Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Khám xét trong tố tụng hình sự lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.33 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----------***------------

LÊ DUY BẢO CHINH
MSSV: 095503008

KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2009 - 2013

GVHD: THS. DƯ HỒNG CHÂU
GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN

TP.HCM – Năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập cũng như thực hiện khóa luận, em đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình từ tất cả mọi người.
Trước tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Dư
Hoàng Châu, là Ths.Giảng viên trường đại học Cảnh sát, thầy
đã giúp đỡ em rất nhiều trong suốt thời gian em thực hiện khóa
luận này. Mặc dù bận rất nhiều cơng việc nhưng ln dành thời
gian q báu của mình để quan tâm và giúp đỡ em, chính nhờ sự
động viên và hướng dẫn tận tình của thầy đã giúp em có thêm
động lực và tự tin để hồn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy, cô đang giảng
dạy tại trường Đại học Luật tp. Hồ Chí Minh đã giúp em hồn


thành tốt chương trình học tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BLTTHS 2003
BLHS
CQĐT
ĐTV
LTCQH
PLTCĐTHS
PLTTHS
TA
TTHS
VKSNDTC

Nội dung giải thích
Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Bộ luật hình sự
Cơ quan điều tra
Điều tra viên
Luật tổ chức Quốc hội
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự
Tịa án
Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát nhân dân tối cao



MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................ 1
Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 2
Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứucủa đề tài ............................................. 3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................ 4
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 5
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ........................................................... 5
Kết cấu khóa luận ...................................................................................... 5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁM XÉT

1.1. Khái niệm hoạt động khám xét ................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm về khám người .............................................................. 8
1.1.2. Khái niệm về hoạt động khám xét nơi ở, địa điểm, chỗ làm việc,

thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm ........................................................ 10
1.2. Đặc điểm của hoạt động khám xét ........................................................... 11
1.3. Các nguyên tắc chỉ đạo trong khám xét .................................................. 14
1.4. Vai trò của hoạt động khám xét ............................................................... 17
1.4.1. Vai trò của hoạt động khám xét ..................................................... 17
1.4.2. Ý nghĩa của khám xét ..................................................................... 18
1.5. Khám xét trong giai đoạn điều tra ở một số nước trên thế giới ............ 19
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNHVỀ KHÁM XÉT
2.1. Căn cứ tiến hành khám xét ................................................................................... 25
2.1.1. Căn cứ tiến hành khám xét người ............................................................... 27
2.1.2. Căn cứ khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm………………………………………………………………… ...28
2.2.Thẩm quyền ra lệnh khám xét .............................................................................. 30
2.2.1. Thẩm quyền ra lệnh khám xét trong những trường hợp không
khẩn cấp ............................................................................................................... 30
2.2.2. Thẩm quyền ra lệnh khám xét trong những trường hợp khẩn cấp .............. 30
2.2.3. Thẩm quyền ra lệnh khám xét đối với Đại biểu Quốc Hội ......................... 31
2.3. Đối tượng khám xét ........................................................................................... 33
2.3.1. Đối tượng khám xét trong hoạt động khám xét người ................................ 33
2.3.2. Đối tượng khám xét trong hoạt động khám xét chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm ........................................ 34
2.4. Chủ thể tiến hành khám xét ................................................................................. 37
2.5. Trình tự, thủ tục khám xét ................................................................................... 40
2.5.1. Trình tự, thủ tục khám xét người ............................................................. 40


2.5.2. Trình tự, thủ tục khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm ....................... 45
2.5.3. Hoạt động thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm ......................... 49
2.6. Hoạt động thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật trong khám xét .............................. 51

2.6.1. Hoạt động tạm giữ tài liệu, đồ vật trong khám xét ..................................... 51
2.6.2. Hoạt động thu giữ tài liệu, đồ vật trong khám xét ...................................... 52
CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHÁM XÉT
3.1. Thực trạng áp dụng hoạt động khám xét trong công tác điều tra .................... 54
3.1.1. Thực trạng áp dụng của hoạt động khám xét trong TTHS và những
kết quả đạt được .................................................................................................... 54
3.1.2. Những kết quả đạt được của hoạt động khám xét trong TTHS .................. 55
3.2. Những bất cập và nguyên nhân gây ra bất cập trong hoạt động
khám xét ........................................................................................................................ 58
3.2.1. Những bất cập trong thực tiễn khám xét ..................................................... 59
3.3.2. Một số nguyên nhân dẫn đến bất cập trong thực tiễn hoạt động
khám xét ......................................................................................................................... 71
3.3. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám xét ................................ 76
3.3.1. Những đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp luật
về khám xét ........................................................................................................... 76
3.3.2. Những đề xuất giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
khám xét ................................................................................................................ 84
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự, hoạt động điều tra của các cơ quan có thẩm quyền điều tra
giữ một vị trí và vai trị quan trọng trong q trình giải quyết các vụ án hình sự. Thơng
qua hoạt động điều tra, các cơ quan chức năng có thể xác định sự thật vụ án một cách
khách quan và toàn diện nhất. Nếu cơng tác điều tra có hiệu quả sẽ đảm bảo việc xét xử

được khách quan, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Hơn nữa, kết luận được đưa ra
trong giai đoạn điều tra cũng là căn cứ quan trọng để Viện kiểm sát đưa ra quyết định
truy tố, và có ảnh hưởng quan trọng đến phán quyết của Tịa án.
Trong hệ thống những biện pháp và phương tiện điều tra khám phá tội phạm hiện
nay, tuy rằng không phải là căn cứ quyết định duy nhất để giải quyết vụ án nhưng khám
xét vẫn đóng một vai trị rất quan trọng. Đây là một trong những biện pháp hỗ trợ thu
thập chứng cứ có hiệu quả mà các CQĐT áp dụng trong tiến trình tìm ra sự thật của vụ
án kết hợp với các biện pháp điều tra khác như h i cung, đối chất, nhận dạng, v.v….
Thông qua hoạt động khám xét, cùng với sự hỗ trợ của các biện pháp khác, có thể tìm ra
bằng chứng phạm tội, công cụ gây án hoặc tất cả những vật, tài liệu có liên quan đến vụ
án mà người phạm tội cố tình che giấu nhằm cản trở hoạt động điều tra. Từ đó, góp phần
làm cơ sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát và việc xét xử của Tòa án. Việc nhấn mạnh
đến vai trò của hoạt động điều tra và khám xét như vậy xuất phát từ tình hình chung hiện
nay, khi mà đấu tranh phịng chống tội phạm là hoạt động không thể thiếu trong bất kỳ
một xã hội, quốc gia nào. Nhất là trong thời gian vừa qua, tình hình tội phạm ở nước ta
đã và đang diễn biến phức tạp, theo dự đoán sẽ cịn có xu hướng tăng trong tương lai.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hiện trạng này là do sự tác động hai mặt
của nền kinh tế thị trường, yếu tố tiêu cực của xu hướng hội nhập kinh tế đã ảnh hưởng
không nh đến tư tưởng, đạo đức, nhân cách của con người. Vì vậy, cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm ln nhận được sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng và Nhà nước


nhằm giữ vững pháp luật, trật tự an ninh xã hội, an ninh chính trị và pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, chính trong bối cảnh xã hội phát triển đó, cộng thêm tình hình tội phạm
lại diễn biến ngày càng phức tạp với mức độ tinh vi và xảo quyệt hơn trước, để cơng tác
đấu tranh và phịng chống tội phạm đạt hiệu quả cao đòi h i một hệ thống pháp luật
hoàn thiện, kịp thời bổ sung, đáp ứng được những yêu cầu mới đặt ra, từ đó xây dựng
một hành lang pháp lý vững mạnh cho việc áp dụng, bảo vệ pháp luật. Thế nhưng, dù
rằng thực tế pháp luật tố tụng hình sự quy định khá đầy đủ những vấn đề liên quan đến

công tác khám xét, song việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn vẫn còn nhiều
hạn chế. Nguyên nhân trực tiếp là do sự quy định chưa triệt để của các quy phạm pháp
luật dẫn đến việc thực hiện không thống nhất, tạo sơ hở, và lỗ hổng cho những trường
hợp tiêu cực, gây tổn thất cho xã hội và làm mất lịng tin của quần chúng nhân dân vào
sự cơng minh của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định về khám xét
trong tố tụng hình sự, tìm ra những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong thực tiễn để đề
ra biện pháp khắc phục là một việc làm hết sức thiết thực và có ý nghĩa. Đó cũng là lý do
tác giả chọn đề tài “Khám xét trong Tố tụng hình sự - Lý luận và thực tiễn” để làm khóa
luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động khám xét trong giai đoạn điều tra,
tác giả rút ra được một nhận xét chung là hiện nay chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu
về vấn đề này. Các nhà khoa học, nhà nghiên cứu chưa dành cho hoạt động này sự quan
tâm tương xứng với tầm vóc của nó trong khoa học luật TTHS. Việc nghiên cứu chỉ tập
trung ở các đề tài liên quan đến hoạt động điều tra nói chung, hoặc các giai đoạn điều
tra, cịn riêng về khám xét, hiện tại vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu
nhằm tìm ra bản chất, những đặc trưng của biện pháp này cũng như thực trạng áp dụng
nó trong thực tế. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí có liên
quan đến vấn đề khám xét như:


- Các hoạt động điều tra trong BLTTHSVN
- Luận văn Thạc sĩ Luật học 2002 của Đinh Thị Chiến về giai đoạn điều tra và các
hình thức của giai đoạn điều tra
- Luận văn Thạc sĩ Luật học 2002 của Nguyễn Văn Hoạt về Hoạt động điều tra các
vụ án bn bán phụ nữ và trẻ em
- Giáo trình Tố tụng hình sự của Đại học Luật Hà Nội 2005 do PGS,TS Nguyễn
Văn Cảnh chủ biên
- Tập bài giảng Khoa học điều tra hình sự 2005 của Đại học Luật Hà Nội

- Tập bài giảng Tố tụng hình sự của Đại học Luật TPHCM
Và một số cơng trình nghiên cứu khác
Tuy nhiên, hoạt động khám xét trong các cơng trình này chỉ được đề cập đến trong
một phần rất nh , vẫn chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu để đặc tả toàn bộ những vấn đề
cần thiết. Mặt khác, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ chung nhất, mang
tính khái qt và cịn khá mơ hồ, chưa đưa ra cho người đọc thấy được cái nhìn tồn
diện về hoạt động khám xét, cũng như chưa làm rõ được bản chất và những đặc trưng
của hoạt động điều tra này, đặt trong mối quan hệ với các biện pháp điều tra khác và
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Dù vậy, những cơng trình nghiên cứu trên là tài
liệu rất bổ ích cho tác giả khóa luận trong việc hồn thành nghiên cứu của mình. Hoạt
động khám xét tuy là một đề tài khơng mới, nhưng nó cũng đóng một vai trị nhất định
trong hoạt động điều tra. Hơn nữa, đây là một hoạt động khá nhạy cảm vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và lợi ích của cơng dân, nhưng lại ít được quan tâm. Điều này đã
một lần nữa lập luận cho tính cấp thiết của đề tài mà tác giả đã lựa chọn làm khóa luận
tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm vào những mục đích sau:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách có hệ thống khoa học và tồn diện về mặt lý luận
về hoạt động khám xét trong tố tụng hình sự.


Thứ hai, phân tích đánh giá thực tiễn áp dụng khám xét trong TTHS. Qua đó có thể
rút ra những thành quả đã đạt được và những vi phạm, bất cập còn tồn tại, đồng thời đưa
ra đề xuất nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của Pháp luật tố tụng hình
sự. Từ đó, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động điều tra nói chung và hoạt động khám xét
nói riêng, đạt được hiệu quả cao.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả khóa luận xác định rằng, khóa luận cần thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như: làm rõ được những đặc trưng cơ bản của hoạt

động khám xét, làm rõ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, đối tượng, chủ thể
cũng như những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét, v.v… Từ đó đối chiếu những
quy định pháp luật này với thực tiễn áp dụng và tìm ra những hạn chế, vướng mắc làm
ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, đưa ra các giải pháp hoàn thiện về quy định pháp luật
cũng như chủ thể áp dụng pháp luật trong việc đảm bảo cho hoạt động điều tra phá án
các VAHS tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài khóa luận là hoạt động khám xét trong tố tụng
hình sự Việt Nam về mặt lý luận và thực tiễn. Tức là tác giả chỉ tập trung vào việc tìm
hiểu những quy định pháp luật trong PLTTHS hiện nay về hoạt động khám xét và thực
tiễn tiến hành hoạt động này trong Tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với nội dung yêu cầu của đề tài “Khám xét trong TTHS – Lý luận và thực tiễn” và
trong khả năng của bản thân, tác giả sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu vấn đề này. Cụ thể,
tác giả sẽ tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu phần lý luận về khám xét, đồng thời rà
soát trên thực tế việc thực hiện hoạt động này đã diễn ra như thế nào. Theo đó, tác giả sẽ
tiến hành nghiên cứu các nguyên tắc, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động khám xét song
song đó là đi sâu phân tích kỹ những quy định pháp luật về hoạt động này. Ngoài ra, trên
cơ sở những tài liệu, báo cáo tổng kết cơng tác của ngành Cơng an, Tịa án… Tác giả sẽ


nghiên cứu về thực trạng của hoạt động khám xét trong những năm gần đây. Những vấn
đề trên là những vấn đề mà tác giả khóa luận đặc biệt quan tâm trong quá trình nghiên
cứu của mình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lenin, đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước CHXHCNVN. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, tác giả cịn sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp… để

tìm hiểu và làm rõ hơn nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Với sự nỗ lực, cố gắng trong khả năng của tác giả cùng với sự giúp đỡ của giảng
viên hướng dẫn, tác giả hy vọng khóa luận sẽ góp phần làm rõ hơn các vấn đề về khám
xét trong TTHS, sự cần thiết của hoạt động khám xét trong quá trình điều tra VAHS.
Tác giả cũng mong muốn rằng kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ phần nào bổ sung vào lý
luận khám xét nhằm góp phần hồn chỉnh hơn các quy định của pháp luật về hoạt động
khám xét, đồng thời tìm ra được những tồn tại và vướng mắc cùng với việc đưa ra những
giải pháp khắc phục những thiếu sót đó để nâng cao hiệu quả của hoạt động trong thực
tiễn. Mặt khác, tác giả rất mong rằng đây sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc
học tập và nghiên cứu của những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu khóa luận
Khóa luận được thiết kế gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khám xét
Chương 2: Pháp luật thực định về khám xét
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hoạt động
khám xét trong TTHS


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁM XÉT
1.1. Khái niệm hoạt động khám xét
Về lịch sử, khám xét là một biện pháp điều tra phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Biện pháp này xuất phát từ yêu cầu của hoạt động điều tra là nhanh chóng tìm ra sự
thật, khơng b lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Công tác khám xét đã dần gắn liền và
trở thành một bộ phận quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở
nước ta. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, vấn đề lý luận cũng như
những hiểu biết về công tác khám xét vẫn còn rất nhiều hạn chế, chưa tương xứng với
tầm quan trọng của hoạt động này. Vậy nên, việc nghiên cứu, tìm hiểu, làm sáng t bản

chất, khái niệm của công tác khám xét thiết nghĩ là một điều vô cùng cần thiết.
Cùng với những tiến bộ của nền văn minh nhân loại và sự phát triển của khoa học
pháp lý, vấn đề khám xét đã nhận được sự quan tâm và từng bước được nâng cao. Các
nhà nghiên cứu khi nghiên cứu khái niệm khám xét cũng xuất phát từ những lý luận
pháp lý, khoa học điều tra tội phạm… để đưa ra những khái niệm về khám xét ngày càng
chính xác hơn. Sau đây, xin nêu một số quan điểm định nghĩa về hoạt động khám xét:
Quan điểm thứ nhất, “Khám xét là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết tội
phạm, vật chứng và những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.” [41-tr235]
Quan điểm thứ hai, “Khám xét là hoạt động điều tra được tiến hành theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự nhằm thu thập, tìm kiếm dấu vết, vật chứng của tội phạm
hoặc những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.” [45-tr411]
Quan điểm thứ ba, “Khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau
khi khởi tố vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền quy định tại Điều 140 – Bộ luật tố
tụng hình sự, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà
có, cũng như mọi đồ vật và tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể tiến
hành khám xét để phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi. Trong
trường hợp khơng thể trì hỗn, người có thẩm quyền có thể ra lệnh khám xét mà không
1


có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành, nhưng sau khi khám
xong, trong thời gian 24 giờ người ra lệnh khám phải báo cáo bằng văn bản cho Viện
kiểm sát cùng cấp. Đối tượng khám xét có thể là khám người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật,
thư tín, bưu kiện, bưu phẩm. Việc khám xét phải tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ về thủ
tục tiến hành được quy định tại các Điều 140 – 149 – Bộ luật tố tụng hình sự.” [33tr146]
Quan điểm thứ tư, “Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm
tịi, lục sốt cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà
có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang
bị truy nã.” [40-tr85]

Quan điểm thứ năm, “Khám xét là hoạt động điều tra được quy định trong
BLTTHS, do CQĐT tiến hành bằng cách lục soát người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
để tìm kiếm dấu vết tội phạm, thu thập tài liệu, vật chứng hoặc những đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án.” [34-243]
Nhìn chung, dù rằng tiếp cận nghiên cứu về công tác khám xét từ những góc độ
khác nhau, các khái niệm trên đã phản ánh khá rõ nét về tính chất và những thuộc tính
của khám xét, làm bật lên những nội dung chủ yếu như: khám xét là hoạt động điều tra
hình sự, nhằm mục đích thu thập và củng cố chứng cứ trên cơ sở tuân theo những quy
định của pháp luật… Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thấy được nội hàm của hoạt động
khám xét, những điểm giống và khác nhau giữa khám xét so với các biện pháp điều tra
khác. Vấn đề nữa đặt ra là chủ thể nào có thẩm quyền tiến hành khám xét. Nếu xác định
chủ thể tiến hành khám xét là CQĐT như khái niệm thứ năm đưa ra thì vẫn chưa đầy đủ.
Bởi vì, CQĐT là đối tượng chịu trách nhiệm chính tiến hành các hoạt động điều tra giải
quyết VAHS nhưng trong một số trường hợp pháp luật cũng cho phép một số cơ quan
khác, tuy không phải là CQĐT được tiến hành hoạt động khám xét (điểm a khoản 1 các
điều 19, 20, 21, 22 PLTCĐTHS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, điều 65, 111
BLTTHS 2003). Do đó, theo tác giả, không nên nêu ra chủ thể tiến hành của hoạt động
2


khám xét vì khơng đầy đủ và nếu đã chỉ ra chủ thể tiến hành thì cũng phải chỉ ra chủ thể
có thẩm quyền ra lệnh, chủ thể tham gia. Từ những phân tích, đánh giá trên, theo tác giả,
chúng ta có thể đi đến khái niệm về khám xét như sau:
Khám xét là hoạt động điều tra do những người có thẩm quyền tiến hành bằng
cách tìm tịi, lục soát đối với đối tượng bị khám xét theo đúng quy định pháp luật TTHS
nhằm tìm ra những đồ vật, tài liệu, công cụ, phương tiện phạm tội, tài sản do phạm tội
mà có,tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án hoặc tìm ra người bị bắt cóc, bộ phận tử
thi.
Trong quá trình khám xét, đối tượng bị khám xét có quyền bảo vệ những quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, bác b những căn cứ khám xét khơng chính đáng mà CQĐT

đã đưa ra. Đây là một hoạt động điều tra hình sự vì vậy địi h i ĐTV trong quá trình thực
hiện khám xét phải luôn luôn chấp hành nghiêm chỉnh, vận dụng một cách linh hoạt và
có hiệu quả các quy định của pháp luật về khám xét.
Ngoài ra, căn cứ vào đối tượng và thủ tục khám xét có thể chia khám xét thành hai
loại: Khám xét người, khám xét nơi ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
1.1.1. Khái niệm về khám xét người
Có rất nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về hoạt động khám người. Nhưng
qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả cho rằng hai quan điểm dưới đây là tương đối đầy
đủ, khái quát nhất và nêu bật lên được những đặc trưng của hoạt động khám người:
Thứ nhất, theo từ điển luật học giải thích thì khám người là “Hoạt động tố tụng do
điều tra viên tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người của một người có cơng
cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có
liên quan đến vụ án.” [46-tr 247]
Thứ hai, theo giáo trình Khoa học điều tra hình sự của Đại học Luật Hà Nội quy
định thì: “ Khám người là việc tiến hành tìm tịi, lục sốt trong người, quần áo đang
mặc và các đồ vật đem theo, kể cả phương tiện đi lại của họ nhằm phát hiện, thu giữ
công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án.” [40-tr 96]
3


Giữa hai quan điểm trên, thì cách định nghĩa trong Từ điển Luật học có phần xác
đáng hơn và tác giả đồng tình với quan điểm này. Bởi vì nó nêu được cả chủ thể tiến
hành là hoạt động khám xét là ĐTV, căn cứ khám xét là khi có “nhận định” trong người
của một người có cơng cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc
đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án, và cả đối tượng nào có thể bị khám xét.
Trong khi đó với cách định nghĩa của giáo trình Khoa học điều tra hình sự của Đại học
Luật Hà Nội thì chúng ta chỉ có thể hình dung được những hành vi nào sẽ được thực
hiện khi tiến hành khám xét và cả mục đích của việc khám xét. Tựu trung lại, dù được
tiếp cận dưới những góc độ khác nhau nhưng cả hai quan điểm này có phần bổ sung cho

nhau, từ đó giúp ta nắm rõ hơn những đặc điểm của hoạt động này. Khám xét người
thường được tiến hành theo hai bước là khám xét sơ bộ và khám xét chi tiết.
Thông thường ngay sau khi bắt đối tượng, để tước vũ khí, chất độc và thu giữ vật
chứng dễ tìm, ĐTV thường tiến hành hoạt động khám xét sơ bộ. Đối với những đối
tượng bị bắt, khi khám xét, cần kiểm tra ở khu vực xung quanh, đề phịng trường hợp có
hành vi tẩu tán, che giấu những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án cần điều tra ra
những nơi đó.
Cịn đối với hoạt động khám xét chi tiết, thì yêu cầu đặt ra là phải tiến hành ở nơi
kín đáo, có thể là ở trụ sở CQĐT, một căn phịng, hoặc thậm chí là một ngơi nhà nào đó,
đồng thời để đảm bảo an toàn cho cuộc khám xét, danh dự nhân phẩm của người bị
khám xét thì những người khơng có trách nhiệm sẽ khơng được có mặt tại nơi này.
Tóm lại, qua việc phân tích, tìm hiểu những quan điểm khác nhau về hoạt động
khám người, tác giả cho rằng chúng ta có thể định nghĩa hoạt động khám người như sau:
Khám người là một hoạt động điều tra do những người có thẩm quyền tiến hành
bằng cách tìm tịi, lục sốt trên thân thể của một người theo đúng quy định của pháp
luật TTHS nhằm tìm ra công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà
có, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

4


1.1.2. Khái niệm về hoạt động khám xét nơi ở, địa điểm, chỗ làm việc, thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Hiện nay trong BLTTHS cũng như trong những tài liệu nghiên cứu khác vẫn chưa
có định nghĩa chính xác thế nào là khám xét chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm.
Đối với hoạt động khám chỗ ở, địa điểm, thì theo định nghĩa trong từ điển Luật
học, đây là “Một hoạt động tố tụng do điều tra viên tiến hành khi có căn cứ để nhận
định tại chỗ ở, địa điểm có mặt của một người có cơng cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật
tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám

chỗ ở, địa điểm được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã.” [46-tr246]
Ngồi ra, cịn có quan điểm cho rằng, đây là “hoạt động điều tra được tiến hành
ngay sau khi khởi tố vụ án, theo lệnh của người có thẩm quyền, để tìm kiếm và thu hồi
công cụ phạm tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà có, cũng như mọi đồ vật và tài liệu
khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án.” [34-tr248]
Đối với hoạt động khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm vẫn chưa được định
nghĩa cụ thể, chưa có khái niệm hồn chỉnh thống nhất về hoạt động này được đưa ra.
BLTTHS hiện nay cũng chỉ dành một khoản rất nh - khoản 2 điều 140 BLTTHS 2003,
để khái quát hoạt động này, đó là:
“Khi cần thu thập tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.”
Như vậy, như đã trình bày, do BLTTHS chưa có quy định cụ thể định nghĩa thế
nào là khám xét nói chung, thế nào là khám xét người, địa điểm, chỗ ở, chỗ làm việc, thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nói riêng, nên vẫn chưa có khái niệm cụ thể, mà chỉ tồn
tại những quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, theo quan điểm của
tác giả, qua nghiên cứu, tổng hợp từ những quan điểm nêu trên chúng ta có thể định
nghĩa hai hoạt động này như sau:
Khám xét chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc là một biện pháp điều tra được tiến hành
khi có căn cho rằng tại nơi ở, chỗ làm việc, địa điểm đó có chứa những tài liệu, đồ vật
5


có liên quan đến vụ án hoặc có tội phạm bị truy nã ẩn trốn. Hoạt động này phải do cơ
quan có thẩm quyền theo pháp luật thực định thực hiện theo đúng quy định của
BLTTHS.
Khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm là một biện pháp điều tra được tiến
hành khi xét thấy cần thiết phải thu thập những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án,
chứa trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm đó. Hoạt động này do các cơ quan có
thẩm quyền theo pháp luật thực định thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS.
1.2. Đ c điểm của hoạt động khám xét

Từ những tiếp cận về khái niệm của hoạt động khám xét nêu trên, chúng ta có thể
rút ra những đặc điểm cơ bản của hoạt động này như sau:
Thứ nhất, khám xét là một hoạt động điều tra hình sự.
Cụ thể pháp luật tố tụng hình sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
coi khám xét là một hoạt động điều tra hình sự và được quy định trực tiếp ở các điều
140, 141, 142, 143 – Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Mặt khác, khám xét cũng là một hoạt
động điều tra có quan hệ tới nhiều chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nên nó cịn chịu
sự điều chỉnh bởi các quy định khác của pháp luật, ví dụ như Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ
sung năm 2001 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Luật Hình Sự 1999 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2009, v.v…
Những tài liệu, đồ vật thu được khi khám xét có liên quan trực tiếp đến vụ án cần
điều tra có thể được coi là chứng cứ. Chính vì lẽ đó nên việc khám xét đã được pháp luật
quy định rất chặt chẽ từ khi bắt đầu đến khi kết thúc khám xét. Tất cả đều phải bảo đảm
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, khám xét là một biện pháp điều tra có tính cưỡng chế.
Vì khi áp dụng trên thực tế nó có sự động chạm trực tiếp đến quyền tự do thân thể,
bất khả xâm phạm về nơi ở, quyền được đảm bảo an tồn bí mật thư tín, điện tín của
cơng dân. Tuy nhiên, trong q trình khám xét, những đối tượng bị khám xét vẫn có
quyền bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình, và họ cũng có quyền được khiếu nại, tố
6


cáo đối với những trường hợp việc khám xét bất hợp pháp, khơng đúng trình tự, thủ tục
mà pháp luật quy định, hoặc khi căn cứ tiến hành khám xét chỉ do nhận định chủ quan
của CQĐT đưa ra.
Thứ ba, khám xét là một hoạt động phải do chủ thể có thẩm quyền mà Bộ luật tố
tụng hình sự quy định thì mới được phép thực hiện.
Những đối tượng nếu khơng phải là những chủ thể có thẩm quyền theo luật định thì
khơng được tiến hành khám xét. Ví dụ, trong siêu thị, khi nghi ngờ một người có hành vi

trộm cắp tài sản, nhân viên siêu thị khơng có quyền thực hiện hành vi khám người đối
với đối tượng bị nghi ngờ.
Chủ thể tiến hành khám xét là điều tra viên (điểm a khoản 1 điều 35 BLTTHS
2003). Bên cạnh đó, luật vẫn quy định cho một số chủ thể khác, không phải Cơ quan
điều tra được tiến hành khám xét trong những trường hợp đặc biệt, nhưng ngoài những
trường hợp đó ra, thì điều tra viên vẫn là chủ thể chính được tiến hành khám xét.
Thứ tư, khám xét là một hoạt động nghiệp vụ của điều tra viên.
Thực tiễn cho thấy, không phải mọi đối tượng khi bị khám xét đều có tinh thần hợp
tác, những đối tượng này có thể dùng những mánh khóe, những thủ đoạn, tinh vi xảo
quyệt để chống lại cán bộ điều tra nhằm che giấu sự thật, thậm chí là tiêu hủy tẩu tán đi
những tài liệu, đồ vật cần thiết cho q trình phá án. Đã có nhiều trường hợp, khi tiến
hành khám xét người đối tượng tình nghi vận chuyển heroin, đối tượng này đã nuốt số
heroin vào bụng, nhằm phi tang đi bằng chứng phạm tội. Cho nên, nếu chỉ đòi h i sự
tuân thủ chặt chẽ những quy định của pháp luật và phẩm chất đạo đức của cán bộ điều
tra khi tiến hành khám xét thì chưa đủ để đạt được mục đích của khám xét. Vấn đề quan
trọng quyết định sự thành công hay thất bại của công tác khám xét là sự kết hợp nhuần
nhuyễn các biện pháp nghiệp vụ, chiến thuật khám xét trong từng giai đoạn chuẩn bị
khám xét, tiến hành khám xét và kết thúc khám xét….đồng thời kết hợp với các biện
pháp điều tra khác như h i cung, đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện trường… Và
đối với từng trường hợp cụ thể sẽ áp dụng những phương pháp chiến thuật khác nhau
cho phù hợp với đối tượng. Việc vận dụng các hoạt động nghiệp vụ, chiến thuật sẽ giúp
7


cho hoạt động khám xét diễn ra hiệu quả, ngăn chặn những hành vi gian trá của đối
tượng. Tuy nhiên, hệ thống các chiến thuật, trình tự phải được sử dụng hết sức mềm dẻo,
linh hoạt và quan trọng nhất là không được trái với pháp luật. Do vậy, để đạt hiệu quả tối
đa trong cơng tác khám xét, địi h i ở năng lực của điều tra viên rất cao, điều tra viên
phải có trình độ văn hóa, pháp luật, nghiệp vụ cao, có nền tảng kiến thức sâu rộng về xã
hội, tâm lý, đồng thời có kinh nghiệm dày dặn trong công tác khám xét, nhất là luôn xác

định rõ mục đích, nhiệm vụ của khám xét, từ đó biết được những phương pháp, phương
tiện nào cần sử dụng để đạt được mục đích đã đề ra đó. Ngồi ra, trong q trình thực
hiện, điều tra viên phải luôn chấp hành một cách nghiêm chỉnh và vận dụng linh hoạt,
hiệu quả các quy định của pháp luật về khám xét.
Thứ năm, khám xét là một biện pháp điều tra có tính phức tạp.
Như đã phân tích ở trên, trong q trình khám xét, khơng ít trường hợp đối tượng
bị khám xét có thái độ rất bất hợp tác, thậm chí là có những đối tượng nguy hiểm có
hành vi hành hung, tấn công gây nguy hiểm cho các cán bộ điều tra, đối tượng có vũ
khí, cố tình chống trả khơng cho khám xét. Hoặc có những tình huống khi tiến hành
khám xét nơi ở, cả đối tượng và người thân đều cố tình vắng mặt, khơng để cho việc
khám xét được tiến hành…trong khi đó, điều tra viên – những người ln mong muốn
tìm ra sự thật của vụ án còn những đối tượng bị khám xét – là những người ln tìm
cách cản trở q trình tìm ra sự thật đó, vì vậy giữa hai bên thường xảy ra mâu thuẫn gay
gắt.
Hơn nữa, tính phức tạp còn thể hiện ở chỗ hoạt động này trực tiếp tác động tới
quyền tự do về thân thể, quyền được bất khả xâm phạm về chỗ ở và đồ vật, quyền được
đảm bảo an tồn bí mật thư tín của cơng dân, nên đây là hoạt động mang tính nhạy cảm
cao. Các đối tượng có thể lợi dụng điều này gây trở ngại cho hoạt động điều tra của các
điều tra viên. Vì vậy mỗi cuộc khám xét diễn ra là một điều không hề đơn giản, các cán
bộ điều tra cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thận, có kế hoạch khám xét, vận dụng
các chiến thuật khám xét phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Chỉ khi nào điều tra viên có
sự chuẩn bị, cũng như thiết lập kế hoạch cụ thể thì cuộc khám xét mới có hiệu quả. Mặt
8


khác, khi vận dụng các thủ thuật này cần phải phù hợp với những quy tắc đạo đức mang
tính nhân đạo, phù hợp với những yêu cầu của pháp luật, không trái pháp luật.
Thứ sáu, khám xét ch áp dụng với những đối tượng nhất định.
Đối tượng bị khám xét ở đây khơng chỉ là con người mà cịn là nơi ở, địa điểm, chỗ
làm việc và cả thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. Như vậy, phạm vi những đối tượng

có thể bị khám xét được mở rộng hơn nếu so với các hoạt động điều tra khác như h i
cung, đối chất, v.v…
Thứ bảy, khám xét là hoạt động điều tra được thực hiện bằng cách tìm tịi, lục sốt.
Đây là đặc trưng cơ bản của khám xét, là dấu hiệu để phân biệt với các hoạt động
điều tra khác. Nếu “h i cung” được tiến hành bằng cách h i, tác động vào tâm lý nhằm
khai thác thông tin của bị can, bị cáo về tội phạm, thì khám xét được tiến hành bằng cách
tìm kiếm, lục soát trực tiếp trên thân thể, tại nơi ở, nơi làm việc, trong thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm của một người, để thu được những tài liệu, đồ vật có liên quan đến
vụ án mà đối tượng cố ý che giấu, tàng trữ. Qua đó, cơ quan chức năng sẽ tìm được
những chứng cứ, vật chứng quan trọng có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Tuy
nhiên, việc khám xét khơng nhằm mục đích trừng trị, vì vậy khơng được lợi dụng biện
pháp này để trả thù, rửa hận đối tượng bị khám xét, thậm chí là tố cáo và vu khống đối
tượng, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
1.3. Các ngu ên t c ch đạo trong khám xét
Thứ nhất là nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, được quy định tại điều
3 BLTTHS 2003.
Cụ thể như sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của
Bộ luật này”. Đây là nguyên tắc đầu tiên và là nguyên tắc cơ bản nhất xun suốt tồn
bộ hoạt động tố tụng hình sự, và cũng là nguyên tắc mang tính chất bắt buộc, cơ bản của
khám xét . Theo đó, trong q trình tiến hành tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự, bởi lẽ mọi vi phạm pháp luật hoặc việc áp dụng pháp luật không
9


đầy đủ đều có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cơng
dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm lòng tin của nhân
dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. Mặt khác, việc nghiêm chỉnh và triệt để
tuân thủ các quy định của BLTTHS cũng là trách nhiệm của những người tham gia tố

tụng, tức là, ngoài việc thực hiện các quyền tố tụng của mình theo đúng trình tự, thủ tục
luật định họ phải nghiêm chỉnh chấp hành những nghĩa vụ của họ trong tố tụng mà pháp
luật đã quy định.
Như vậy, khi khám xét phải khám xét đúng đối tượng, đúng thẩm quyền và đúng
với thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định. Bởi vì đối tượng của hoạt động
khám xét, như đã nêu trên, là người, chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc, đồ vật, thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm – những đối tượng thuộc vào trường hợp bất khả xâm phạm, chỉ
trừ những trường hợp ngoại lệ. Do đó, khi tiến hành hoạt động này, đòi h i sự triệt để
tuân thủ pháp luật của cơ quan điều tra, không được xâm phạm tới quyền cơ bản của
công dân.
Nếu một khi việc khám xét tiến hành không đúng căn cứ, đối tượng hoặc thẩm
quyền thì hậu quả gây ra sẽ không nh , nhất là khi hoạt động này đe dọa và xâm phạm
một cách nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Ví dụ như điều tra
viên khơng thể chỉ vì nghi ngờ trong nhà đối tượng có cất giấu ma túy mà tiến hành lục
soát hoặc đập phá nơi ở của họ, mọi nhận định không thể chỉ xuất phát từ ý kiến chủ
quan hoặc nghi vấn đơn thần của cán bộ điều tra. Nói khác đi, khi tiến hành khám xét,
điều tra viên khơng được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức kh e, danh dự
và nhân phẩm của cơng dân.
Thứ hai là ngun tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm
của công dân.
Đây là nguyên tắc hiến định được ghi nhận tại điều 71 Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi, bổ sung năm 2001 và đã được cụ thể hóa tại điều 7 BLTTHS 2003. Cơng dân có
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức kh e, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Vì
vậy, trong quá trình tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được xâm phạm
10


tính mạng, sức kh e, danh dự, nhân phẩm, tài sản của những người tham gia tố tụng như
đánh đập, xúc phạm, truy bức bị can, bị cáo, hành hạ đối tượng bị khám xét… Mọi hành
vi xâm phạm tính mạng, sức kh e danh dự nhân phẩm và tài sản của những người tham

gia tố tụng tùy theo mức độ, sẽ bị xứ lý theo quy định của pháp luật.
Thứ ba là nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an tồn bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín của cơng dân, quy định tại điều 8 BLTTHS 2003.
Trên tinh thần của nguyên tắc này: “Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu người đó khơng đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện
thoại, điện tín của cơng dân được đảm bảo an tồn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc
bóc mở, kiểm sốt, thu giữ thư tín, điện tín của cơng dân phải do người có thẩm quyền
tiến hành theo quy định của pháp luật”. Theo đó, khi tiến hành tố tụng để kịp thời phá
hiện tội phạm, thu thập chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan
tiến hành tố tụng được phép tiến hành khám xét chỗ ở của cơng dân, thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện, v.v…theo quy định của BLTTHS 2003, nhưng chỉ
được thực hiện khi có căn cứ luật định, nghiêm cấm mọi hành vi khám xét, thu giữ trái
pháp luật thư tín, bưu kiện, bưu phẩm, v.v…
1.4. ai tr của hoạt động khám xét
1.4.1. ai tr của hoạt động khám xét
Thứ nhất, khám xét có vai trò quan trọng trong việc phát hiện, thu thập những tài
liệu, chứng cứ có ý nghĩa phục vụ cho việc điều tra làm rõ vụ án hình sự.
Thơng qua hoạt động khám xét ở những đối tượng khác nhau, cơ quan điều tra có
thể phát hiện và thu thập được những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa đối với hoạt động
điều tra, xử lý vụ án hình sự. Những tài liệu, chứng cứ đó có thể là vũ khí, công cụ,
phương tiện phạm tội, những tài sản bị bọn tội phạm chiếm đoạt, những vật mang dấu
vết tội phạm, những mẫu vật để nghiên cứu so sánh, những giấy tờ, tài liệu khác có liên
quan đến vụ án, thậm chí có thể là tử thi, các phần của tử thi. Những tài liệu, chứng cứ
đó là cơ sở để cơ quan điều tra vạch kế hoạch, phương hướng điều tra tiếp theo và tổ
chức các biện pháp điều tra phù hợp.
11


Thứ hai, khám xét có vai trị trong việc phát hiện những tài liệu, đồ vật cấm lưu
hành hoặc bảo đảm bồi thường thiệt hại.

Thông qua hoạt động khám xét có thể phát hiện, thu giữ những đồ vật, tài sản phục
vụ cho việc bồi thường thiệt hại hoặc những đồ vật, tài liệu thuộc loại cấm tàng trữ và
lưu hành.
Theo đó, trong q trình khám xét, cơ quan điều tra cần chú ý phát hiện và thu giữ
những vật là đối tượng của tội phạm hoặc những đồ vật, tài sản do mua bán, đổi chác
những vật đó mà có, để phục vụ cho việc thi hành án sau này. Ngoài ra, khi tiến hành
khám xét, nếu phát hiện được những đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ , lưu hành như tài
liệu phản động, văn hóa phẩm đồi trụy, vũ khí quân dụng, chất nổ, chất cháy, chất phóng
xạ, thì dù khơng có liên quan trực tiếp đến vụ án, cơ quan điều tra cũng phải thu giữ và
chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền quản lý.
Thứ ba, khám xét có vai trị hỗ trợ trong việc mở rộng điều tra.
Khi tiến hành hoạt động khám xét, cơ quan có thẩm quyền, chủ thể có thẩm quyền
có thể mở rộng điều tra, bởi vì bằng việc thu thập các chứng cứ mới từ những đối tượng
bị khám xét, có thể vạch ra phương hướng điều tra làm rõ những vấn đề cụ thể của vụ
án. Trong quá trình khám người hoặc khám nơi ở, chỗ làm việc, địa điểm, chỗ làm việc
của đối tượng, cơ quan điều tra có thể phát hiện ra những vật chứng mới mà khi tiến
hành các biện pháp điều tra khác chưa thu thập, xác minh được. Những tài liệu, chứng
cứ này có thể có ý nghĩa khá quan trọng trong việc phá án mà đối tượng cố tình giấu
diếm. Đây có thể là kết quả vượt ngoài sự mong đợi của cơ quan có thẩm quyền, chủ thể
có thẩm quyền, giúp họ mở ra một hướng điều tra mới để việc giải quyết vụ án được
tồn diện và chính xác hơn, hoặc thậm chí có thể giúp các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết các vụ án khác.
Thứ tư, khám xét có vai trị hỗ trợ các hoạt động điều tra khác trong phòng ngừa
tội phạm.
Khi tiến hành hoạt động khám xét, cơ quan có thẩm quyền có thể phát hiện kịp thời
bọn tội phạm đang có lệnh truy nã, hoặc thậm chí là những người bị bắt cóc đang bị
12


giam giữ, vì vậy, có thể ngăn chặn kịp lúc những tội phạm đang và sẽ thực hiện, đe dọa

nghiêm trọng đến sự an tồn của xã hội nói chung và người dân nói riêng, qua đó góp
phần vào cơng tác đấu trang phòng chống tội phạm hiện nay. Bên cạnh đó, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Ví dụ khi tiến hành khám xét chỗ ở, địa
điểm, cơ quan điều tra vơ tình phát hiện được đối tượng bị bắt cóc đang bị giam giữ và
tiến hành giải cứu thì khơng chỉ ngăn chặn được một hành vi phạm tội sắp diễn ra, mà
còn bảo vệ an tồn tính mạng, sức kh e cho đối tượng đang bị bắt.
1.4.2.

nghĩa của khám xét

Qua việc tìm hiểu những đặc điểm cơ bản cũng như vai trò của khám xét trong hoạt
động điều tra nói riêng và trong TTHS nói chung, khám xét đã phần nào thể hiện được
vai trị quan trọng của mình và mang những ý nghĩa tích cực, lớn lao cho việc giải quyết
vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, tồn diện.
Đặc biệt, khám xét có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người.
Trong khi tiến hành khám xét, cán bộ điều tra phải thực hiện trên cơ sở tuân thủ triệt để
pháp luật và tôn trọng quyền cơ bản của cơng dân, nghiêm cấm việc lợi dụng tính
“cưỡng chế” của biện pháp này để đe dọa, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người
dân, làm trái với tinh thần của Hiến pháp và pháp luật tố tụng Hình sự.
Ngồi ra, trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, khám xét cũng một phần
tạo điều kiện để tội phạm học hồn thành nhiệm vụ của mình tốt hơn thông qua việc nắm
bắt tâm lý các đối tượng. Bởi vì, trong quá trình khám xét, nếu nắm bắt được tâm lý của
người bị khám, các điều tra viên có thể dễ dàng khiến họ hợp tác, chỉ ra những tài liệu,
đồ vật đã cất giấu giúp cho việc khám được hiệu quả hơn.
1.5. Khám xét trong giai đoạn điều tra ở một số nư c trên thế gi i
Hiện nay trên thế giới dù vẫn còn tồn tại những ý kiến khác nhau về cách phân loại
các truyền thống pháp luật nhưng phần lớn đều thừa nhận sự tồn tại của bốn hệ thống
pháp luật sau: “ n lệ, Luật Châu âu lục địa, Luật Xã hội chủ nghĩa và Luật tôn giáo.”
[47-tr 89]


13


Các hệ thống pháp luật này về cơ bản không khác nhay nhiều về luật nội dung mà
sự khác biệt ở đây là luật hình thức (Luật TTHS). Nguyên nhân là do mỗi hệ thống pháp
luật khác nhau sẽ được xây dựng dựa trên mơ hình tố tụng và hình thức tố tụng khác
nhau, từ đó sẽ thiết lập nên các trình tự, thủ tục tố tụng phù hợp với mơ hình tố tụng đó.
Theo đó, hệ thống pháp luật án lệ thường sử dụng mơ hình tố tụng cơng bằng, hệ thống
pháp luật châu

u lục địa lại chọn mô hình tố tụng kiểm sốt tội phạm, thể hiện dưới

hình thức pha trộn để áp dụng. Hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa có nguồn gốc từ hệ
thống pháp luật châu
tụng như châu

u lục địa, vậy nên hệ thống luật này cũng sử dụng mơ hình tố

u lục địa. Riêng đối với mơ hình tố tụng của hệ thống luật tơn giáo lại

chọn hình thức kết hợp giữa buộc tội tư và quá trình xét xử kiểu thẩm vấn, từ đó tạo ra
mơ hình tố tụng đặc thù.
Như vậy, hiện nay trên thế giới dựa vào hai mơ hình tố tụng chính là kiểm sốt tội
phạm và cơng bằng để đánh giá sự khác nhau giữa các hệ thống pháp luật của các quốc
gia với nhau. Trong phạm vi khóa luận này, tác giả khóa luận muốn tìm hiểu những
điểm chính của pháp luật TTHS liên quan đến hoạt động khám xét trong giai đoạn điều
tra của một số quốc gia đại diện cho từng mơ hình tố tụng, chứ không đi sâu vào nghiên
cứu sự khác nhau giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới. Giáo sư James Clausse tại
Hội thảo khoa học về pháp luật do bộ Tư pháp và Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức
năm 1993 đã từng nói: “Sẽ là khơng đúng nếu áp đặt hệ thống pháp luật nước này vào

một nước khác, bởi lẽ hệ thống pháp luật là phải bản thân tự có” 22-tr3 . Nghĩa là, khi
xây dựng pháp luật cho quốc gia mình trong đó có vấn đề về khám xét trong giai đoạn
điều tra, các nhà làm luật cần dựa vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng quốc gia cụ thể
để có sự vận dụng linh hoạt và mềm dẻo chứ không thể áp dụng một cách rập khn,
máy móc theo khn mẫu nhất định.
Các quốc gia theo truyền thống án lệ: Khi nói đến hệ thống pháp luật

n lệ, các

nhà nghiên cứu và áp dụng pháp luật thường liên tưởng ngay đến quốc gia Anh, Mỹ.
Những quốc gia này được xem là cái nôi của hệ thống pháp luật

14

n lệ. Tuy nhiên, tác


giả chỉ xin được đề cập đến một số nét đặc trưng trong pháp luật Mỹ – quốc gia đại diện
cho hệ thống pháp luật được xây dựng dựa trên mơ hình tố tụng cơng bằng.
Theo các quy định pháp luật trong Tu chính án thứ 4 (Fourth Amendment) thuộc
Hiến pháp Mỹ, người dân Mỹ luôn được bảo vệ trước các hành vi thu giữ và khám xét
vô lý bởi các cơ quan chính phủ. Cụ thể tại điều 4 của Tu chính Hiến pháp này quy định:
“Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản kh i mọi sự
khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được
cấp nếu khơng có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần
miêu tả chính xác địa điểm khám xét, người và đồ vật bắt giữ”. Theo đó, một cá nhân
được Hiến pháp quy định cho quyền “không bị khám xét và tịch thu bất hợp lý”. Đây
được coi là một trong những quy tắc, nguyên tắc nền tảng của mơ hình TTHS Mỹ – quy
tắc về khám xét và bắt giữ.
Trên tinh thần của quy tắc này, việc khám xét và tịch thu tại nhà khi không có lệnh

do tịa án ban hành sẽ bị coi là bất hợp lý và vì thế nên hành vi này trái phép 12 . Tuy
nhiên việc khám người trong trường hợp một cá nhân bị bắt giữ mà khơng có lệnh bắt
giữ của tòa (“khám k m theo bắt giữ”) lại khơng địi h i phải có lệnh khám người do tòa
ban hành 13 . Tương tự, việc khám xét một xe ơ tơ cũng khơng cần phải có lệnh của tịa
án vì bản thân ơ tơ là vật tự chuyển động. Để tiến hành khám xét, dù có lệnh khám xét
hay khơng, thì một cảnh sát cần phải có “lý do chắc chắn” hoặc phải được sự đồng ý của
người bị khám xét, tức là “sẽ khơng có một lệnh nào được ban hành trừ phi có lý do chắc
chắn, căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận và đặc biệt là phải miêu tả địa điểm
khám xét, những người và vật sẽ bị bắt giữ”[43 . Như vậy, một viên cảnh sát Mỹ mỗi
khi muốn khám xét nhà nghi can, phải tuân theo các quy tắc rất chặt chẽ. Nếu vi phạm,
dù tang chứng vật chứng rành rành, bị cáo vẫn thốt tội. Cịn cảnh sát bị cáo buộc là
không tuân thủ các quy định của pháp luật. Nói như vậy, nhưng Tịa án tối cao cũng đã
quy định một trường hợp ngoại lệ của yêu cầu khám người dựa trên “lý do chắc chắn”.
Đó là khi một cảnh sát có “nghi ngờ hợp lý” cho rằng một cá nhân có thể đã tham gia

15


×