Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

SKKN day hs gioi hieu qua 0910

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.94 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

SỞ GIÁO DỤC VAØ ĐAØO TẠO ĐỒNG NAI
<b>Đơn vị : Trường THPT Phú Ngọc</b>


<b> Mã số : ……..</b>


<b>MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG</b>


<b>HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ</b>



Người thực hiện : Phạm Quang Đức
Lĩnh vực nghiên cứu :


Quản lý giáo dục :


Phương pháp dạy học bộ môn :
Phương pháp giáo dục :


Lĩnh vực khác :………


Có đính kèm :


Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC</b>


<b>I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN :</b>


1. Họ và tên : PHẠM QUANG ĐỨC
2. Ngày tháng năm sinh : 26/6/1968
3. Nam, nữ : Nam


4. Địa chỉ : Trường THPT Phú Ngọc, Định Quán, Đồng Nai .
5. Điện thoại : ( CQ ) : 0613853361 ( NR ) : 0613632649


6. Fax : Email :


7. Chức vụ : Tổ trưởng


8. Đơn vị công tác : Trường THPT Phú Ngọc
<b>II.TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO :</b>


- Học vị ( hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ ) cao nhất : Cử nhân .
- Năm nhận bằng : 1991


- Chuyên ngành đào tạo : Đại học sư phạm Văn
<b>III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC :</b>


- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm : Giảng dạy
- Số năm kinh nghiệm : 11


- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 05 năm gần đây :


+ Phương pháp khắc sâu kiến thức cho học sinh trong bài ôn tập văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.


+ Một vài suy nghĩ về kinh nghiệm tạo hứng thú và sức thuyết phục học
sinh trong giờ dạy giảng văn – đọc văn .


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:</b>


Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là
đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu
quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai của đất
nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc


đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có được
học sinh giỏi thì ngịai năng lực, tố chất của học sinh cịn cần có công lao bồi dưỡng
của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn đứng lớp
giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm
học tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi mơn học trong nhà trường việc học và dạy
đều có đặc thù riêng của nó. Mơn văn cũng khơng nằm ngịai lệ đó. Phương pháp
dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào
cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở của
mỗi giáo viên dạy mơn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng
cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang lại hiệu quả được.
Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cịn có u cầu cao hơn rất nhiều .
Cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự
cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi
dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất
trong khỏang thời gian hơn 2 tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy hết
năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong mấy giờ ấn định ? Làm thế nàơ
để công lao vất vả của thầy và trị khơng bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm
vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó
ln thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua.


Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tịi, trao đổi, thảo luận
với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục
cùng với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy
nghĩ của mình. Bởi cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng
trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của
mình. Bản thân tơi cũng đã lắng nghe ,suy gẫm và trao đổi với một số thầy cô về
công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến
của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng
nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tơi mạnh dạn


trình bày ý kiến về chun đề của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng
nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm
của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA</b>
<b>CHUYÊN ĐỀ:</b>


<i><b>1. Thuận lợi:</b></i>


- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:


+ Là tổ trưởng và giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên
cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy gẫm về
chun mơn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi.


+ Bản thân chịu khó tìm tịi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn
học, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với
các đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh
khác.v.v... có ghi chép, tích lũy,cập nhật thường xun.


+ Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngòai trường
để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi
dưỡng.


- Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc
đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.


<i><b>2. Khó khăn:</b></i>



- Trường ở địa bàn miền núi xa xôi, tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện
cịn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu
một cách thoải mái, dễ dàng.


- Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học
sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác.
Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ mơn có ý thức coi nhẹ mơn văn, có học sinh
khơng được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn anh văn mới chịu vào đội
tuyển văn.


<i><b>3. Số liệu thống kê:</b></i>


Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh
giỏi qua một số năm học như sau:


Từ 1999 – 2000 đội tuyển là 5 em nhưng không đạt một giải nào.
Từ 2000 – 2001 đội tuyển 6 em thì có một em đạt giải khuyến khích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI:</b>
<i><b>1. Cơ sở lý luận:</b></i>


Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao,
khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc
biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả năng tư duy và
nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên
phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp ,thậm chí
phải có q trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và
thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu
của ban giám hiệu ,lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi


dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trao dồi rất nhiều cùng
với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của cơng
việc.Bỡi vì đặc thù của học sinh giỏi là có những điểm rất khác so với một học sinh
bình thường từ kiến thức, tư duy cho đến việc cảm nhận tác phẩm,kĩ năng viết
v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó khi thực hiện nhiệm vụ này để làm sao đạt kết
quả tốt .Với bề dày thời gian công tác giảng dạy và qua một số năm bồi dưỡng học
sinh giỏi lớp 12 tơi nhận thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là làm sao trong
vài tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Từ các đồng nghiệp
và qua trao đổi một số trường, tôi cũng lắng nghe được ý kiến này, ý kiến khác song
chưa thấy có chuyên đề cụ thể nào trình bày về cơng tác bồi dưõng học sinh giỏi,
hoặc có trình bày ở những chun đề có sự liên quan nhưng chưa được phân tích
đúng mức. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của
mình với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia xẻ học tập lẫn nhau để
cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm .


<i><b>2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của chuyên đề:</b></i>


Biết rằng kiến thức, phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vơ cùng
phong phú , khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu
văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ chuyên đề này
người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy và rút ra được qua
thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi. Nội dung của chuyên đề cụ thể như sau:


- Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách
và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.


- Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải
có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng.
Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học
sinh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo
viên bồi dưỡng.


- Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để
giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng.


- Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tịan
quốc qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu
đề ra, định hướng ,lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận.


- Ra đề và làm trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn
định. Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh. Chữa
lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy những
mặt tốt và khắc phục được những điểm còn hạn chế.


<i>a. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách</i>
<i>và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồnkhác.</i>


Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn
hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội
tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho học sinh
các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc một số sách
cần thiết mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp. Đối với
một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu rộng thì các
em mới chủ động ,mạnh dạn và phóng túng trong làm bài. Kiến thức mỏng và
nghèo nàn thì khơng thể tránh khỏi những lúng túng,ngập ngượng trong bài viết.
Các sách này có thể là các tác phẩm văn học của các tác giả lớn mà các em đã được
học chính khóa nhưng cần phải đọc nhiều ,biết rộng hơn rất nhiều so với nộ dung
học ở sách giáo khoa. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh giỏi văn


khơng chỉ biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am
hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám và cả sau
cách mạng tháng tám. Ngòai việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học học sinh còn
cần phải đọc các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự có điều
kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ mới với các bài
thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy
Cận, Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mạc Tử giáo viên không thể không hướng dẫn học
sinh đọc thêm các tập thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ Lửa
Thiêng của Huy Cận,các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi nhân Việt
Nam của Hòai Thanh – Hòai Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc
đáo, súc tích. Và cịn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả nổi
tiếng khác về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc. Nói tóm lại khơng đọc
hay đọc ít là một hạn chế rất lớn khơng tránh khỏi đối với một học sinh giỏi. Đọc
nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những học sinh có ít
nhiều năng khiếu văn chương .


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc nhắc nhở,
kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong q trình làm
bài. Nếu học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên bồi dưỡng phải
kiên quyết yêu cầu học sinh đọc.Và giáo viên phải có cách kiểm tra để bắt buộc học
sinh đọc và thấy được ích lợi của việc đọc . Vì kiến thức văn học phong phú, vững
vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh viết một bài văn tốt.


<i>b. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải</i>
<i>có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng.</i>
<i>Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học</i>
<i>sinh.</i>


Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là
học sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về văn học hiện đại ,trung đại ở khối 11


và kể cả khối 10 .Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới, các tác giả như
là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản là cái gốc cần thiết
tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên cứu những kiến thức có bề
rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng không
thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại những kiến thức căn bản đã học những
năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này khơng khó đối với một
học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm việc ở nhà thì giáo viên
phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có ý thức học
tập tốt chưa ? đã thực hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình dặn dị chưa ?
nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, cịn có những lỗ hổng kiến thức thì giáo viên
phải đơn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc.


<i>c. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào</i>
<i>một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn,</i>
<i>nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay</i>
<i>của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà</i>
<i>giáo viên bồi dưỡng.</i>


Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ
trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc
của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn
học, hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả được góp nhặt,
sưu tầm gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này giáo viên có
thể yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại nhiều lần vàghi
nhớ. Những tư liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đơi khi các em có những ý
tưởng, suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách sắc nét, khúc chiết để
tạo ấn tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư liệu văn học như những câu
thơ hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời nhận định đánh giá hợp lý, đúng
chỗ này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi sắc và giàu sức thuyết phục.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nghệ sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh sưu tầm và
chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được những lời nhận
định có ý nghĩa và giá trị nhất. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số lời
nhận định sau:


- “ Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”
(Tố Hữu)
- “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học”
( Tố Hữu)
- “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”
( PusKin)
- “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”


( Biêlinxki)


Và các tuyên ngơn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của Nam
Cao trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như:


- “ Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.
Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thóat ra từ những kiếp sống lầm
than vang dội lên mạnh mẽ”


( Trăng sáng - Nam Cao)


- “ Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tơi và các nhà văn cùng
chí hướng với tơi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời”


( Vũ Trọng Phụng)


- “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.


Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời sống con
người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hịan thiện”


( Nguyễn Minh Châu)
- “ Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm
thấy trong những ấn tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng
đó có được hình thức riêng”


( Mácximgorki)
Và những câu thơ chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:


- “ Nhà thơ như con ong kết trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành, vạn chuyến ong bay”


( Chế Lan Viên)
- “ Bài thơ anh, anh làm một nửa


Còn một nửa để mùa thu tự làm lấy”


( Chế Lan Viên)


“Khi tình cảm tự tìm cho nó hình thức thể hiện ra bên ngịai chúng ta có thơ”.
(RabinthatTago)


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ
những nội dung ý nghĩa của vấn đề.


Những bài làm của học sinh giỏi muốn đạt giải cao thì bài viết phải có nhiều
u cầu khác nhau nhưng nhìn chung phải có phong cách, nét độc đáo và tạo được
ấn tượng riêng, thể hiện được những điều mà học sinh bình thường khơng thể có


được. Vì vậy những lời nhận định đánh giá hay những câu thơ, đọan thơ hay sẽ là
những dẫn chứng lý lẽ thuyết phục như một nốt nhấn, cũng có thể nó là một lời chốt
lại vấn đề hoặc đó là lời dẫn nhập giới thiệu vấn đề tạo khơng khí sinh động hấp dẫn
hơn là cách giới thiệu hay một lời kết bình thường khơng ấn tượng gì mà thường
thấy ở học sinh trung bình và yếu. Ví dụ trong chương trình trước đây khi bồi
dưỡng học sinh giỏi 12 về chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học sinh
sẽ được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù nào là một tâm hồn lớn, một
trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v... qua một số bài thơ đã học ở sách giáo khoa và
một số bài thơ khác trong tuyển tập được giáo viên chọn lọc giới thiệu để học sinh
tiếp cận. Nhưng những câu thơ có ý nghĩa khái quát, giàu hình ảnh và ý nghĩa tư
tưởng mà giáo viên có thể cung cấp, giảng bình để học sinh cảm nhận sâu sắc thêm
về Bác - người tù vĩ đại qua tập thơ để có thể vận dụng vào bài làm. Chẳng hạn
những câu thơ sau:


- “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ Bác viết, vần thơ thép
Mà vẫn mêng mơng bát ngát tình”


( Hịang Trung Thơng)
- “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác


Mười bốn trăng tê tái gơng cùm
Ơi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”


( Tố Hữu)


Những nốt nhấn của những ý thơ như vậy là rất cần thiết cho phong cách
trong bài làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng dễ kém phần tươi mát và


cũng dễ trở nên khô khan hoặc đơn điệu nhàm chán trong cách diễn đạt đều đều,
buồn tẻ của học sinh trong biểu đạt suy nghĩ của mình. Đó chỉ là đơn cử một vài ví
dụ, cịn lại là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng
dẫn học sinh phải có ý thức học tập vận dụng để mang lại một hiệu quả chất lượng,
sinh động cho bài viết.


<i>d. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi</i>
<i>để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và</i>
<i>rộng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

đề ra trong kỳ thi học sinh giỏi vòng 1 của tỉnh Đồng Nai năm học 2008 – 2009
phần nghị luận văn học với đề ra :


“ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”.


Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm
liền trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh ở Đồng Nai và ở các tỉnh khác cũng
như thi học sinh giỏi tòan quốc bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi vậy xác
định nội dung ôn tập cho học sinh cũng là điều rất khó khăn của người tham gia bồi
dưỡng. Điều lo ngại nhất là sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học sinh lại không
đúng với đề ra. Tuy vậy mỗi giáo viên bồi dưỡng đều phải có định hướng về kiến
thức gắn với những chuyên đề ôn tập cụ thể để giúp học sinh ơn tập có hiệu quả.
Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ của từng giáo viên. Có giáo viên chọn và xóay sâu
vào chuyên đề này mà khai thác chưa kỹ ở chuyên đề khác, hoặc cho rằng những
chuyên đề kia là không quan trọng nên không nhắc nhở học sinh chú ý. Tuy nhiên
theo tôi dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng phải chọn ra một số chuyên đề mà
mình cho là quan trọng nhất có thể quy tụ những nội dung kiến thức lớn và bao quát
để học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm bồi dưỡng trong những năm qua theo tôi thấy là
như vậy và đã áp dụng vào trong thực tế bồi dưỡng. Cụ thể là một số chuyên đề mà


tơi đã hướng dẫn học sinh trong q trình học tập như sau:


Ví dụ như chuyên đề về Nam Cao và những sáng tác của Nam Cao. Điều đầu
tiên như đã nói ở phần trên là học sinh phải đọc rộng, nắm bắt những kiến thức về
tác phẩm của Nam Cao, hiểu và cảm nhận về nó cùng với việc đọc những tài liệu
nghiên cứu phê bình về Nam Cao đó là bước thứ nhất. Sau đó giáo viên định hướng
cho học sinh về hai mảng sáng tác lớn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám đó
là đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nơng dân gắn với những tác phẩm cụ
thể. Người trí thức thì sống mịn mỏi, tha hóa về nhân cách, người nơng dân thì
sống nghèo khổ, lầm than và sa vào bần cùng hóa, lưu manh hóa. Trên cơ sở những
nội dung đó giáo viên có thể giúp học sinh khai thác phân tích những hình tượng
nhân vật trong các truyện ngắn của Nam Cao để học sinh hiểu và nắm bắt kỹ nội
dung của vấn đề. Hoặc giáo viên cũng có thể cho học sinh tiếp xúc với những đề ra
gắn với Nam Cao để học sinh vừa có điều kiện hiểu đề, phân tích đề và đi vào nắm
bắt những kiến thức về sáng tác của Nam Cao ứng với một đề văn cụ thể. Chẳng
hạn như giáo viên có thể dùng một số đề ra của những năm trước về Nam Cao để
kích thích học sinh làm việc một cách tịan diện. Ví dụ như đề văn sau:


Viết về Nam Cao, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hòang Khung viết:


“ Một điểm đặc sắc của ngòi bút Nam Cao là từ những sự việc rất tầm
thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày đã đặt ra những vấn đề xã hội có ý
nghĩa to lớn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Hay một đề văn khác xóay sâu vào nội dung ý nghĩa của tác phẩm Chí Phèo
của Nam Cao:


“ Bình luận về nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nhà văn Nam
Cao, có nhà phê bình cho rằng: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng
sủa nhất của làng Vũ Đại”.Ý kiến của anh chị như thế nào ? Từ truyện ngắn này của


Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến của mình.


Với các đề ra như vậy hướng vào chuyên đề sẽ kích thích học sinh làm việc
và tư duy một cách tòan diện và đặc biệt là động não rất nhiều vào các tác phẩm của
Nam Cao. Đó cũng là cách củng cố, khắc sâu kiến thức về chuyên đề quan trọng mà
giáo viên có ý định hướng cho học sinh học tập.


Hay một chuyên đề khác không thể bỏ qua trong quá trình bồi dưỡng học
sinh giỏi lớp 12 đó là chun đề về thơ mới. Với chuyên đề này giáo viên yêu cầu
học sinh đọc trước các tác giả, tác phẩm thơ mới và đặc biệt chú ý các tác giả lón
như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư. Sau
đó giáo viên có thể từng bước đi vào định hướng cho học sinh tìm hiểu các khía
cạnh quan trọng của thơ mới như cái tơi cá nhân, cái buồn vạn thuở, tình u đôi lứa
say đắm mãnh liệt, cuống quýt vội vàng, nghệ thuật dùng từ, viết câu, âm điệu trong
thơ mới .v.v... Những nội dung đó được giáo viên phân tích khai thác qua một số tác
phẩm thơ đã được học trong nhà trường phổ thông và những tác phẩm học sinh
chưa được học. Cũng tương tự như chuyên đề về Nam Cao giáo viên có thể chọn
lọc một số đề về Xuân Diệu – tác giả lớn nhất trong thơ mới và các tác giả khác để
học sinh tìm hiểu và có điều kiện thâm nhập sâu vào sáng tác của tác giả. Giáo viên
có thể gợi một số đề sau:


Ngay từ năm 1941 tác giả thi nhân Việt Nam đã đánh giá: “ Xuân Diệu mới
nhất trong các nhà thơ mới”. Ý kiến của anh (chị) về nhận định trên. Phân tích một
số đọan thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám để làm rõ ý kiến của anh
(chị).


Hay cũng một đề khác về Xuân Diệu: “ Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian
mới trở thành nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc,là thi hứng
mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói Xn Diệu nhìn đời
bằng con mắt của thời gian. Chất Xuân Diệu phong cách thơ ơng là ở đó” ( Đỗ Lai


Thúy - Con mắt thơ, nhà xuất bản giáo dục 1997)


Anh ( chị) hãy làm rõ ý kiến trên qua việc phân tích một số bài thơ của Xuân
Diệu trước cách mạng tháng tám.


Hay một đề nữa về sáng tác của Xuân Diệu:


“ Xuân Diệu cung cấp nhiều vật liệu mới để xây dựng nên nền thơ ca Việt
Nam”


Anh (chị) hãy phân tích ba bài thơ: Thơ Duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng để
làm sáng tỏ nhận định trên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Hãy phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Tràng Giang của Huy
Cận.


Nêu những đề như vậy sẽ giúp học sinh định hướng, phân tích đề, đặc biệt là
tìm ý, lập dàn ý cho một đề ra. Như thế là học sinh đã đi vào tìm hiểu khai thác có
chiều sâu sáng tác của tác giả Xuân Diệu và các tác giả khác. Trên cơ sở nắm bắt và
hiểu của học sinh giáo viên sẽ đi vào giảng giải, phân tích những điểm nội dung mà
học sinh không hiểu hoặc hiểu chưa sâu sắc đúng mức. Làm như vậy sẽ giúp các em
thâm nhập, nắm bắt và củng cố kiến thức một cách tự nhiên thỏai mái và rất có hiệu
quả.


Một chuyên đề nữa mà người viết muốn nói ở đây đó là chun đề Nhật ký
trong tù theo chương trình cũ trước đây. Với nội dung chuyên đề này giáo viên đề
nghị học sinh phải đọc qua tập Nhật ký trong tù với một trăm mấy chục bài thơ và
xác định nội dung chính, trọng tâm trong tác phẩm. Với sự hiểu, tìm tịi và phát hiện
của học sinh, giáo viên có thể chốt lại những nội dung trọng tâm và yêu cầu học
sinh lưu ý như sau:



Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn, tình cảm lớn, một trí tuệ lớn, một
nhân cách lớn, một phương pháp sáng tác mới .v.v...Cụ thể hóa những nội dung này
giáo viên có thể cho học sinh chọn một số những bài thơ tiêu biểu, cảm nhận và
phân tích. Giáo viên trên cơ sở đó phân tích bổ sung để học sinh hiểu và hướng vào
những nội dung trọng tâm mà giáo viên đã định hướng.


Ví dụ như các bài thơ: Chiều tối, Giải đi sớm, Mới ra tù tập leo núi là những
bài thơ được học ở sách giáo khoa chứa đựng một nội dung sâu sắc, giàu ý nghĩa
làm nội bật được chân dung của một người tù vĩ đại. Giáo viên cần giảng bình kỹ và
sâu cùng chọn lọc với một số bài thơ khác như Vãn Cảnh, Ngắm Trăng, Lai Tân,
Không ngủ được để minh họa thêm cho học sinh và yêu cầu học sinh học thuộc và
hiểu một số bài thơ quan trọng khác trong tập thơ. Ngòai ra giáo viên còn gợi mở
cho học sinh một số đề làm văn xoay quanh tác phẩm Nhật ký trong tù để học sinh
rèn luyện và khắc sâu kiến thức.


Cịn rất nhiều những chun đề khác mà khơng thể nói hết ở đây. Chẳng hạn
như chuyên đề về lý luận văn học cũng có thể chia thành nhiều chuyên đề nhỏ mà
giáo viên cần có phương pháp phù hợp giúp các em học tập. Chỉ đơn cử một vài ví
dụ như vậy. Các chuyên đề khác cách thức tiến hành có thể có nhiều điểm là tương
tự như các chuyên đề trên.


<i>e. Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tòan</i>
<i>quốc qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu</i>
<i>đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

đến việc lạc đề, viết tản mạn, lan man không hướng vào yêu cầu của đề ra. Đây là
vấn đề thường thấy trong việc làm văn của học sinh nói chung và của học sinh giỏi
nói riêng.



Vậy để rèn luyện cho học sinh giỏi trong công tác bồi dưỡng về kỹ năng này,
giáo viên có thể chọn một số đề thi học sinh giỏi trước đây để giúp học sinh luyện
tập. Ví dụ đây là một đề về lý luận văn học:


“ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn học”
Anh ( chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên.


Đứng trước một đề ra như vậy, giáo viên cho học sinh khỏang 30 phút để tìm
ý, lập dàn ý. Sau đó giáo viên u cầu vài em trong đội tuyển trình bày cách hiểu đề
và dàn ý của mình, rồi từ đó u cầu các em cịn lại có ý kiến bổ sung, cuối cùng
giáo viên khẳng định những ý đúng và cần thiết đối với yâu cầu đề trên và có thể
định hướng cho các em một dàn ý sơ lược.


- Giải thích từ ngữ, khái niệm: Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến
của văn học.


+ “Cuộc đời”: Là hiện thực cuộc sống, xã hội, con người.
“Nơi xuất phát”: Nguồn gốc của văn học.


Như vậy hiện thực cuộc sống là mảnh đất màu mỡ cung cấp đề tài, cảm hứng
cho nhà văn.


Chứng minh các điều đó qua một số ý kiến của những nhà thơ, nhà văn lớn
như Nguyễn Du: “Tôi học ở những người hái dâu, chăn tằm, trồng gai, dệt vải
”( Thôn ca sơ học ma tang ngữ). Cịn GorKi thì nói: “ Trong lĩnh vực sáng tạo thi ca
khơng có nhà thơ nào lớn hơn nghệ sĩ dân gian”, “ Ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói
ngun liệu cịn ngơn ngữ văn học được bàn tay người thợ nhào luyện”.


+ Cuộc đời là đích đến của văn học:



Văn học bắt nguồn từ cuộc sống nhưng cũng phải quay lại phục vụ cuộc
sống, phục vụ con người. Văn học sẽ khơng là gì nếu nó khơng vì con người mà có
-> Văn học phải vì nhân sinh. Cái đích cuối cùng của văn học là làm cho cuộc sống
đẹp hơn, và văn học phải đấu tranh vì cuộc sống.


- Giải thích tại sao ?


+ Văn học do con người sinh ra, vì con người phục vụ. Con người luôn sống
trong hiện thực cuộc sống sinh động, phong phú với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống.


+ Văn học phải có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống. Muốn phản ánh được cuộc
sống thì nhà văn khơng thể thóat ly mà phải đi vào cuộc sống để khám phá, tìm tịi,
sáng tạo. Phản ánh chân thực cuộc sống thì nhà văn mới sáng tạo được những tác
phẩm là tấm gương phản chiếu cuộc đời.( Thơ trước hết là đời sau đó mới là nghệ
thuật)


- Bình luận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

+ Phê phán khuynh hướng văn học thóat ly hiện thực, xa rời hiện thực, nghệ
thuật vị nghệ thuật, thứ văn chương làm xiết ngôn từ, chỉ chú trọng về câu chữ
không phục vụ nhân sinh, dẫn con người vào bế tắc.


- Chứng minh:


+ Nguyễn Trãi nếu không có những năm tháng sống ở “ Góc thành nam lều
một gian” và 10 năm cùng Lê Lợi nếm mật nằm gai ở rừng núi Lam Sơn trong
những ngày gian khổ chống qn Minh thì khơng thể có án thiên cổ hùng văn Bình
ngơ đại cáo.


+ Nguyễn Du nếu khơng có 15 năm gió bụi cùng với những câu ca dao ni


dưỡng tâm hồn từ thuở thiếu thời thì khơng thể có một truyện Kiều tuyệt tác.


+ Các nhà văn, nhà thơ hiện đại Việt Nam đều chủ trương: sống đã rồi hãy
viết hoặc sống và viết ( Nam Cao, Nguyễn Tuân, Hồ Chí Minh). Nhà văn phải sống
với nhân dân, lấy cảm hứng cho đời từ nhân dân. Điều đó đã chứng minh qua thực
tế văn học là các nhà văn hiện đại Việt Nam đã một thời cùng nhân dân đi vào thực
tiễn cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ và xây dựng đất nước.


Lập một dàn ý như thế là tập cho học sinh có ý thức khi tiếp cận và phân tích
một đề ra. Từ việc hiểu nội dung ý nghĩa yêu cầu của đề, đến các thao tác lập luận
cần sử dụng cho từng đề văn, các ý cần phải có trong từng trường hợp đề bài cụ thể.
Từ đó học sinh có thể linh họat sáng tạo áp dụng khi tiếp xúc với một đề văn cụ thể
nào đó. Lấy ví dụ về một đề văn khác:


“ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.
Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của những chặng đời sống
con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện” ( Nguyễn Minh
Châu)


Anh ( chị ) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên.


Cũng từ sự làm việc của học sinh, giáo viên trên cơ sở đó bổ sung và định
hướng cho học sinh về hướng xác định yêu cầu, nội dung của đề ra.


* Về u cầu đề: thao tác giải thích + bình luận là chính.
Những ý chính cần xác định là:


- Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là cuộc sống
con người có nghĩa là như thế nào ?



+ Có nghĩa là văn học và cuộc sống không tách rời nhau mà xuất phát từ một
tâm điểm.


+ Văn học và cuộc sống là hai vịng trịn đồng tâm nhưng khơng trùng nhau
về đường nét -> có thể nói văn học là vịng trịn nhỏ hơn nằm trong lòng cuộc sống (
Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi) -> Cuộc sống cung cấp
nguồn nhựa sống cho văn học, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

cuộc sống -> nên con người là trung tâm của tác phẩm văn học trên những trang
thơ, truyện ngắn, kịch hay là những tác phẩm đồ sộ, những tiểu thuyết.


+ Dùng những dẫn chứng văn học để chứng minh văn học xuất phát từ cuộc
sống và tâm điểm của văn học là con người ( qua một số những tác phẩm truyện,
tiểu thuyết, kịch trong văn học Việt Nam và văn học nước ngoài để làm sáng tỏ các
luận điểm đó.


- Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời
sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hòan thiện nghĩa là như
thế nào ?


+ Hầu hết những nhà văn trên thế giới đều khai thác một mảng nhỏ của đời
sống.( Nam Cao với cái đói, cái rét và sự bần cùng hóa, lưu manh hóa của người
nơng dân)


+ Có những nhà văn cá biệt -> ngịi bút của họ có thể phản ảnh cuộc sống với
tầm vóc sâu rộng của nó trên trang viết ( Ban zăc với bộ tấn trò đời, Lỗ Tấn với AQ
chính truyện, VichtohuyGo với Những người khốn khổ). Còn lại đa số là các tác
phẩm là những lát cắt từ hai vòng tròn đồng tâm khổng lồ là văn học và đời sống.


+ Tất cả những “lát cắt” của văn học ấy cuối cùng đều dẫn đến người ta đến


cõi hòan thiện -> như vậy tác phẩm văn học mới thật sự là chân chính , nó sẽ tồn tại
qua thời gian ( chức năng giáo dục của văn học). Con người sẽ soi lại mình qua tác
phẩm văn học, nhận ra lẽ đúng sai, thật giả và sẽ sống tốt hơn. Văn học sẽ đưa con
người đến chân, thiện, mỹ.


+ Dùng một số tác phẩm văn học để chứng minh “ Văn học chân chính có
khả năng nhân đạo hóa con người” chẳng hạn như Truyện Kiều, các truyện ngắn
của Nam Cao, truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân, Vợ chồng A Phủ của Tơ Hịai
,văn học nước ngồi .v.v... Phân tích ý nghĩa nhân đạo của các tác phẩm trên có thể
tác động vào tình cảm, đạo đức của con người <sub></sub>là hành trình đi tìm cõi hòan thiện
của con người .


Trong những năm gần đây đề thi học sinh giỏi tỉnh có thêm một câu nghị
luận xã hội. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng cũng cần phải chọn lọc những đề nghị luận
xã hội hay và có ý nghĩa sâu sắc để giúp học sinh học tập. Ví dụ như đề sau:


Thơng qua đọan trích trong tác phẩm “ Mẹ yêu con” trong tập (Trái tim người
mẹ - NXB trẻ). Anh ( chị ) suy nghĩ gì về tình mẫu tử trên cõi đời này:


“ Mẹ u con nên mẹ nói khơng trước những địi hỏi vơ lý của con, dù mẹ
biết con sẽ ghét mẹ về điều này. Đó là cuộc đấu tranh gian khổ nhất trong chặng
đường làm mẹ của mẹ. Nhưng mẹ hạnh phúc khi thấy con thành đạt trong cuộc
sống”


Hay một đề khác về nghị luận xã hội:
“ Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”


( Nguyễn Duy)



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Những đề văn như vậy giáo viên yêu cầu học sinh tự tìm ý ,lập ý cùng với sự
định hướng của giáo viên sẽ kích thích các em động não,tư duy để hiểu ý nghĩa nội
dung u cầu đề ,có cách trình bày ý và các thao tác lập luận sao cho đầy đủ và
thuyết phục nhất.


Đề ra để học sinh luyện tập rất nhiều nhưng khuôn khổ ở chuyên đề này
không cho phép người viết trình bày dài. Chỉ đơn cử vài ví dụ làm minh họa. Hướng
dẫn và định hướng cho học sinh theo những cách thức như trên sẽ có ý nghĩa góp
phần khơi gợi, tạo khả năng chủ động cho các em biết tư duy, phân tích, xác định đề
và tìm ý một cách nhanh chóng khi đứng trước một đề văn. Các em sẽ biết cách đi
đúng hướng, chặt chẽ, khai thác khá đầy đủ các ý lớn , nhỏ cần thiết khi làm bài và
vận dụng hợp lý các thao tác lập luận trong một bài văn nghị luận.


<i>g. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời</i>
<i>gian ấn định. Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh.</i>
<i>Chữa lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy</i>
<i>những mặt tốt và khắc phục được những điểm cịn hạn chế.</i>


Giáo viên có thể dành một số buổi học ra đề bài để các em trong đội tuyển
làm từ 150-180 phút.


Đây là cơ sở để giáo viên nắm bắt khả năng của học sinh trên nhiều phương
diện, từ cách hiểu đề, xác định yêu cầu của đề ra, tìm ý và lập ý đến cách hành văn
trong một bài làm cụ thể. Năng lực viết và cảm thụ văn học của học sinh cũng bộc
lộ rõ từ đây. Kết quả cuối cùng trong một quá trình học tập vất vả, gian khổ được
thể hiện tất cả trên mấy trang viết qua ba tiếng đồng hồ. Vì thế từ những bài làm đó
giáo viên sẽ chấm và chữa lỗi thật kỹ, nhận xét thật đầy đủ và thấu đáo bài làm của
học sinh từ góc độ về ý có đầy đủ, phong phú hay nghèo nàn hoặc thiếu ý. Từ cách
diễn đạt của học sinh cũng được thể hiện rõ ràng như viết câu, dùng từ, có trong
sáng gãy gọn chưa? Văn viết có trong sáng hình ảnh và cảm xúc chưa ? đến cách


trình bày, chữ viết có đúng và đạt u cầu thẩm mỹ khơng ? đến lỗi chính tả cũng
phải rất hạn chế trong bài làm. Thói quen viết tắt và viết chưa đúng qui tắc của tiếng
việt là điều rất nhỏ mà giáo viên đọc bài cũng phải hết sức lưu tâm và nhắc nhở học
sinh. Giáo viên phải nhận xét cụ thể từ ưu điểm đến khuyết điểm của mỗi bài làm
của các em để các em phát huy những mặt mạnh và khắc phục những điểm hạn chế
trong tòan bộ bài viết của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

trọng, nếu viết hay, viết chắc và viết cịn chậm cũng sẽ khơng đáp ứng tốt được yêu
cầu của một bài thi học sinh giỏi với một nội dung yêu cầu rất lớn trong khuôn khổ
thời gian nhất định. Cho nên việc rèn luyện cho các em viết bài làm văn ở trường và
cả ở nhà trong công việc bồi dưỡng học sinh giỏi là có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Nó giúp cho các em thấy được điểm mạnh, mặt yếu của mình ở nhiều phương diện
mà khắc phục và phát huy. Và như thế là đã giúp các em rèn luyện được rất nhiều
trong quá trình học tập bồi dưỡng.


<b>IV. KẾT QUẢ:</b>


Sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì học sinh tích cực, chủ động học
tập, sơi nổi hăng hái gia nhập vào đội tuyển có nhiều hứng thú trong học tập, tin
tưởng lạc quan vào kết quả khi làm bài. Kết quả cụ thể như sau:


Năm học 2002 – 2003: 4 giải trong đó có 1 giải ba.


Từ 2004 -> 2006: mỗi năm cũng có từ 4 giải trở lên và cũng đạt những giải
ba.


Năm học 2007– 2008: có 4 giải trong đó có 1 giải ba và 3 giải khuyến khích.
Năm học 2008- 2009: có 4 giải trong đó 1 giải ba và 3 giải khuyến khích.
Kết quả thi vòng hai của học sinh mặc dù chưa được chọn vào đội tuyển quốc
gia nhưng đều đạt điểm khá cao.



<b>V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:</b>


Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã mang
lại một kết quả khả quan rõ rệt. Phía giáo viên tham gia bồi dưỡng có được sự chủ
động mạnh dạn , ít gặp những lúng túng và vướng mắc như trước đây khi chưa áp
dụng chuyên đề. Chuyên đề đã tiết kiệm và rút ngắn được nhiều thời gian trong một
thời lượng cho phép bồi dưỡng là quá ngắn mà vẫn đảm bảo được những kiến thức
và kỹ năng cần thiết cho các em tham gia kỳ thi học sinh giỏi. Riêng phần các em
học sinh thì có hứng thú, tích cực học tập trong những giờ lên lớp với thầy và cũng
như việc chủ động, tìm tịi học tập, làm việc theo hướng dẫn của giáo viên với niềm
lạc quan say mê. Và kết quả chứng minh cuối cùng đều rất mỹ mãn qua nhiều năm
học liên tiếp.


<b>VI. KẾT LUẬN:</b>


Dạy học là một nghệ thuật. Người giáo viên khi đã chọn nghề dạy học là phải
có tâm yêu nghề , đặc biệt là mục tiêu hướng tới và là niềm hạnh phúc nhất trong
cuộc đời của người thầy là đào tạo bồi dưỡng được thật nhiều học trò giỏi. Đó là
tâm nguyện của tơi cũng như bao nhiêu đồng nghiệp khác. Tuy nhiên để có được
kết quả thành cơng tốt đẹp thì mỗi người giáo viên ln tìm tịi, sáng tạo, trăn trở và
nổ lực không ngừng với nhiều cách thức và phương pháp tối ưu nhất theo mình để
giảng dạy, bồi dưỡng cho các em.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

viết suy tư, cọ xát và trải nghiệm qua thực tế giảng dạy nhiều năm, đặc biệt là
những suy nghĩ trăn trở rất nhiều trong thực tiễn công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
qua các năm học. Hy vọng rằng những nội dung trong chuyên đề này sẽ là những
thông tin để được các đồng nghiệp trao đổi, thảo luận để mong rút tỉa được những
kinh nghiệm thực sự quý báu trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi - một công tác
rất đỗi nặng nề nhưng rất vinh dự của người giáo viên.



Do thời gian có hạn mà kiến thức và sự cảm nhận văn học thì vơ cùng nên
chun đề khơng tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Người viết rất mong nhận
được sự đóng góp của q thầy cơ, nhất là những thầy cơ trong cùng bộ môn.


<b>VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO: </b>


- 18 chuyên đề văn PTTH ( Nguyễn Thị Hòa, nhà xuất bản TPHồ Chí Minh
1999)


- Các đề thi tuyển sinh đại học cao đẳng môn văn – Bộ giáo dục.


- Những bài làm làm văn chọn học sinh giỏi quốc gia ( Vũ Tiến Quỳnh)
- Tuyển tập 10 năm đề thi Ôlimpich 30- 4 môn văn.


- Muốn viết được bài văn hay ( Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên)


- Một số thi đề thi học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai, một số đề thi học sinh giỏi
quốc gia, các đề thi học sinh giỏi ở các tỉnh khác được tuyển chọn.


- Một số tư liệu khác.


<b>Người thực hiện</b>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×