Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo HOẠT ĐỘNG đối NGOẠI TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.87 KB, 15 trang )

MÔN:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
CÂU 1. Những thành tựu chủ yếu về hội nhập quốc tế của Việt Nam
(1986-2016)?
Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong
đường lối chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế (trước Đại hội XI là hội nhập
kinh tế quốc tế), quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam gần 30 năm qua đã, đang
đạt được nhiều kết quả to lớn, đưa Việt Nam bước vào một giai đoạn hội nhập quốc
tế sâu sắc và toàn diện hơn. Có thể đánh giá kết quả, thành tựu của hội nhập quốc tế
trên một số mặt chủ yếu như sau:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế góp phần phá thế bao vây, cấm vận, nâng cao vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế. Điều này được phản ánh qua việc Việt Nam đã
thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế - thương mại với hầu hết các nước, vùng, lãnh
thổ và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế ở khu vực và thế giới. Tính đến năm
2014, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 181 quốc gia, quan hệ kinh tế - thương
mại với trên 230 thị trường nước ngồi, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức
quốc tế và khu vực.
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á); Năm 1996 là thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương); Năm 2000, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ; Tháng 1/2007 là thành viên chính thức của WTO (Tổ chức Thương mại
Thế giới) v.v... Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều Hiệp định Thương
mại tự do (FTA) khu vực và song phương, như cùng với các nước ASEAN ký FTA
giữa ASEAN với Trung Quốc (2004), ASEAN - Hàn Quốc (2006), ASEAN - Nhật
Bản (2008)... Ký FTA song phương Việt Nam - Nhật Bản (2008), Việt Nam - Chi
Lê (2011), Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (2015)... Hiện nay, chúng ta đang
hướng tới việc ra đời Cộng đồng ASEAN vào tháng 12/2015; Tích cực tham gia
đàm phán để đi tới ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong
đó Việt Nam là một thành viên v.v...



Đến nay, Việt Nam đang là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và
khu vực quan trọng như: Tổ chức Liên Hợp quốc (UN), Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Quá trình hội nhập của Việt Nam có cả ở
các cấp độ, phạm vi từ khu vực (ASEAN) đến liên khu vực (APEC, ASEM) và tới
toàn cầu (UN, WTO)... Với cương vị là thành viên hoặc gánh vác những trọng trách
lớn hơn: Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ
2008-2009, Chủ tịch ASEAN-2010, Tổng Thư ký ASEAN (2013-2017), Hội đồng
nhân quyền Liên Hiệp quốc (2014-2016)... Việt Nam đã thể hiện được trách nhiệm
và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, được các nước trên thế giới đánh giá rất
cao.
Thứ hai, hội nhập quốc tế mở ra một không gian phát triển mới cho nền kinh
tế Việt Nam, tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển
kinh tế - xã hội. Với việc Việt Nam trở thành thành viên của nhiều tổ chức khu vực
và thế giới, tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA), mở rộng quan hệ
kinh tế song phương với hàng loạt quốc gia... đã giúp Việt Nam khắc phục được
tình trạng khủng hoảng thị trường do các đối tác truyền thống ở Liên Xô và các
nước Đông Âu bị thu hẹp đột ngột và do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực bắt đầu từ năm 1997. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh
tế với hơn 230 thị trường nước ngoài; Việt Nam đã đi lên từ một nước nghèo, lạc
hậu trong khủng hoảng kinh tế - xã hội trở thành nước có thu nhập trung bình thấp;
từ một nước nhận viện trợ là chủ yếu thành đối tác hợp tác phát triển…
Quá trình hội nhập quốc tế, mà trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế những
năm qua đã giúp Việt Nam thu hút hiệu quả cả ba nguồn lực quốc tế lớn là: Nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) và
nguồn kiều hối. Tính đến hết năm 2014, tổng số vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt
Nam đạt hơn 270 tỷ USD, năm 2014 đạt tên 21 tỷ USD; Hiện nay có khoảng 60 nhà
tài trợ lớn cho Việt Nam (bao gồm cả nhà tài trợ song phương và đa phương). Trong
giai đoạn 1993 - 2013, tổng vốn ODA ký kết của các nhà tài trợ cho Việt Nam vay
đạt khoảng trên 62 tỷ USD, năm 2014 là khoảng 5 tỷ USD. Ngoài các nhà tài trợ



lớn, Việt Nam còn nhận được ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ; về nguồn
kiều hối, giai đoạn 2001-2010 đạt gần 40 tỷ USD, năm 2011 đạt 9 tỷ USD, năm
2012 khoảng 10 tỷ USD, năm 2013 đạt khoảng 11 tỷ USD, năm 2014 đạt khoảng 12
tỷ USD.
Tham gia hội nhập quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ.
Xuất nhập khẩu của Việt Nam đã trở thành động lực chính, quan trọng cho sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân. Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt
789 triệu USD, thì năm 2013 đã tăng đạt 132,2 tỷ USD, năm 2014 đạt hơn 150 tỷ
USD. Hoạt động nhập khẩu cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1986, kim ngạch nhập
khẩu là 1.857,4 triệu USD; năm 1996 là 11.143,6 triệu USD, năm 2014 đạt khoảng
148 tỷ USD. Việc gia nhập WTO đã mở ra cho Việt Nam cơ hội để gia tăng xuất
khẩu sang 160 nước thành viên (Yêmen là thành viên thứ 160 gia nhập WTO vào
tháng 12/2013).
Thứ ba, thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt
Nam đã tiếp thu được khoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều
lĩnh vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư và
viện trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thơng, Công nghệ
thông tin, Giao thông vận tải… đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan
trọng, đáp ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác.
Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi tích cực
hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế biến
và sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ, giá trị tăng cao hơn, thúc đẩy tái cơ cấu kinh
tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý..., thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Q trình hội nhập quốc tế đã góp phần đào tạo cho Việt Nam những nhà quản
lý, các doanh nhân, đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên
môn lẫn quản lý. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy quá trình cải cách hành


chính, cải cách thể chế kinh tế thị trường ngày một thơng thống, tương thích, tạo
thuận lợi cho các đối tác nước ngoài làm ăn với Việt Nam và Việt Nam sẽ trở thành
nền kinh tế thị trường thực sự.
Câu 2: Những giải pháp để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả hơn trong giai
đoạn hiện nay?
-Đảm bảo tối cao lợi ích dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng cùng
có lợi.
- Nâng cao hiệu quả đối ngoại, đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu.
- Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế.
- Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước với các hoạt động đối
ngoại.
Câu 3: Quá trình đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam từ năm 1986 đến nay?
Đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986
và được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ đại hội.
*Các giai đoạn hình thành và phát triển
Giai đoạn hình thành đường lối đối ngoại mới (1986-1996): Xác định đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Trước sự phát triển mới của tình hình trong nước và quốc tế, tháng Bảy 1986,
Bộ Chính trị khóa V của Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết, điều chỉnh bước
đầu chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ đối ngoại của
Việt Nam là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ những điều
kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, chủ động tạo

thế ổn định để tập trung xây dựng kinh tế. Nghị quyết cũng nhấn mạnh cần chủ động
chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hịa bình, góp phần xây dựng Đơng Nam Á thành
một khu vực hịa bình, ổn định, hợp tác; giải pháp về Campuchia phải bảo đảm giữ
vững được thành quả cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia khắc phục nạn diệt
chủng, tạo ra mơi trường hịa bình, ổn định để mỗi nước trên bán đảo Đơng Dương
nhanh chóng phát triển kinh tế...


Đường lối đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
Cộng sản Việt Nam, tháng 12- 1986, đề ra xác định nhiệm vụ hàng đầu là "tranh thủ
điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc".
Những phương hướng chính về đối ngoại, thơng qua tại Đại hội lần thứ VI là:
Phát triển và củng cố quan hệ Việt Nam, Lào, Campuchia, trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện.
Đoàn kết và hợp tác toàn diện với liên Xơ là hịn đá tảng trong chính sách đối
ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên ngun tắc cùng tồn tại hịa bình.
Ngày 20 tháng năm 1988, Bộ Chính trị khóa VI ra Nghị quyết Trung ương 13
với chủ đề: "Giữ vững hịa bình, phát triển kinh tế”, xác định ngoại giao phải ưu tiên
giữ vững hịa bình để phát triển và khẳng định rằng trong tình hình mới ở khu vực và
trên thế giới, nước ta lại càng có những cơ hội lớn để có thể gữ vững hịa bình và
phát triển. Nghị quyết Bộ Chính trị nhấn mạnh chính sách "thêm bạn bớt thù", đa
dạng hóa quan hệ trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi và chỉ ra
những nhiệm vụ trước mắt cho ngoại giao, trong đó quan trọng là: bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc và góp phần giải quyết vấn đề Campuchia.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam (12-1987), chủ trương xóa bỏ tình trạng độc quyền trong

sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu (1989).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
sáu 1991), đã xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở rộng quan hệ
hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội thơng qua tun bố
chính sách: "Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc
lập và phát triển"


Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra chủ trương mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác quốc tế, chủ động tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội và Cương lĩnh đề ra chính sách đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất
cả các nước khơng phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hòa bình; khơng ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp
tác truyền thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông
Dương; phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng
khu vực này thành khu vực hịa bình và hợp tác; phát triển quan hệ hợp tác, hữu
nghị,giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển; mở rộng hợp tác cùng có lợi với
các nước phát triển.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương khóa VI I(tháng sáu –
1992) đã ra Nghị quyết riêng về đối ngoại; xác định nhiệm vụ đối ngoại, tư tưởng chỉ
đạo chính sách đối ngoại, phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ
trương rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, cả về đối ngoại Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ,
khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và

phát triển kinh tế, gìn giữ và phát huy những truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp
của dân tộc. Nghị quyết Trung ương 3(khóa VII) đánh dấu sự ra đời đường lối đối
ngoại mới của Đảng ta- đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và
phát triển. Hội nghị đề ra bốn phương châm xử lý các vấn đề quốc tế và chính sách
đối với các đối tượng chủ yếu:
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
+ Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường trong khi đẩy mạnh đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ với mọi đối tượng.
+ Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.


Tháng Giêng 1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII khẳng
định: việc mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên thế
giới, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là
một trong ba thành tựu của công cuộc đổi mới.
Chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội VI, sau đó được các nghị
quyết Trung ương và Bộ Chính trị từ khóa VI đến khóa VII phát triển thành đường
lối đối ngoại “độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển”
Giai đoạn phát triển đường lối đối ngoại mới (1996-2011): Bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển”
Trên cơ sở các thành tựu đối ngoại từ năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, tháng Sáu 1996, đã quyết định "tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước". Đại hội khẳng định mạnh mẽ việc phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam theo những lộ trình phù hợp với Việt Nam.
Để đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bản
sắc văn hóa dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, Hội nghị lần thứ tư của Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII (tháng 12- 1997), đã nêu lên tư tưởng chỉ đạo

xuyên suốt là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa... Nâng cao ý chí tự
lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Sự phát triển tư duy đối ngoại được khẳng định rõ hơn trong Đại hội IX của
Đảng. Lần đầu tiên, Đảng ta khẳng định: phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
"Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình độc lập và phát triển" .
Đại hội X của Đảng hoàn thiện đường lối của Đại hội VIII, IX thành’’…
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình , hợp tác và phát triển’’, và phân biệt rõ
“chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế”.
Đại hội XI chủ trương triển khai đồng bộ , toàn diện hoạt động đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế với 4 nội dung cơ bản:


+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan heejchur động và tích cực hội nhập
quốc tế...
+ Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại.
+ Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn đọng về biên giới, lãnh thổ.
+ Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển đã được
bổ sung và phát triển từ Đại hội VIII đến Đại hội XI một cách đồng bộ và toàn diện
với tư duy mới là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Xác định rõ mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại và chính sách đối ngoại
Trong nhiệm kỳ Đại hội VII , chưa dùng khái niệm “ đường lối đối ngoại” mà
vẫn dừng ở khái niệm “ chính sách đối ngoại”.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6-1986) đến Đại hội IX trong văn kiện
Đảng đã dùng khái niệm “ đường lối đối ngoại” nhưng vẫn chưa thật rõ về mối quan

hệ giữa “ đường lối đối ngoại ” và “chính sách đối ngoại”.
Đến Đại hội X đã khẳng định rõ “ đường lối đối ngoại ” và “chính sách đối
ngoại”.
Bổ sung nội dung của đường lối đối ngoại mới
Trong các nhiệm kỳ từ Đại hội Đảng lần thứ VII đến Đại hội X đã xác định 7
nội dung cơ bản:
Một là, lợi ích dân tộc
Nhiệm vụ cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối
đa lợi ích dân tộc. Việc nhận thức rõ lợi ích dân tộc là điều vô cùng quan trọng. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hịa bình, ổn định để phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”.
Hai là, nhiệm vụ công tác đối ngoại
Đại hội X đã xác định: Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi
trường hịa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy


mạnh phát triển kinh tể - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đại hội X xác định những nhiệm vụ cụ thể là:
Thứ nhất, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định,
bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và
các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng
việc nội bộ của nhau.
- Không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
- Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng hịa bình.
- Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Thứ hai, củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân,
đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Thứ ba, phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của
nhân dân thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hồ bình, phát triển cơng
bằng, bền vững, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức
phi chính phủ nước ngồi để phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan
về vấn đề nhân quyền.
Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn
đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tơn giáo" hịng can thiệp vào cơng việc nội
bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị
của Việt Nam.
Thứ năm, đổi mới công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại, làm cho
thế giới hiểu và ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau và sự hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân


các nước.
Thứ sáu, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại vững vàng về chính trị, có năng lực và trình độ nghiệp vụ cao, có đạo đức
và phẩm chất tốt.
Thứ bảy, tăng cường công các nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với
sự tham gia và phát huy tối đa trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa
học.
Thứ tám, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của
Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại

của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh
tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin
trong nước.
Ba là, Tư tưởng chỉ đạo công tác đối ngoại và quan điểm chỉ đạo công tác đối
ngoại;
Bốn là, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế;
Năm là, Các nguyên tắc mở rộng quan hệ;
Sáu là, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Bảy là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của
Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Đại hội XI của Đảng chủ trương triển khai đồng bộ và tồn diện hoạt động đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
*ĐH 12: Kế thừa đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới, với những điểm mới
trên đây, đường lối đối ngoại trong Văn kiện Đại hội XII bao gồm những nội dung
cốt lõi sau:
Mục tiêu đối ngoại là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó,
Đảng ta khẳng định: Thứ nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ
hai, lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, khơng phải là những lợi ích
dân tộc vị kỷ, hẹp hịi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc phải là nguyên tắc


tối cao của mọi hoạt động đối ngoại và; thứ tư, mục tiêu của mọi hoạt động đối
ngoại là phải bảo đảm một cách tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc.
Nhiệm vụ đối ngoại là “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối
ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối
đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội

chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Các định hướng lớn cho công tác đối ngoại 5 năm tới và các năm tiếp theo bao
gồm:
Thứ nhất, “Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan
hệ hợp tác đi vào chiều sâu... Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình
các thể chế đa phương”.
Thứ hai, “Kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia và ổn định chính trị của đất nước”.
Thứ ba, “Tiếp tục hoàn thành việc phân định biên giới trên bộ, thúc đẩy giải quyết
các vấn đề trên biển trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và quy tắc ứng xử của khu vực”.
Trong các quy tắc ứng xử của khu vực nêu trong định hướng này, quan trọng nhất là
Hiệp định Thân thiện và Hợp tác ở Đông - Nam Á (TAC) và Quy tắc về Cách ứng
xử của Các bên liên quan ở Biển Đông (DOC).
Thứ tư, thứ tự ưu tiên trong quan hệ với các đối tác là các nước láng giềng, các đối
tác lớn, đối tác quan trọng.
Thứ năm, hoạt động trong ASEAN thì “Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng
các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”.


Thứ sáu, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế để giảm các tác động tiêu
cực của hội nhập và hiện thực hóa các cơ hội mà hội nhập quốc tế mang lại.
Thứ bảy, tăng cường công tác nghiên cứu, công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ đối
ngoại và công tác tuyên truyền đối ngoại.
Thứ tám, mở rộng, làm sâu sắc hơn và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Thứ chín, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại; tăng cường sự phối hợp giữa đối ngoại Đảng,

ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh
tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

Như vậy, các văn kiện đối ngoại đã ngày càng bổ sung theo hướng hoàn thiện
hơn quan điểm của Đảng ta về nhận định tình hình thế giới và định hình chính sách
đối ngoại phù hợp với tình hình đó. Các nhận định và đánh giá tình hình và cục diện
quan hệ quốc tế ngày càng được xây dựng trên cơ sở khoa học và khách quan hơn,
chính sách ngày càng đề ra sát hơn thực tiễn quốc tế và mục tiêu chiến lược của đất
nước. Việc thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại được đổi mới, linh hoạt, mềm
dẻo và hiệu quả hơn.
Câu 4: Hoạt động đối ngoại của Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới như
thế nào cho phù hợp và hiệu quả hơn?
Trong những năm vừa qua, công tác đối ngoại đảng đã đạt được nhiều kết
quả nổi bật, tạo điều kiện thuận lợi chung cho công tác đối ngoại của đất nước, góp
phần củng cố nền tảng chính trị, tăng cường sự gắn kết, bổ sung và thống nhất trong
thực tiễn triển khai hoạt động đối ngoại giữa đối ngoại đảng với ngoại giao nhà
nước và ngoại giao nhân dân, đóng góp quan trọng vào thành quả của cơng tác đối
ngoại trong việc tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Đó chính là tiền đề, động lực
để đối ngoại đảng tiếp tục phát triển, đưa quan hệ đối ngoại của Đảng ta, nước ta đi
vào chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt chủ trương, chính sách đối ngoại
của Đảng, trong thời gian tới, công tác đối ngoại đảng cần chú trọng mở rộng, làm
sâu sắc hơn nữa các mối quan hệ, cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.


Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ cịn có nhiều biến động
phức tạp. Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Cục
diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Hợp tác, cạnh
tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau, nhất là giữa các nước lớn, ngày càng gia tăng. Đối
với nước ta, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế ngày càng được củng cố,

nâng cao, nhưng chúng ta cũng đứng trước nhiều yêu cầu mới, vấn đề mới trong
việc phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nhằm khai thác tối đa các thuận lợi, thời cơ, vượt qua các khó khăn, thách
thức, trong thời gian tới, đối ngoại đảng cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, định
hướng lớn về đối ngoại theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, tập trung vào một số
nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy lợi thế, sức mạnh, vai trò của đối ngoại đảng
trong duy trì mơi trường quốc tế hịa bình, ổn định, tăng cường và đưa các mối quan
hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đối ngoại đảng cần tiếp tục phát huy tốt vai trò xây dựng nền tảng
chính trị trong quan hệ với các đối tác quốc tế, qua đó góp phần thúc đẩy tổng thể
quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, tích cực nâng cao hiệu quả thực chất, thúc đẩy các nội dung quan hệ
đảng tiếp tục đi vào chiều sâu, cả trên bình diện song phương và đa phương. Tiếp
tục chủ động, tích cực triển khai chủ trương tăng cường quan hệ truyền thống với
các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả; mở rộng và đưa quan hệ với các đảng cầm
quyền, tham chính đi vào chiều sâu. Chủ động và tích cực phát huy vai trò của
Đảng ta tại các diễn đàn đa phương chính đảng. Nội dung trao đổi, hợp tác trên
kênh đảng đi sâu vào các lĩnh vực, vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với cơng cuộc
bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, như kinh nghiệm cầm quyền, năng lực và
kỹ năng lãnh đạo, quản lý và trình độ, kiến thức chun mơn của lãnh đạo, cán bộ
đảng các cấp.


Thứ ba, phối hợp đồng bộ và chặt chẽ với ngoại giao nhà nước và ngoại giao
nhân dân nhằm huy động và phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp cho công tác đối
ngoại. Đây là một truyền thống quý báu của đối ngoại nước ta. Việc huy động và
củng cố sức mạnh vật chất luôn được kết hợp chặt chẽ với việc huy động và phát
huy sức mạnh tinh thần; kết hợp chặt chẽ các kênh, các binh chủng và lĩnh vực của

đối ngoại, từ ngoại giao nhà nước, đến đối ngoại đảng, ngoại giao nhân dân. Trong
bối cảnh hiện nay, đối ngoại càng cần phải trở thành một mặt trận thống nhất dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng, với sự tham gia năng động,
sáng tạo, phối hợp nhịp nhàng của các cấp, các ngành, của mọi tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, không ngừng đổi mới tư duy trên tất cả các kênh đối ngoại, cả về nội
dung, phương thức, chiến lược, chiến thuật triển khai hoạt động. Việc xử lý linh
hoạt các mối quan hệ quốc tế của Đảng tạo điều kiện thuận lợi chung cho cơng tác
đối ngoại, góp phần tăng cường nền tảng, sự gắn kết, bổ sung và thống nhất trong
thực tiễn triển khai hoạt động đối ngoại giữa đối ngoại đảng với ngoại giao nhà
nước và ngoại giao nhân dân. Đồng thời, trong cục diện thế giới phức tạp như hiện
nay, cần nắm chắc phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong kiên trì thực hiện
đường lối đối ngoại, khơng để các khác biệt về thể chế chính trị - xã hội cản trở việc
mở rộng các mối quan hệ quốc tế của Đảng.
Thứ năm, thường xuyên củng cố và tăng cường năng lực của lực lượng tham
gia cơng tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại đảng. Chúng ta phải xây dựng đội ngũ
cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực chun mơn tồn diện, am hiểu
luật pháp, giỏi ngoại ngữ và bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc triển khai hiệu
quả các hoạt động đối ngoại.
Là một bộ phận cấu thành của nền ngoại giao toàn diện Việt Nam, đối ngoại
đảng đã có nhiều đóng góp quan trọng, hiệu quả vào thành công chung của mặt trận
đối ngoại thời kỳ đổi mới, phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất
nước. Việc xử lý linh hoạt các mối quan hệ quốc tế của Đảng tạo điều kiện thuận lợi
chung cho cơng tác đối ngoại, góp phần củng cố nền tảng chính trị, tăng cường sự
gắn kết, bổ sung và thống nhất trong thực tiễn triển khai hoạt động đối ngoại giữa


đối ngoại đảng với ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Với những thành
quả quan trọng, nổi bật đã đạt được thời gian vừa qua, với quyết tâm mạnh mẽ của
Đảng, Nhà nước và các lực lượng làm đối ngoại, công tác đối ngoại của nước ta sẽ
tiếp tục đạt kết quả thực chất, hiệu quả toàn diện, góp phần vào sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



×