cịn một số tuyến vận chuyển
than tiêu thụ cho các đơn vị trong vùng Cảm Phả ra cảng Hóa chất Mơng
Dương, cảng Khe Dây qua điểm giao cắt Quốc lộ 18, Km6 (Đông Bắc), Cảng
Hồng Thái Tây... Một số đơn vị kinh khai thác, doanh than có chở than tiêu thụ
cho khách hàng nhỏ lẻ (vị trí khơng thể cung cấp được bằng phương tiện vận tải
thủy) đi qua một số đoạn đường quốc lộ. Việc vận chuyển bằng ô tô trên các
tuyến đường Quốc lộ, Tỉnh lộ (thuộc địa bàn Quảng Ninh) đã được TKV chấm
dứt từ ngày 01/01/2017 theo đúng chỉ đạo của tỉnh đơn vị, địa phương trong
quản lý tài nguyên, quản lý hoạt động khai thác, vận chuyển tập kết, tiêu thụ
than còn chưa chặt chẽ; việc xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân người đứng đầu
có liên quan chưa quyết liệt nên ở một số nơi vẫn cịn xảy ra tình trạng tái khơi
phục lại một số điểm khai thác cũ để hoạt động khai thác than trái phép;
- Công tác phối hợp chưa phát huy được hiệu quả rõ nét, một số quy chế
phối hợp kết hợp theo Chỉ thị số 21/2015/CT-TTg thực hiện còn hình thức; việc
phối hợp với các tỉnh bạn chưa có nhiều kết quả cụ thể, có biểu hiện hình thức,
14



các tỉnh giáp ranh tuy có sự quan tâm nhưng chưa có sự chuyển biến rõ rệt; việc
tổ chức sơ kết, đánh giá định kỳ các quy chế phối hợp chưa được thường xuyên.
- Hoạt động tập kết, kinh doanh than trái phép đến nay đã được ngăn
chặn, tuy nhiên tổng hợp trong những năm qua cho thấy vẫn còn một số doanh
nghiệp, đơn vị, cá nhân thực hiện chưa nghiêm túc cam kết với UBND Tỉnh về
việc vận chuyển than trên tuyến quốc lộ gây mất trật tự an tồn giao thơng, ơ
nhiễm mơi trường khiến cộng đồng dân cư có động thái phản ứng. Cơng tác
phối hợp giữa các lực lượng chức năng Quảng Ninh với các địa phương giáp
ranh để ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến than tuy đã được
quan tâm nhưng chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Trên địa bàn thành phố Hải
Dương, Hải Phịng tình trạng lập bến bãi để tập kết, chế biến, kinh doanh than
trái phép vẫn diễn biến phức tạp. Vẫn còn hiện tượng các phương tiện vận
chuyển than trái phép lưu thông trên đường bộ...
Đối với hoạt động khoáng sản làm vật liệu xây dựng: Công tác quản lý tài
nguyên đất, đá, cát, sỏi, sét ở một số địa phương có thời điểm cịn chưa chặt
chẽ, cịn để hiện tượng khai thác khơng theo nội dung giấy phép khai thác, chưa
tuân thủ quy hoạch, thiết kế được duyệt. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm cơng
tác quản lý đất đai, tài ngun khống sản ở một số địa phương chưa đáp ứng
yêu cầu. Việc xử lý tình trạng khai thác khống sản trái phép của UBND địa
phương có lúc, có nơi chưa kịp thời và nghiêm túc; Chưa thực hiện hết chức
năng quản lý nhà nước, việc kiểm tra, xử lý chưa thực hiện hết theo thẩm
quyền. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, chấp hành pháp luật về đất
đai, bảo vệ và phát triển rừng, luật khống sản, luật bảo vệ mơi trường tới người
dân địa phương còn hạn chế. Trong khai thác khống sản, cịn hiện tượng gây
lãng phí tài ngun, ảnh hưởng xấu đến môi trường. Do quy hoạch cảng/ bến
tiêu thụ theo Quyết định 1268/QĐ-UBND được rà soát, xây dựng cho giai đoạn
năm 2015-2020, phê duyệt từ năm 2015 nhưng đến năm 2016 điều chỉnh Quy
hoạch phát triển ngành than Việt Nam (Quyết định số403/QĐ-TTg ngày 14/
03/2016) mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; theo đó hiện nay một số
cảng/ bến, luồng tuyến khơng cịn phù hợp với tình hình, dẫn đến tình trạng mất

cân đối trong phương tiện tiêu thụ than của Ngành than. (Ví dụ: Theo Quy
hoạch 1268, Cảng Khe Dây đã được đầu tư cơ bản, công suất lớn, giai đoạn đến
năm 2018 là 5 triệu tấn/năm; sau năm 2018 là 7 triệu tấn/năm nhưng thực tế
trong 2 năm của Tổng công ty Đông Bắc chỉ tiêu thụ than qua cảng chưa đến 1
triệu tấn/năm); Trong khi đó, việc tiêu thụ than sản xuất tại khu vực Hồnh Bồ,
Hạ Long của Tổng cơng ty Đơng Bắc lại thiếu cảng/ bến để giải quyết việc tiêu
thụ than của đơn vị...). Một số điểm khai thác được điều chỉnh, bổ sung về sản
lượng khai thác, mở rộng ranh giới, kéo dài thời gian khai thác, đóng cửa mỏ...
15


(theo Quyết định 1265/QĐ-TTg 2017 điêu chỉnh Quy hoạch phát triển ngành
than Việt Nam 2020 2030, điều chỉnh Quy hoạch 403) cịn chưa được phù hợp
về quy mơ sản lượng trong quy hoạch cảng, bến (UBND Tỉnh đã chỉ đạo Sở
Giao thông - Vận tải phối hợp với các Sở, ngành, địa phương rà soát, tham mưu
UBND Tỉnh điều chỉnh lại toàn bộ hệ thống các cảng, bến bãi chứa, xuất than
trên địa bàn tỉnh; quản lý hệ thống cảng bến theo đúng quy hoạch). Như tuyến
từ khai trường công ty Pt Vietmindo đi kho Khe Thân và đi cảng Điền Cơng
(ng Bí), tuyến từ khai trường dự án đường vận chuyển vật liệu xây dựng lên
chùa Hồ Thiên đi cảng của Công ty Thắng Lợi tại Kim Sơn (Đông Triều).
Về trách nhiệm của các đơn vị quản lý: Việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm
và xử lý trách nhiệm đối với những tồn tại của một số địa phương, đơn vị, vi
phạm đã được quan tâm thực hiện, tuy nhiên hầu hết là chưa kiên quyết đúng
người, đúng sự việc. Các địa phương có hoạt động sản xuất than, khống sản có
lúc có nơi cịn chưa làm hết trách nhiệm; khơng duy trì sự tập trung và tính
quyết liệt cần thiết.
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
- Địa bàn rộng, hiểm trở; việc chồng lấn ranh giới, xen kẽ khai trường với
khu dân cư do lịch sử để lại; chi phí, phương tiện cịn hạn chế cho các hoạt
động kiểm sốt, xử lý, triệt xóa các điểm vi phạm; nhiều khai trường khai thác ở

vùng đồi núi, gây khó khăn cho công tác thực hiện pháp luật.
- Về mặt pháp lý, chế tài xử lý vừa nhẹ vừa thiếu. Khung hình phạt cho
các tội phạm về khống sản khơng cao, thiếu tính răn đe cần thiết, chi tiết chưa
được hướng dân chính thức mà chủ yếu do vận dụng của cơ quan chức năng.
- Công tác phối hợp, các địa phương giáp ranh với tỉnh Quảng Ninh (như
Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, Lạng Sơn) trong việc phối hợp kiểm soát
hoạt động chế biến, kinh doanh than, khoáng sản trái phép chưa đạt được
chuyển biến đột phá;
- Công tác quản lý, thu hồi tối đa than từ nguồn sản phẩm ngồi than, đá
xít than, đất đá lẫn than cịn chưa được ngành than chú trọng quan tâm, nghiên
cứu phương án xử lý; chưa được Bộ Công Thương, Bộ tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn, chỉ đạo quản lý, sử dụng (UBND Tỉnh đã có văn bản báo
cáo, xin ý kiến nhưng chưa có phúc đáp từ các Bộ) dẫn đến khó khăn trong
cơng tác kiểm sốt, quản lý;
- Cơng tác kiểm tra, phát hiện sai phạm tại một số dự án nạo vét luồng
đường thuỷ nội địa, vùng nước cảng, bến cảng nội địa kết hợp tận thu sản phẩm
cịn nhiều khó khăn; các đối tượng đã lợi dụng thực hiện dự án, địa bàn sông
nước để hoạt động khoáng sản trái phép;
16


- Đối với vật liệu xây dựng, do nhu cầu thực tế, các nhà thầu tìm cách
mua vật liệu trơi nổi bên ngồi, nhằm giảm bớt thủ tục hành chính và giá rẻ, từ
đó làm gia tăng các hoạt động khai thác đất san nền và cát trái phép trên địa bàn
tỉnh. Riêng đối với vật liệu san lấp, nhu cầu cho các dự án lớn trên địa bàn tăng
đột biến trong khi quy hoạch, phương thức quản lý chưa được triển khai đồng
bộ, cùng với yêu cầu hoàn thành các dự án quyết liệt dẫn đến việc khai thác,
vận chuyển vật liệu xây dựng thời gian đầu khó kiểm sốt.
- Về chủ quan, một số cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ sở, các lực
lượng chức năng và một số đơn vị ngành than chưa làm hết trách nhiệm; có nơi

có lúc khơng duy trì sự tập trung và tính quyết liệt cần thiết.
- Trước yêu cầu phát triển lực lượng làm công tác thực hiện pháp luật về
tài nguyên khoáng sản trên địa bàn cần tiếp tục được kiện toàn, bổ sung về số
lượng và thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ chun mơn, bản lĩnh chính
trị. Với thực trạng đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
khoáng sản tại địa phương cịn thiếu, chưa có bộ phận chun trách tại các địa
phương cấp huyện, xã nên công tác thực hiện pháp luật về khống sản cịn gặp
một số khó khăn nhất định. Cơng tác nắm bắt địa bàn, kiểm sốt hoạt động
khống sản tại một vài địa phương cịn chưa tốt. Việc xử lý tình trạng khai thác
khống sản trái phép của UBND cấp địa phương có lúc, có nơi chưa kịp thời và
nghiêm túc; Chưa thực hiện hết chức năng, việc kiểm tra, xử lý chưa thực hiện
hết theo thẩm quyền. Công tác tuyên truyền giáo dục tới người dân địa phương
chấp hành pháp luật về đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, luật khống sản, luật
bảo vệ mơi trường cịn hạn chế. Trong khai thác khống sản, cịn hiện tượng
gây lãng phí tài nguyên, ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Việc chậm giải quyết các hồ sơ cấp phép, gia hạn, đóng cửa mỏ than của
cơ quan chức năng, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã dẫn đến tình trạng các đơn
vị chưa có đủ thủ tục vẫn tiếp tục hoạt động gây khó khăn cho cơng tác quản lý;
- Hiện nay trên địa bàn Tỉnh có các điểm lộ vỉa khoáng sản, nhất là than
nằm xen kẽ trong vườn, rừng và nhà ở của nhân dân trong ranh giới các dự án
phát triển kinh tế - xã hội thuận tiện cho việc khai thác trái phép; việc quản lý
các điểm than này rất khó khăn, UBND Tỉnh đã kiến nghị Bộ Tài nguyên và
Môi trường công bố các điểm lộ vỉa nêu trên là khu vực có phân tán nhỏ lẻ để
Tỉnh có cơ chế cho khai thác dứt điểm. Tuy nhiên, đến nay, Bộ Tài nguyên và
Mơi trường chưa có ý kiến về nội dung này.
- Than là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, tuy nhiên quy định về điều
kiện kinh doanh than theo Điều 4 - Thông tư 14/2013/TT-BCT của Bộ Công
Thương đã hết hiệu lực (bị bãi bỏ bởi Thông tư số 27/2016/TT-BCT ngày
17



05/12/2016) nhưng chưa có quy định mới nên chưa có công cụ để quản lý
triệt để;
- Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là một công việc hết sức phức
tạp, mang tính nhạy cảm cao, động chạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân.
Do đó, trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác lãnh đạo,
chỉ đạo cũng như việc tổ chức cải tiến phương pháp làm việc song không tránh
khỏi những tồn tại nhất định, chưa thực sự giải quyết kịp những vấn đề mới
phát sinh. Nhiều dự án chậm triển khai do giải phóng mặt bằng và bố trí các
khu tái định cư chậm, những vướng mắc mang tính hệ thống vẫn chưa được
tháo gỡ cơ bản là do:
+ Cơ chế chính sách về đất đai, quy hoạch, bồi thường giải phóng mặt
bằng khơng ổn định, thường xun thay đối, nhiều nội dung quy định cịn bất
cập, khó áp dụng vào thực tế. Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về đất đai,
khống sản và chế độ chính sách giải phóng mặt bằng chưa được thường xuyên,
nhận thức của một số hộ dân còn hạn chế.
+ Đa số các hộ dân đều có ý thức chấp hành pháp luật tốt, song bên cạnh
đó một bộ phận ý thức chưa tốt, cố tình khơng bàn giao mặt bằng, tái lấn chiếm
đất đai, dựng lều trại để cản trở quá trình thi cơng, gây áp lực với chính quyền
địa phương và chủ đầu tư để địi thêm tiền đền bù, ngồi ra cịn có sự tiếp tay,
kích động của một số phần tử xấu gây nhiều khó khăn cho việc bồi thường giải
phóng mặt bằng.
- Chế tài xử lý vừa nhẹ vừa thiếu. Khung hình phạt cho các tội phạm về
than, khống sản khơng cao, thiếu tính răn đe cần thiết.

18


Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
Ở TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng
Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, hoàn thiện quy hoạch
và tăng cường quản lý, giám sát, sử dụng hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm các nguồn
tài nguyên. Khai thác, sử dụng khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, hạn chế
tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô. Thực hiện việc đấu thầu quyền khai thác, hoạt
động khai thác khoáng sản. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch
và quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất. Khai thác và sử dụng bền vững nguồn
nước; chủ động hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng nguồn nước xuyên
quốc gia.
3.1.2. Quan điểm của tỉnh Quảng Ninh
Trên cơ sở những quan điểm, định hướng của Đảng, Đảng bộ và chính
quyền các cấp tỉnh Quảng Ninh đã tiếp thu, vận dụng để biến thành những quan
điểm, nhiệm vụ chỉ đạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, phát
huy thế mạnh của tỉnh và linh hoạt trong từng thời kỳ phát triển.
Trên cơ sở điều kiện phát triển của địa phương, hướng tới việc xây dựng
phát triển kinh tế xã hội của địa phương, Nghị quyết 16-NQ/TU ngày 9/5/2019
của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã xác định:
Tài nguyên khoáng sản là tài sản quốc gia, là nguồn lực cho phát triển;
công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên, khống sản là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị.
Tỉnh Quảng Ninh tiếp tục đồng hành cùng với ngành than trong thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh của tỉnh, đảm bảo an ninh năng
lượng quốc gia theo đúng quy hoạch và quy định của pháp luật.
Lấy hiệu quả thực chất, bền vững của công tác đấu tranh ngăn chặn tình
trạng vi phạm chính sách, pháp luật về than, khoáng sản làm thước đo việc thực
hiện Nghị quyết của các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc, các tổ

chức chính trị - xã hội. Tập trung phòng ngừa gắn với nâng cao hiệu quả đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, vi phạm, tội phạm trong
hoạt động khống sản.
Có cơ chế trách nhiệm rõ ràng, xác định trách nhiệm từ cấp ủy đến cá
nhân các cấp ủy viên, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, trưởng cơng an địa
19


phương, đơn vị chức năng, đơn vị tham mưu; khi để xảy ra yếu kém, vi phạm
đều phải trực tiếp hoặc liên đới chịu trách nhiệm. Nâng cao trách nhiệm trực
tiếp của đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý của các sở, ban, ngành, địa phương
và các đơn vị thuộc Tập đồn Cơng nghiệp Than - Khống sản Việt Nam và
Tổng Công ty Đông Bắc.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy (trong đó có kiểm tra
các cấp), chính quyền, cơ quan chức năng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội; kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý đối với các tập thể, cá
nhân vi phạm, bao gồm cả trách nhiệm do không phát hiện được vi phạm trong
phạm vi nhiệm vụ, thẩm quyền được giao.
Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về than, khoáng sản, nhất là về quy
hoạch, cấp phép, quản lý dự án. Giữ nghiêm trật tự, kỷ cương, tiếp tục kiểm
soát, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng khai thác, vận chuyển, chế biến, kinh doanh
trái phép than và các khoáng sản khác. Cơ bản khắc phục các hạn chế, yếu kém
để tiếp tục quản lý, khai thác, bảo vệ tốt tài nguyên than, khoáng sản gắn với
tăng trưởng bền vững, bảo vệ môi trường tự nhiên, góp phần củng cố niềm tin
của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chính quyền.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.2.1.Nhóm giải pháp về thể chế.
Đầu tiên, để có thể đảm bảo thực hiện pháp luật về khai thác khống sản
thì bản thân của các văn bản pháp luật về khai thác khoáng sản cũng phải đảm

bảo yêu cầu. Đó là việc đáp ứng được tính hợp pháp và tính hợp lý.
Tính hợp pháp của văn bản pháp luật, biểu hiện ở việc văn bản được xây
dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền đã được quy định. Văn
bản của cơ quan nhà nước cấp dưới phải phù hợp, không được trái với những
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Tính hợp lý của văn bản pháp luật biểu hiện ở việc bảo đảm sự hài hịa
của lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. Tức là phải tránh vì lợi
ích của thiểu số mà gây tổn hại cho lợi ích chung của tồn xã hội nhưng bên
cạnh đó cũng phải bảo vệ lợi ích của thiểu số trước lợi ích của số đơng.
Tính hợp lý của văn bản còn phải được thể hiện ở việc giải quyết được
những yêu cầu quản lý của nhà nước, giải quyết được các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực khoáng sản và giải quyết được yêu cầu của thực tiễn.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật phải được ban hành một cách kịp
thời. Trong điều kiện hội nhập như hiện nay, nền kinh thế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vận động và phát triển không ngừng, những cơ hội và
thách thức luôn xuất hiện một cách nhanh chóng. Văn bản pháp luật cần phải
20


được ban hành một cách kịp thời, để có thể chớp được những thời cơ thuận lợi,
tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội.
Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật cần phải tập trung vào:
- Ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Luật
khống sản.
- Cụ thể hóa và ban hành chính sách hướng dẫn thi hành Nghị định, quyết
định….
- Nghiên cứu ban hành hình thức cam kết bảo vệ mơi trường đối với tổ
chức thực hiện hoạt động khai thác khống sản với những nội dung đơn giản,
gọn nhẹ, khơng tạo áp lực quá lớn cho địa phương, doanh nghiệp nhưng phải áp
đặt được trách nhiệm cho họ trong việc bảo vệ môi trường.

- Xây dựng, hướng dẫn các thông số môi trường trong hoạt động sản xuất,
(vd như: mức độ tiếng ồn đối với khu vực lân cận, khu vực tiếp giáp khu dân
cư, phần trăm độ bụi trong khơng khí, v.v…).
- Xây dựng các chế tài cụ thể xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp
luật trong hoạt động khai thác (Vd: khai thác khoáng sản trái phép hoặc không
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường địa phương khi đang thực hiện hoạt động
khai thác khống sản…).
- Xây dựng bộ tiêu chuẩn an tồn lao động bắt buộc đối với lao động
trong hoạt động khai thác khống sản để đảm bảo an tồn tính mạng, sức khỏe
của người lao động.
3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.2.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy thực hiện pháp luật về khai thác
khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Trong việc thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản, việc hịa thiện tổ
chức bộ máy đóng vai trị vô cùng quan trọng. Đây là những cơ quan trực tiếp
thực hiện những quy định của pháp luật về khai thác khoáng sản và đảm bảo đối
tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật phải chấp hành những quy định ấy. Vì
vậy, tổ chức bộ máy khoa học, phân cơng rõ ràng nhiệm vụ của từng cơ quan,
cá nhân, không để xảy ra tình trạng chồng chéo chức năng nhiệm vụ sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện pháp luật được hiệu quả.
Để hoạt động thực hiện pháp luật có hiệu quả thì bên cạnh tổ chức bộ
máy khoa học thì đội ngũ thực thi, chính sách pháp luật đóng một vai trị khơng
hề nhỏ.
UBND tỉnh cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường
xuyên hơn nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên mơn nghiệp vụ, và cả trình
độ ngoại ngữ và tin học. Xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng hợp lý đáp ứng
21



yêu cầu thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật đối với
khai thác khoáng sản nói riêng và thực hiện pháp luật nói chung.
Hoạt động tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức vào các vị trí việc
làm phải được thực hiện nghiêm túc theo quy định nhằm tuyển chọn được
những người đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu khách quan của công việc;
Khai thác khoáng sản là một hoạt động mang lại nguồn lợi kinh tế lớn, vì
vậy, người thực hiện pháp luật cần phải hội tụ cả chuyên môn lẫn đạo đức. Bên
cạnh đó, phải thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức để đội ngũ cán bộ
công chức giữ vững lập trường cách mạng trong sáng, tư tưởng, đạo đức vững
vàng, chống lại mọi sự lôi kéo, dụ dỗ về mặt vật chất.
3.2.2.2. Nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật về khai thác
khoáng sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Sau khi đã hoàn thiện việc xây dựng các văn bản pháp luật và tổ chức bộ
máy nhà nước khoa học thì việc đảm bảo nghiêm túc thực hiện các quy định
pháp luật về khai thác khoáng sản là yêu cầu kiên quyết. Bởi đây là hoạt động
đưa các quy định của pháp luật vào thực tiễn của đời sống xã hội. Nếu thực hiện
không tốt nội dung này thì các quy định của pháp luật sẽ chỉ nằm trên giấy tờ.
Nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật vừa là giải pháp, vừa là yêu
cầu bắt buộc.
Cần phải tăng cường sự giám sát của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội,
HĐND, sự giám sát của người dân đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Trong
những năm qua, Đảng bộ, HĐND các cấp trên địa bàn tỉnh đã thực hiện chức
năng giám sát một cách nghiêm túc, kịp thời đối với hoạt động thực hiện pháp
luật nói chung và thực hiện pháp luật về khai thác khống sản nói riêng của
chính quyền các cấp.
Phải đảm bảo quán triệt tinh thần thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật về khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Các cơ quan, cá nhân
có trách nhiệm phải thực hiện pháp luật về khai thác khoáng sản một cách
khách quan, minh bạch, kịp thời. Việc thực hiện các quy định của pháp luật một
cách khách quan, minh bạch thể hiện ở việc đảm bảo làm đúng trách nhiệm,

thẩm quyền của mình khi thực hiện pháp luật, thi hành công vụ. Tránh việc đùn
đẩy, chối bỏ trách nhiệm. Một yếu tố vô cùng quan trọng tiếp theo là phải đảm
bảo tính kịp thời. Khai thác khống sản là một lĩnh vực có ảnh hưởng đến nhiều
mặt của đời sống xã hội như mơi trường, an tồn lao động, sức khỏe người
dân… vì vậy cần phải nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật và khi
có sự cố phải lập tức khắc phục, tránh gây ra những hậu quả đáng tiếc.

22


3.2.2.3. Tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho các chủ thể trong
khai thác khoáng sản
Phương pháp giáo dục là cách thức tác động vào nhận thức của con
người, nhằm nâng cao tính tự giác chấp hành trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như Đài phát thanh và
truyền hình Tỉnh, báo chí v.v... , hệ thống đài truyền thanh thành phố, huyện, thị
xã, các phường, xã lồng ghép với quan điểm của Đảng, Nhà nước và của tỉnh,
đối với pháp luật liên quan đến khoáng sản. Cập nhật tình hình thời sự thường
xuyên trên các kênh này, để người dân kịp thời nắm bắt được tin tức, cùng với
Nhà nước, tham gia vào việc thực hiện pháp luật đối với hoạt động khai thác
khoáng sản, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, bảo vệ môi trường, đấu tranh tố
giác vi phạm pháp luật.
Thông qua các hội chợ và triển lãm và các trang thông tin điện tử của
UBND tỉnh tuyên truyền tới người dân để người dân hiểu và cùng với Nhà nước
việc bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản,
bảo vệ môi trường
3.2.2.4. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi nghiêm những
vi phạm pháp luật về khai thác khoáng sản
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là trách nhiệm chung của các cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan tổ chức và của mọi công dân, nhưng
trách nhiệm trực tiếp là của các cơ quan dân cử, các cơ quan kiểm tra, thanh tra
nhà nước, thanh tra nhân dân.
Trong những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác
khống sản được tiến hành một cách có hiệu quả, phát hiện nhiều vụ việc vi
phạm pháp luật khoáng sản, góp phần vào thực hiện tốt cơng tác quản lý nhà
nước. Việc ngày càng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả cơng tác thanh tra, kiểm tra
hoạt động khai thác khống sản không chỉ giúp phát hiện ra những vi phạm
pháp luật để kịp thời xử lý, mà cịn mang tính chất răn đe cao, khiến cho các đối
tượng không dám có những hành vi trái pháp luật.
Chú trong việc đầu tư về thiết bị, kinh phí trong cơng tác thanh tra, kiểm
tra hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh, nhất là đối với các mỏ nằm
ở vùng sâu, vùng xa
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chấp hành pháp luật phải đặc biệt
coi trọng việc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với những
hành vi vi phạm pháp luật; việc kiểm tra, giám sát phải được thực hiện một cách
khách quan, minh bạch.
23


×