Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tội gián điệp theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN VĂN CHÁNH

TỘI GIÁN ĐIỆP
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TỘI GIÁN ĐIỆP
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hương
Học viên: Phan Văn Chánh
Lớp: Cao học Luật, khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi với sự


hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Thu Hương.
Các thơng tin trích dẫn trong Luận văn đã được nêu rõ nguồn gốc.
Các kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa được cơng bố
trong bất cứ cơng trình khoa học nào trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phan Văn Chánh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANQG:

An ninh quốc gia

ANĐT:

An ninh điều tra

BLHS:

Bộ luật Hình sự

CHXHCNVN:

Cộng hịa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


TAND:

Tịa án nhân dân

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................. 8
1.1. Một số vấn đề chung về tội gián điệp .......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tội gián điệp ............................................................................. 8
1.1.2. Vài nét về lịch sử tội gián điệp theo pháp luật hình sự Việt Nam............ 11
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội gián điệp ................................................... 17
1.1.4. Chính sách xử lý đối với tội gián điệp..................................................... 24
1.2. Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm khác theo Luật Hình sự
Việt Nam ............................................................................................................ 25
1.2.1. Phân biệt tội gián điệp với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia ........ 25
1.2.2. Phân biệt tội gián điệp với một số tội phạm khác liên quan ................... 30
1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội gián điệp ................ 31
1.3.1. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ...... 31
1.3.2. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga ................................ 33
1.3.3. Tội gián điệp trong Bộ luật hình sự Cộng hịa liên bang Đức ................ 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 37
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........... 38

2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về tội gián điệp theo luật hình sự Việt Nam..
............................................................................................................................ 38
2.1.1. Thực tiễn xử lý tội phạm gián điệp.......................................................... 38
2.1.2. Một số thuận lợi, khó khăn từ thực tiễn xử lý tội phạm gián điệp ........... 44
2.2. Một số bất cập trong quy định và áp dụng tội gián điệp theo luật hình sự
Việt Nam ............................................................................................................ 50
2.2.1. Bất cập trong quy định và áp dụng dấu hiệu định tội của tội gián điệp .. 50
2.2.2. Bất cập trong quy định và áp dụng tình tiết định khung về tội gián điệp 54


2.2.3. Bất cập trong quy định hình phạt và quy định miễn trách nhiệm hình sự
về tội gián điệp ................................................................................................. 55
2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội gián điệp.......................................................................................... 56
2.3.1. Sự cần thiết, yêu cầu của hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội gián điệp ......................................................................................... 56
2.3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của luật hình sự Việt Nam về
tội gián điệp ...................................................................................................... 61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, Nhà
nước là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn. Trong mỗi thời kỳ, Đảng và Nhà

nước ta đều có những định hướng đúng đắn để tạo nên sự nhất quán và tiếp tục thực
hiện đường lối đổi mới. Trong đường lối đối ngoại, Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục
khẳng định phương châm và định hướng lớn là đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trước yêu cầu đổi mới và tích cực
hội nhập sâu rộng với quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt được, cùng với đó là sự
gia tăng âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các loại tội phạm
trên tất cả các lĩnh vực và bằng mọi thủ đoạn, trong đó đặc biệt là tội phạm gián điệp.
Gián điệp là hoạt động bất hợp pháp, có thể gây ra những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng ảnh hưởng đến an ninh chính trị, quan hệ đối ngoại, thậm chí là đe
dọa trực tiếp đến sự tồn tại của chính quyền nhân dân. Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập của Việt Nam, hoạt động gián
điệp với quy mô ngày càng được mở rộng, phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày
càng tinh vi. Nhận thức được tính chất và mức độ đặc biệt nguy hiểm của loại tội
phạm này, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật cũng như công tác xử lý tội phạm gián điệp. Thực tế thời gian qua, công tác
điều tra, truy tố, xét xử với loại tội phạm này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,
thể hiện qua các vụ án, đối tượng phạm tội đã bị xử lý. Tuy nhiên, công tác xử lý tội
phạm gián điệp cịn gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong đó tồn tại những bất cập liên
quan đến quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng. Mặc dù BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) tiếp tục quy định và
có sửa đổi, bổ sung tội gián điệp tại Điều 110 thuộc chương XIII – Các tội xâm
phạm ANQG nhưng vẫn còn tồn tại một số nội dung chưa rõ ràng, cần phải tiếp tục
nghiên cứu và giải quyết như: sự giao thoa, chồng chéo dấu hiệu hành vi khách
quan; quy định tình tiết định khung giảm nhẹ chưa rõ ràng; xác định giai đoạn hoàn
thành của tội gián điệp chưa hợp lý… Dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật, xung quanh những vấn đề nêu trên còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau dẫn đến không thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
Thực tế đó đặt ra là cần nghiên cứu một cách thấu đáo, toàn diện những bất cập,
vướng mắc từ quy định cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự; từ đó tìm ra



2
giải pháp cho việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội gián điệp làm cơ
sở để nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh, xử lý tội phạm này.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Tội gián điệp theo luật hình sự Việt
Nam" là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần
hồn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm gián điệp trong
tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, tác giả nhận thấy từ trước đến nay đã
có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu liên quan đến tội gián điệp.
- Tội gián điệp đã được đề cập, phân tích trong các cơng trình nghiên cứu là
hệ thống giáo trình được sử dụng trong các cơ sở đào tạo luật học như: Trường Đại
học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam tập 2, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo
trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần tội phạm cụ thể, Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ Chí
Minh; Tổng cục Xây dựng lực lượng Cơng an nhân dân (2011), Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam – Phần tội phạm cụ thể, Nxb Công an nhân dân.
Về bình luận khoa học thì có một số cơng trình tiêu biểu như: ng Chu Lưu
(Chủ biên) (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (Chủ biên) (2010), Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên) (2017),
Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh; Trần Văn Biên, Đinh Thế
Hưng (đồng chủ biên) (2017), Bình luận Khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội.
Qua nghiên cứu các giáo trình, bình luận khoa học, các tác giả chỉ mới dừng
lại ở việc phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và chính sách xử lý các

tội phạm cụ thể, trong đó có tội gián điệp. Những cơng trình khoa học nêu trên làm
cơ sở cho tác giả nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội gián điệp
trong luật hình sự Việt Nam, từ đó có cơ sở để nhận định, đánh giá chính xác hơn
về quy định tội gián điệp trong luận văn.
- Ngồi các cơng trình khoa học là các giáo trình, bình luận khoa học cịn
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo và tham khảo có liên quan đến
tội gián điệp ở các góc độ và cấp độ khác nhau, điển hình như:


3
+ Sách chuyên khảo “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Duy Thn.1 Cơng trình đã nghiên cứu một
cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
tội xâm phạm ANQG theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) như về
lịch sử hình thành và phát triển, dấu hiệu pháp lý, cơ sở và kiến nghị hoàn thiện các
quy định về tội gián điệp trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Từ
nghiên cứu này, tác giả có được một cái nhìn khái qt về tội gián điệp trong luật
hình sự Việt Nam, làm cơ sở để nghiên cứu, hoàn thiện Luận văn.
+ Sách tham khảo “Công tác điều tra một số vụ án gián điệp” của tập thể
giảng viên trường Đại học An ninh nhân dân.2 Trong cơng trình này, các tác giả đã
nghiên cứu tương đối tồn diện về tình hình thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm gián điệp dựa trên số liệu thống kê các vụ án gián điệp từ năm 1995
đến 2015. Từ đó, các tác giả đã rút ra những nhận định, đánh giá, bài học kinh
nghiệm, trong đó có một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật hình sự trong xử lý tội gián điệp. Nghiên cứu này đã cung cấp
cho tác giả cơ sở đánh giá số liệu cũng như kiến thức làm nền tảng cho q trình
phân tích, đánh giá thực tiễn xử lý tội gián điệp trong Luận văn.
+ Luận án tiến sĩ Luật học: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
an ninh quốc gia trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Ngô Nhất Linh.3 Trong
Luận án này, trên cơ sở lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm ANQG, tác giả

làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong quy định về TNHS đối với các tội xâm
phạm ANQG và đề xuất các giải pháp hồn thiện TNHS về nhóm tội phạm này về
kỹ thuật lập pháp, hình phạt, quyết định hình phạt, các biện pháp tha miễn và các
giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội
xâm phạm ANQG, trong đó có tội gián điệp. Qua luận án này, luận văn kế thừa một
số nội dung về cơ sở và kiến nghị hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về
TNHS đối với tội phạm gián điệp.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm an ninh
quốc gia – những vấn đề đặt ra đối với công tác phòng ngừa tội phạm” của tác giả

1

Nguyễn Duy Thuân (Chủ biên) (2013), Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Trường Đại học An ninh nhân dân, Tp. Hồ Chí Minh.
2
Khoa ANĐT trường Đại học An ninh nhân dân (2015), Công tác điều tra một số vụ án gián điệp, Trường
Đại học An ninh nhân dân, Tp. Hồ Chí Minh.
3
Ngơ Nhất Linh (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong luật hình sự
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự, Viện hàn lâm khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội.


4
Nguyễn Thị Thu Hương (chủ nhiệm) và các tác giả.4 Trên cơ sở khái quát những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm xâm phạm ANQG, nhân thân người phạm
tội xâm phạm ANQG và phòng ngừa tội phạm xâm phạm ANQG, đề tài đã xây
dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm xâm ANQG.
Đặt biệt, đề tài đưa ra những giải pháp hồn thiện chính sách hình sự để tạo khung
pháp lý toàn diện cho việc nhận thức và áp dụng quy định của luật hình sự trong xử

lý người phạm tội xâm phạm ANQG, trong đó có tội gián điệp. Đề tài đã cung cấp
cho tác giả cơ sở đánh giá số liệu cũng như có cái nhìn bao qt hơn về các dấu hiệu
thuộc về chủ thể tội phạm, nhân thân người phạm tội gián điệp.
- Ngồi các cơng trình trên, còn nhiều bài viết, tham luận khoa học nghiên cứu
các quy định về tội gián điệp được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp lý, như:
+ Bài viết “Một số suy nghĩ để hồn thiện trách nhiệm hình sự tội gián điệp”
của tác giả Bạch Thành Định.5 Trên cơ sở đánh giá lý luận và thực tiễn áp dụng
TNHS về tội gián điệp, tác giả nêu lên một số suy nghĩ nhằm hoàn thiện quy định
về TNHS của tội gián điệp. Bài viết là cơ sở tham khảo trong q trình nghiên cứu
và kiến nghị hồn thiện quy định về TNHS của tội gián điệp trong Luận văn.
+ Bài viết “Về thời điểm hoàn thành tội gián điệp (Điều 80 BLHS 1999)” của
tác giả Lê Đăng Doanh.6 Bài viết bàn về những bất cập và định hướng hoàn thiện quy
định của luật hình sự về xác định thời điểm hoàn thành của tội gián điệp. Qua nghiên
cứu bài viết giúp tác giả có cơ sở tham khảo trong đánh giá và kiến nghị hoàn thiện
quy định của BLHS hiện hành về xác định giai đoạn hoàn thành của tội gián điệp.
+ Bài viết “Hành vi khách quan của tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Duy Thuân.7 Bài viết đề cập đến tính hợp lý, khoa học về
quy định hành vi khách quan của tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam. Nghiên
cứu nội dung của bài viết là cơ sở cho việc nghiên cứu và hoàn thiện quy định về
dấu hiệu hành vi khách quan của cấu thành tội gián điệp trong Luận văn.
+ Bài viết “Tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
nay” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn.8 Bài viết đã phân tích, đánh giá về quá trình
4

Nguyễn Thị Thu Hương (chủ nhiệm) (2017), Nhân thân người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia –
những vấn đề đặt ra đối với công tác phòng ngừa tội phạm, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an.
5
Bạch Thành Định (2000), “Một số suy nghĩ để hồn thiện trách nhiệm hình sự Tội gián điệp”, Tạp chí Cơng
an nhân dân, (05), tr.35-37.
6

Lê Đăng Doanh (2001), “Về thời điểm hồn thành tội gián điệp”, Tạp chí Toà án nhân dân, (7), tr. 4-6.
7
Nguyễn Duy Thuân (2003), “Hành vi khách quan của tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Tịa án nhân dân, (01), tr16-17.
8
Nguyễn Anh Tuấn (2012), “Tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, (4), tr.57-63.


5
hoàn thiện quy định của tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
nay cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp. Nội dung bài viết là cơ sở để tác giả tham
khảo trong nghiên cứu và làm rõ nội dung về lịch sử lập pháp của tội gián điệp
trong Luận văn.
+ Bài viết “Hướng hoàn thiện các quy định cấu thành tội gián điệp trong Bộ
luật Hình sự” của đồng tác giả Hồ Thế Hòe và Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan.9 Nội
dung bài viết tập trung đánh giá một số bất cập về cấu thành tội gián điệp trong
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và kiến nghị hướng hoàn thiện quy
định cấu thành tội gián điệp trong luật hình sự Việt Nam. Bài viết là cơ sở quan
trọng giúp tác giả đánh giá toàn diện, khách quan hơn những bất cập, vướng mắc
trong quy định của BLHS hiện hành về tội gián điệp làm cơ sở cho những kiến nghị
hoàn thiện quy định của tội gián điệp trong BLHS 2015.
Nói tóm lại, qua nghiên cứu tác giả thấy rằng các nhà nghiên cứu chỉ mới đề
cập một cách khái quát ở các góc độ khác nhau liên quan đến tội gián điệp. Các tư
liệu và cơng trình nghiên cứu nêu trên chưa làm rõ được tổng thể nội dung lý luận
về tội gián điệp trong Luật hình sự Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng quy định
này trong xử lý tội gián điệp. Các cơng trình nghiên cứu có liên quan nêu trên cũng
chưa đánh giá được toàn diện những khó khăn, bất cập, vướng mắc của quy định và
áp dụng quy định về tội gián điệp trong Luật Hình sự Việt Nam trên phạm vi cả
nước nên chưa đưa ra được những giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy

định này. Với diễn biến phức tạp trong thực tiễn đấu tranh, xử lý tội gián điệp
những năm gần đây và những vấn đề đặt ra cần giải quyết về mặt lý luận địi hỏi cần
có một cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện quy định của pháp luật
thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp hồn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội gián điệp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng các quy định của Luật Hình sự Việt Nam về tội gián điệp, đề
tài đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về tội gián điệp trong BLHS.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đặt ra, tác giả đặt ra cho mình
những nhiệm vụ phải giải quyết sau đây:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội gián điệp.
9

Hồ Thế Hòe – Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan (2013), “Hướng hoàn thiện các quy định cấu thành tội gián điệp
trong Bộ luật Hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr.30-34.


6
+ Khảo sát, làm rõ thực tiễn áp dụng quy định của luật hình sự Việt Nam về
tội gián điệp; đưa ra nhận xét, đánh giá về những bất cập, vướng mắc trong quy
định và những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn áp dụng quy định của Luật Hình
sự Việt Nam về tội gián điệp.
+ Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị góp phần hồn thiện quy định về tội gián
điệp trong BLHS Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định và thực tiễn áp dụng
quy định của Luật Hình sự Việt Nam về tội gián điệp.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu các vụ án gián điệp trên phạm vi cả

nước, tập trung vào những vụ án lớn, điển hình.
+ Về thời gian: Luận văn phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định
về tội gián điệp trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm gián điệp. Trong quá trình nghiên
cứu, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích: Tác giả tiến hành phân tích các tài liệu như giáo
trình, bình luận khoa học, sách tham khảo, sách chuyên khảo, bài viết, đề tài nghiên
cứu khoa học liên quan đến quy định pháp luật về tội gián điệp, các bản án đã xét
xử về tội gián điệp, hoạt động đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp.
- Phương pháp tổng hợp: Tiến hành tổng hợp những các số liệu từ các Kết
luận điều tra, Cáo trạng, Bản án về tội gián điệp để đưa ra nhận xét, đánh giá về
thực tiễn áp dụng pháp luật. Tổng hợp quan điểm của các chuyên gia, thông tin từ
các nguồn tài liệu thu thập được.
- Phương pháp so sánh: So sánh đối chiếu các quy phạm pháp luật hình sự về
tội gián điệp qua các thời kỳ, giữa tội gián điệp và các tội phạm có liên quan trong
BLHS. Tiến hành so sánh những điểm khác biệt và tương đồng của pháp luật hình
sự một số quốc gia trên thế giới và pháp luật hình sự nước ta về tội gián điệp. Từ đó
đưa ra những nhận xét, đánh giá, rút ra những ý kiến, đề xuất phù hợp, khách quan.


7
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu tội gián điệp phải đặt trong hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu tiến trình hình thành và phát
triển qua từng thời kỳ của quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội gián điệp.
- Phương pháp chuyên gia: Học viên sử dụng phương pháp này để thu thập
những quan điểm, đánh giá, ý kiến của các chuyên gia về hoạt động gián điệp, về
thực tiễn đấu tranh, xử lý tội gián điệp để tìm ra giải pháp cho đề tài.

6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
tội gián điệp. Qua phân tích, đánh giá tồn diện, có hệ thống những thuận lợi, khó
khăn, bất cập, vướng mắc trong quy định và áp dụng quy định tội gián điệp, Luận
văn đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật hình sự về tội gián điệp.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần phục vụ cho cơng tác lập pháp
và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan chức năng trong
việc đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp ở nước ta hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài liệu
tham khảo cho các cơng trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên. Luận văn
cịn có thể làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa học, các sinh viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh và các cán bộ thực tiễn (Luật sư, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán…) trong nghiên cứu cũng như thực tiễn công tác.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung Luận văn được cấu trúc thành hai chương:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tội gián điệp theo luật Hình sự Việt Nam
- Chương 2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về tội
gián điệp theo Luật hình sự Việt Nam


8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung về tội gián điệp
1.1.1. Khái niệm tội gián điệp
Đối với nhà nước CHXHCNVN, giữ vững ANQG, đảm bảo sự ổn định chính
trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các
thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc

đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm xâm phạm ANQG ở Việt Nam diễn biến
rất phức tạp. ANQG là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước CHXHCNVN, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc10. Các tội xâm phạm ANQG là những hành vi xâm
phạm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lực lượng
quốc phòng, xâm phạm chế độ XHCN; đe dọa sự tồn tại và vững mạnh của chính
quyền nhân dân. Các tội xâm phạm ANQG có tính nguy hiểm rất cao, được đặt lên
hàng đầu trong phần các tội phạm cụ thể của luật hình sự, với nhiều chế tài nghiêm
khắc. Trấn áp mọi hoạt động xâm phạm, uy hiếp sự tồn tại và vững mạnh của chính
quyền nhân dân là một trong những biện pháp tích cực tăng cường sự vững mạnh
của Nhà nước. Sự xâm phạm, uy hiếp đó có thể thực hiện từ phía bên trong đất
nước của lực lượng phản động nội địa, xâm phạm an ninh đối nội, từ phía bên ngồi
của lực lượng phản động quốc tế hoặc các thế lực thù địch khác, xâm phạm an ninh
đối ngoại hoặc từ cả hai phía câu kết với nhau, xâm phạm cả an ninh đối nội lẫn an
ninh đối ngoại, điển hình là tội phạm gián điệp. Tội gián điệp là một trong các tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm ANQG Việt Nam.
Hiện nay, bàn về thuật ngữ “gián điệp” có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Trường hợp thứ nhất, gián điệp được hiểu là người nhận cộng tác, hoạt động cho cơ
quan tình báo của một nước, tiến hành những hoạt động như thu thập tin tình báo,
gây cơ sở, liên lạc gián điệp và phá hoại chống lại nước khác; người nhận cộng tác,
hoạt động cho cơ quan tình báo của một nước có thể được lơi kéo, tuyển lựa hay tự
nguyện cộng tác11. Gián điệp là người trong nước hay người nước ngoài nhận làm
việc cho cơ quan đặc biệt nước ngoài và thực hiện một trong các hành vi: thu thập
tin tình báo, hoạt động phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động phá hoại; chỉ điểm,
10
11

Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Luật An ninh quốc gia (Điều 3)
Nguyễn Duy Thuân (Chủ biên) (2013), tlđd (1).



9
dẫn đường hoặc thực hiện các hành vi khác giúp người nước ngồi hoạt động tình
báo; cung cấp bí mật quốc gia cho nước ngoài, cung cấp tin, tài liệu cho nước ngồi
để họ sử dụng chống lại lợi ích quốc gia12. Gián điệp theo giải thích trong Đại từ
điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên cũng được hiểu là “Kẻ (người) do
địch thả vào để do thám tình hình qn sự, chính trị, kinh tế, và để phá hoại”13.
Trong trường hợp này, gián điệp được hiểu theo nghĩa là tên gián điệp, có thể là tên
tình báo chuyên nghiệp hoặc là tên cơ sở gián điệp.
Ở góc độ khác, Gián điệp được hiểu là hành vi hoạt động tình báo, phá hoại
hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước CHXHCNVN, gây cơ
sở hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám
báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước
ngồi hoạt động tình báo, phá hoại; cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật
Nhà nước cho nước ngoài; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích
để nước ngồi sử dụng chống nước CHXHCNVN14. Từ điển Luật học của Viện
Khoa học pháp lý cũng lý giải gián điệp là hành vi thu thập, cung cấp cũng như
hành vi khác liên quan đến việc thu thập, cung cấp các bí mật Nhà nước cũng như
các thơng tin khác giúp cho nước ngồi chống lại Nhà nước CHXHCNVN. Gián
điệp là hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG 15. Trong trường hợp này,
“gián điệp” được hiểu là xử sự cụ thể của con người (hành vi). Và những hành vi
khách quan đặc trưng này đã được quy định về tội gián điệp trong Luật Hình sự
Việt Nam. Trong luật hình sự Việt Nam, tội gián điệp được định danh rõ ràng kể từ
khi Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 có hiệu lực. Trong BLHS
năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, tội gián điệp cùng được quy định
là tội phạm thuộc Chương “Các tội xâm phạm ANQG”.
Như vậy, trong những thời điểm khác nhau, thuật ngữ “gián điệp” có thể
được sử dụng để phản ánh tên gián điệp hoặc hành vi khách quan trong cấu thành
tội gián điệp. Qua nghiên cứu cho thấy giữa tên gián điệp và tội gián điệp thường có

mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên cũng cần phân biệt tên gián điệp và tội gián
điệp. Tên gián điệp có thể thực hiện rất nhiều hoạt động chống phá như thu thập
tình báo, phá hoại, bạo loạn, phá rối an ninh, tuyên truyền chống Nhà nước, khủng
bố nhằm chống chính quyền nhân dân… Tên gián điệp có thể là nhân viên tình báo
12

Bộ Công an Viện chiến lược và khoa học Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.207.
13
Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr.730.
14
Nguyễn Ngọc Điệp (2017), Bình luận khoa học phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa
đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Thế giới, tr.11.
15
Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư Pháp) (2006), Từ Điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.293.


10
chuyên nghiệp hoặc các đối tượng thuộc mạng lưới gián điệp của các cơ quan đặc
biệt nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hoặc bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Tên
gián điệp có thể phạm tội gián điệp hoặc không. Để tên gián điệp trở thành chủ thể
của tội gián điệp thì tên gián điệp phải là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có
năng lực trách nhiệm hình sự và đã thực hiện hành vi khách quan của tội gián điệp
theo quy định của BLHS Việt nam. Do vậy, chủ thể của tội gián điệp có thể khơng
phải là tên tình báo chun nghiệp của các cơ quan tình báo nước ngồi mà chỉ là
người bình thường16.
Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm về tội gián điệp chưa được một văn bản quy
phạm pháp luật nào chính thức đề cập tới. Về mặt khoa học pháp lý hình sự đã có
một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến việc làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm
tội gián điệp. Các tác giả của Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Đại học luật Hà

Nội đưa ra khái niệm: Tội gián điệp là hành vi của cơng dân, người nước ngồi,
người khơng có quốc tịch hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động
tình báo, phá hoại chống Nhà nước CHXHCNVN. Tội gián điệp cũng có thể là
hành vi của cơng dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự
chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc
giúp người nước ngồi hoạt động tình báo, phá hoại; cung cấp hay thu thập nhằm
cung cấp bí mật Nhà nước cho nước ngoài hoặc những tin tức, tài liệu khác để nước
ngoài sử dụng chống lại nước CHXHCNVN17. Các tác giả của Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam, Tổng cục xây dựng lực lượng công an nhân dân – Bộ Công an đưa ra
khái niệm: Tội gián điệp là hành vi của người nước ngồi hoạt động tình báo, phá
hoại chống nước CHXHCNVN hoặc công dân Việt Nam gây cơ sở để hoạt động
tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngồi hoặc có hành vi chỉ điểm, chứa
chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngồi hoạt động tình
báo, phá hoại hoặc có hành vi cung cấp, thu thập nhằm cung cấp tin tức, tài liệu bí
mật Nhà nước hoặc khơng thuộc bí mật Nhà nước cho nước ngoài để họ thực hiện
chống nước CHXHCN Việt Nam18. Tác giả Lê Cảm thì đưa ra khái niệm tội gián
điệp: Tội gián điệp là việc thực hiện bất kì hành vi nào (được liệt kê trong điều luật)
của người nước ngồi hoặc người khơng có quốc tịch nhằm chống phá nước
CHXHCNVN. Tội gián điệp là một tội được quy định trong nhóm các tội xâm
phạm ANQG. Tội gián điệp đe dọa sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, sự ổn

16

Nguyễn Duy Thuân (2003), tlđd (7), tr16.
Trường Đại học luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội.
18
Tổng cục xây dựng lực lượng Công an nhân dân – Bộ Cơng an (2011), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam –
Phần các tội phạm, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.11.
17



11
định về an ninh đối nội và an toàn đối ngoại19. Như vậy, qua khảo sát, đánh giá một
số công trình nghiên cứu khác nhau, nhiều tác giả đã đưa ra các khái niệm khác
nhau liên quan đến tội gián điệp nhưng về cơ bản, các nội dung được phản ánh
trong các khái niệm đều dựa trên cơ sở quy định của tội gián điệp trong luật hình sự.
Việc xác định đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm tội gián điệp có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong thống nhất nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự
về tội phạm này. Dựa trên nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý hình sự cũng như
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, có thể đưa ra khái niệm về tội
gián điệp làm cơ sở nghiên cứu, như sau: Tội gián điệp là hành vi hoạt động tình
báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự
chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc
thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại; cung
cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho nước ngồi; thu thập, cung
cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngồi sử dụng chống nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do người nước ngoài, người khơng có quốc tịch
hoặc cơng dân Việt Nam thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự vững mạnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với mục đích chống chính quyền nhân dân.
1.1.2. Vài nét về lịch sử tội gián điệp theo pháp luật hình sự Việt Nam
Tình báo, gián điệp sớm được thừa nhận như là một công cụ không thể thiếu
trong thuật lãnh đạo đất nước, trong thời chiến hay kể cả thời bình đối với bất kỳ
quốc gia nào. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, những thành tựu và kinh nghiệm về
lập pháp hình sự có vị trí và vai trị rất quan trọng. Nghiên cứu tội gián điệp trong
Luật Hình sự Việt Nam khơng thể khơng tìm hiểu về lịch sử lập pháp hình sự nói
chung và tội gián điệp nói riêng. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển tội
gián điệp có ý nghĩa trong nhận thức những giá trị lịch sử lập pháp hình sự để lại;

trên cơ sở đó kế thừa, phát huy có hiệu quả kinh nghiệm lập pháp q giá của lịch
sử; và từ đó tìm ra những giải pháp đáp ứng yêu cầu cải cách, hoàn thiện quy định
pháp luật hình sự trong tình hình mới. Về cơ bản, nghiên cứu lịch sử quá trình hình
thành và phát triển tội gián điệp có thể chia thành các giai đoạn như sau:

19

Lê Cảm (2007), Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội.


12
- Giai đoạn trước năm 1945
Pháp luật thời kỳ nhà Ngơ, nhà Đinh và nhà Tiền Lê sử dụng hình thức tục lệ
là chủ yếu. Việc quy định hành vi nào là tội phạm và hình phạt được áp dụng phụ
thuộc vào ý chí nhà vua hay các viên quan đứng đầu khu vực. Nghiên cứu tư liệu
pháp luật Nhà nước thời Lý – Trần – Hồ (từ thế kỷ XI đến đầu thế kỉ XV) mặc dù
còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, qua tìm hiểu cùng với sự phát triển của Nhà nước
Trung ương tập quyền thì hoạt động lập pháp cho thấy thời kỳ này đã bắt đầu phát
triển. Pháp luật thời Lý cũng như thời Trần hoặc nhà Hồ trước hết là bảo vệ quyền
lợi tầng lớp trên trong xã hội và nhà nước Trung ương tập quyền. Việc quy định các
tội thập ác phán ánh rất rõ ý chí của Nhà nước trong thời kỳ này. Pháp luật quy định
các tội thập ác: phản quốc, đại nghịch, giết vua, giết cha mẹ, nổi loạn, phản bội,
hung ác bạo nghịch, khơng có đạo đức, bất kính, bất hiếu, loạn luân. Những hành vi
chống đối lại Nhà nước Trung ương tập quyền thời kỳ này như phản quốc, đại
nghịch, giết vua là những tội xếp hàng đầu trong các tội thập ác và bị áp dụng các
hình phạt rất nghiêm khắc. Quy định này cho thấy pháp luật về tội gián điệp đã từng
bước hình thành, tuy giai đoạn này vẫn chưa định danh rõ ràng về tội gián điệp.
Đến thời Lê, trong bộ Lê triều hình luật hay Luật Hồng Đức20, Điều Nhị bá
ngũ thập ngũ điền trong chương ghi chép về việc qn chính có nội dung là: “Chư

mật hữu chinh thảo, nhi các tắc tiêu tức cập dữ hóa ngoại giao thơng vi tác gián
điệp giả, trảm, tri tình dung chỉ giá, dữ đồng tội”; và được dịch nghĩa là “Khi cần
đánh dẹp bí mật mà ai báo tin cho giặc biết hoặc làm gián điệp, thơng đồng với
người ngồi thì bị chém. Ai biết mà dung túng thì cùng tội”. Cụm từ “gián điệp”
xuất hiện lần đầu tiên trong bộ luật này, tuy chưa khái quát về hành vi gián điệp
nhưng cũng đã có những tiến bộ so với các thời kỳ trước và có giá trị đặc biệt trong
lịch sử pháp luật Việt Nam. Lê triều hình luật quy định 5 hình phạt bao gồm: Xuy Trượng - Đồ - Lưu - Tử; trong đó, tội gián điệp quy định hình phạt là tử hình – loại
hình phạt nghiêm khắc nhất. Nghiên cứu Bộ luật Hoàng việt luật lệ, hay gọi là Bộ
luật Gia Long21 thời kỳ nhà Nguyễn cũng khơng có quy định cụ thể về tội gián điệp
nhưng có quy định một số tội chống chính quyền như mưu phản, mưu đại nghịch,
phản bội. Chẳng hạn, một số tội chống chính quyền tại Điều 223 và 224 – Mưu đại
nghịch, Hoàng việt luật lệ quy định: “Phàm kẻ mưu phản không làm lợi cho đất
nước, mưu hại xã tắc và đại nghịch khơng có lợi đối với vua, mưu phá huỷ tôn
miếu, sơn lăng và cung quyết. Chỉ nhúng tay vào âm mưu mà khơng chia cầm đầu
hay tịng phạm đã, hay chưa làm đều bị xử tử bằng lăng trì…”.
20

Lê Quốc Thắng (1997), Lê triều Hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Văn hóa – thơng tin, Hà Nội, tr. 145-146.
Nguyễn Văn Thành (1994), Hồng việt luật lệ (Luật hình triều Nguyễn), Nxb Văn hóa – thơng tin, Hà Nội,
tr. 183-184.
21


13
Từ những nội dung nghiên cứu nêu trên, có thể thấy quy định về tội gián
điệp ở giai đoạn này cịn mang tính sơ khai, chưa có văn bản chun biệt, chưa có
điều luật cụ thể. Tuy nhiên, đây chính là cơ sở có ý nghĩa quan trọng để các giai
đoạn lập pháp sau này kế thừa.
- Từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa trong Bộ luật hình sự năm 1985
Sau cách mạng Tháng 8 thành công, ngày 02/9/1945 nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời cùng lúc phải đấu tranh chống lại các hoạt động của kẻ thù bên trong
và bên ngồi, trong đó có hoạt động tình báo, phá hoại của các cơ quan tình báo nước
ngoài, các tổ chức phản cách mạng. Để đấu tranh, xử lý có hiệu quả đối với các đối
tượng phạm tội nói chung và gián điệp nói riêng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật hình sự, trong đó có những quy phạm pháp luật về tội gián điệp. Ngày
14/02/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 21- SL về việc trao quyền cho
tòa án quân sự; tại điều 2 Sắc lệnh quy định như sau: “Tòa án quân sự xử tất cả các
người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương lịch năm 1945, có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Từ năm 1948, thực dân Pháp thực hiện chủ trương tăng cường hoạt động do
thám, gián điệp, gây tổn thất nhiều cho cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó,
Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 146 – SL ngày 02/03/1948 quy định về tịch
thu gia sản người phạm tội gián điệp hay phản quốc và một loạt Sắc lệnh về việc
giữ gìn bí mật Nhà nước nhằm xử lý nghiêm khắc những người phạm tội gián điệp
cũng như bảo vệ bí mật Nhà nước. Điển hình như Sắc lệnh số 69 – SL ngày
1/7/1949 về việc trừng trị các hành vi tiết lộ bí mật quốc gia (Điều 4): “Ai phạm vào
một trong những hành vi dưới đây sẽ bị truy tố trước tòa án như tội phản quốc: 1 –
Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho địch, hay là cho tay sai của địch; 2 – Lợi
dụng bí mật quốc gia để lấy lợi; 3 – Dị xét bí mật quốc gia, mua, lấy cắp những tài
liệu bí mật quốc gia”. Hoặc như Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/1/1953 trừng trị
những tội phạm đến an tồn Nhà nước, chính sách, hoạt động đối nội và đối ngoại
của Việt Nam. Tại Điều 7 của Sắc lệnh này, hành vi xâm phạm an toàn thơng tin, tài
liệu thuộc bí mật quốc gia tiếp tục được quy định cụ thể như: “Cố ý tiết lộ hoặc bán
bí mật quốc gia cho địch”, “Dị xét bí mật quốc gia”, “Làm liên lạc đưa thư, tài liệu,
tin tức, đưa người cho địch”22. Ngoài ra, Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật quy định và xử lý những hành vi có liên quan đến tội phạm gián điệp
trong giai đoạn này như: Sắc lệnh số 126 ngày 17/07/1950 về bí mật cơng văn, thư
tín; Luật cải cách ruộng đất năm 1953 có quy định về xử lý bọn Việt gian; Sắc lệnh
số 267 ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của
22


Sắc lệnh 133/SL/53 ngày 20/1/1953 về việc trừng trị các tội phạm về an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại.


14
Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách Nhà
nước. Các quy định nêu trên đã thể hiện sự tiến bộ đặc biệt quan trọng trong lịch sử
lập pháp về tội gián điệp. Tuy nhiên, do tội phạm và hình phạt thời kỳ này được quy
định trong nhiều văn bản pháp luật hình sự đơn hành, vì vậy dẫn tới khó khăn trong
việc thống nhất và áp dụng pháp luật hình sự.
Ngày 30/10/1967 Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III thơng qua “Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng”. Đây là văn bản có ý nghĩa trọng nhất trong
giai đoạn này23. Pháp lệnh định danh cụ thể các tội phản cách mạng và nguyên tắc
trừng trị những tội phản cách mạng. Pháp lệnh này đã quy định tội gián điệp tại
Điều 5 Mục 2 – Tội phạm và hình phạt. Tại Điều 5 của pháp lệnh quy định rõ tên
gọi của tội danh cũng như quy định cơ bản về cấu thành tội phạm và có sự phân hóa
vị trí, vai trò, mức độ gây thiệt hại của từng hành vi mà người phạm tội phải chịu
mức hình phạt khác nhau. Điều 5 Pháp lệnh đã quy định những hành vi khách quan
cụ thể của tội gián điệp bao gồm: Cung cấp, chuyển giao hoặc lấy cắp, thu thập, cất
giữ để cung cấp, chuyển giao những bí mật Nhà nước, bí mật quân sự cho bọn đế
quốc và bè lũ tay sai của chúng, cho cơ quan tình báo nước ngoài; Nhận chỉ thỉ của
nước ngoài, tổ chức người điều tra tình báo hoặc tiến hành những hoạt động phản
cách mạng khác; Chỉ điểm cho bọn xâm lược ném bom, bắn phá; Nhận chỉ thị của
nước ngoài, thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu tuy khơng thuộc bí mật nhà nước,
nhưng để nước ngoài sử dụng gây thiệt hại cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Trong giai đoạn này, pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng là một công cụ sắc
bén để bảo vệ an ninh đối nội và đối ngoại của Nhà nước; là cơ sở pháp lý quan
trọng trong đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp.
Như vậy, có thể thấy những văn bản pháp luật trên mặc dù còn hạn chế về kỹ
thuật lập pháp cũng như nội dung quy định nhưng đã đáp ứng được yêu cầu của

cuộc đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp ở giai đoạn lịch sử khác nhau. Đồng thời,
những văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các nhà lập pháp xây dựng
quy định tội gián điệp trong BLHS năm 1985 ở lần pháp điển hóa đầu tiên.
- Từ pháp điển hóa trong Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
Sau ngày 30/4/1975, đất nước ta thống nhất, tuy nhiên, đế quốc Mỹ vẫn thể
hiện âm mưu, ý đồ quay trở lại và câu kết với các thế lực thù địch tiến hành cuộc
chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống cách mạng Việt Nam. Một số văn bản pháp
luật trong thời kỳ này thể hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước ta trong tập
trung trấn áp bọn gián điệp Mỹ, nhiệm vụ trung tâm là phải tập trung bóc gỡ, xử lý
23

Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967


15
hệ thống an ninh, tình báo, gián điệp, nội gián còn đang lẩn trốn. Chẳng hạn như sắc
lệnh số 03 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam
về hoạt động cụ thể bảo vệ chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, trước yêu cầu,
nhiệm vụ mới của cách mạng, những văn bản quy phạm pháp luật đơn hành quy
định về đấu tranh, xử lý tội gián điệp đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập nhất định.
Trước yêu cầu đó, ngày 27/06/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VII đã thơng qua BLHS năm 1985, có hiệu
lực từ ngày 01/01/1986. BLHS năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu
của lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Trong đó, tội gián điệp được quy định tại
Điều 74 Mục A – Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG thuộc Chương 1 –
Phần các tội phạm của bộ luật này:
1- Người nào có một trong những hành vi sau đây thì bị phạt tù mười hai
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo,
phá hoại chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

b) Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước
ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực
hiện hành vi khác giúp người nước ngồi hoạt động tình báo, phá hoại;
c) Cung cấp hoặc thu nhập nhằm cung cấp bí mật Nhà nước cho nước
ngoài; cung cấp tin tức, tài liệu, khơng thuộc bí mật Nhà nước để nước
ngồi sử dụng chống nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2- Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười lăm năm.
3- Người nào đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ
được giao và tự thú, thành thật khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thì được miễn trách nhiệm hình sự.
So với các văn bản pháp luật trước khi pháp điển hóa lần đầu tiên này, điều
luật đã quy định cụ thể về tội gián điệp, xác định rõ ràng hơn về hành vi khách quan
của tội phạm và đưa ra mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tạo cơ sở vững chắc cho đấu tranh, xử lý tội
phạm này một cách hiệu quả. Điều 74 BLHS 1985 về tội gián điệp cũng đã quy
định một khoản về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự nhằm thực hiện chính sách
phân hóa trách nhiệm hình sự, thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan hồng trong phòng
ngừa, đấu tranh chống gián điệp. Quy định về tội gián điệp trong BLHS 1985 đã thể
hiện sự hoàn thiện hơn về nội dung và kể cả kỹ thuật lập pháp so với các văn bản
pháp luật trước đây.


16
Trong vòng 15 năm kể từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến năm 1999, Quốc
hội nước CHXHCNVN đã tiến hành 4 lần sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ
luật; tuy nhiên, quy định về tội gián điệp trong Bộ luật khơng có sự thay đổi. Ngày
21/12/1999, Quốc hội nước CHXHCNVN khóa X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua
BLHS năm 1999, thay thế cho BLHS năm 1985. Tội gián điệp được quy định tại
Điều 80 thuộc Chương Các tội xâm phạm ANQG của Bộ luật này. Và sau mười năm

thi hành, ngày 29/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm
1999. So với quy định của BLHS năm 1985 thì BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã được nhà làm luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung, bao gồm: cụm từ “tin
tức, tài liệu khác” [điểm c, khoản 1, điều 80] được dùng thay thế cho “tin tức, tài liệu
khơng thuộc bí mật Nhà nước”; bổ sung vào điểm c khoản 1 điều 80 cụm từ “nhằm
mục đích” để thuận lợi hơn cho quá trình chứng minh ý thức chống chính quyền nhân
dân của người phạm tội. Nhìn chung, tội gián điệp trong BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) về cơ bản cũng khơng có nhiều thay đổi so với BLHS năm 1985.
Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm
2009) đã có những tác động tích cực đối với cơng tác phòng, chống tội phạm. Tuy
nhiên, xuất phát từ những hạn chế, bất cập nhất định đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo
mơi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền
của người dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương xây dựng, ban hành
BLHS mới nhằm thay thế BLHS năm 1999. Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XIII đã thơng qua BLHS số 100/2015/QH13. Kể từ ngày
01/01/2018, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) của nước CHXHCNVN
chính thức có hiệu lực. Tội gián điệp được quy định tại điều 110 chương XIII – Các
tội xâm phạm ANQG của BLHS hiện hành. Về nội dung, so với BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 1999), BLHS năm 2015 đã bổ sung một khoản quy định về
trách nhiệm hình sự đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội gián điệp.
Nhìn chung, từ BLHS năm 1985 đến nay, chính sách hình sự đối với tội
phạm gián điệp về bản chất khơng có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, với sự thay đổi về
tình hình chính trị - xã hội trong nước và quốc tế, sự gia tăng về âm mưu, hoạt động
của các cơ quan tình báo nước ngồi, các thế lực thù địch, cùng với sự phức tạp về
trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao trong đấu tranh, xử lý tội phạm gián điệp địi
hỏi cần tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện quy định về tội phạm này nhằm tạo điều
kiện thuận lợi trong thống nhất và áp dụng pháp luật, đồng thời là cơ sở pháp lý
quan trọng góp phần bảo vệ ANQG Việt Nam trong tình hình mới.



17
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội gián điệp
Tội gián điệp được quy định tại điều 110 BLHS năm 2015 như sau:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm
đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo,
phá hoại chống nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước
ngồi; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực
hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;
c) Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho nước
ngồi; thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước
ngồi sử dụng chống nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được
giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội này.
Từ nhận thức về tội gián điệp, căn cứ vào quy định tại Điều 110 BLHS hiện
hành có thể rút ra những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gián điệp như sau:
- Thứ nhất, về khách thể của tội gián điệp
Khách thể các tội xâm phạm ANQG nói chung là những quan hệ xã hội có
tầm quan trọng đặc biệt, đảm bảo mục tiêu, tính chất và sự phát triển của các quan hệ
xã hội khác – đó là ANQG Việt Nam. ANQG ở đây, được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là
sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân, của thể chế chính trị đã được
Hiến pháp nước ta ghi nhận và bảo vệ. Mỗi tội xâm phạm ANQG cụ thể xâm hại đến
khách thể trực tiếp khác nhau. Khách thể trực tiếp của tội gián điệp là an ninh đối nội,

an tồn đối ngoại của nước Cộng hịa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, an ninh
đối nội là sự an toàn cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh của đất nước.
An ninh đối ngoại là sự an toàn cho các quan hệ đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với các nước, lãnh thổ, các tổ chức quốc tế. Đặc biệt, với đặc
trưng của gián điệp là thu thập tin tức tình báo, khách thể mà điều luật quy định về tội


18
gián điệp nhằm bảo vệ trực tiếp đồng thời cũng là chủ quyền của quốc gia đối với bí
mật của mình. Nếu bí mật quốc gia bị lọt vào tay các thế lực thù địch hoặc để quốc
gia khác biết được sẽ rất nguy hại cho an ninh đối nội và ảnh hưởng không tốt đến
quan hệ đối ngoại của Nhà nước. Như vậy, tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến sự
phát triển vững mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân. Đối tượng tác động của tội
phạm này có thể bao gồm: cá nhân, tổ chức; thơng tin, tài liệu thuộc bí mật hoặc
khơng thuộc bí mật Nhà nước; chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước... Tuy nhiên, đối tượng tác động đặc trưng của tội gián điệp thường
là thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước hoặc những thơng tin, tài liệu khác.
- Thứ hai, về mặt khách quan của tội gián điệp
Theo Khoản 1, Điều 110 của BLHS 2015, tội gián điệp bao gồm các dạng
hành vi khách quan cụ thể sau đây: Hoạt động tình báo; Phá hoại; Gây cơ sở để hoạt
động tình báo, phá hoại chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Gây cơ
sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; Hoạt động thám
báo; Chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước
ngồi hoạt động tình báo, phá hoại; Cung cấp hoặc thu thập nhằm cung cấp bí mật
nhà nước cho nước ngoài; Thu thập, cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích
để nước ngồi sử dụng chống nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hành vi
trong mặt khách quan của tội gián điệp được quy định trong ba điểm a), b), c) khoản
1 Điều 110; mỗi điểm quy định một nhóm hành vi cụ thể. Nhà làm luật sắp xếp
hành vi của tội gián điệp theo các nhóm trên chủ yếu là dựa vào tính chất, đặc điểm

của hành vi đồng thời căn cứ vào dấu hiệu chủ thể. Mặc dù không quy định chi tiết
trong luật, nhưng theo tinh thần của điều luật thì hành vi quy định tại điểm a) là
hành vi của người nước ngồi thực hiện cịn hành vi trong điểm c) là do công dân
Việt Nam thực hiện. Quy định tại điểm b) bao gồm hai nhóm hành vi phạm tội:
Hành vi của công dân Việt Nam tạo điều kiện cho hoạt động tình báo, phá hoại
chống nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hành vi hoạt động thám báo có
thể do bất kỳ người nào đủ điều kiện chủ thể tội phạm thực hiện. Biểu hiện hành vi
khách quan của tội gián điệp rất đa dạng, phong phú. Về mặt lý luận, hành vi phạm
tội gián điệp có thể do một người hoặc nhiều người thực hiện, có thể được thực hiện
dưới hình thức hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội.
Từ quy định của Điều 110 BLHS có thể phân tích các dạng hành vi khách
quan cụ thể của tội gián điệp như sau:
+ Hành vi “hoạt động tình báo”
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý thì tình báo là điều tra, thu
thập bí mật quân sự, bí mật quốc gia của đối phương. Tình báo là báo cáo về tình


19
hình địch24. Những hoạt động tình báo cụ thể như hoạt động thu thập, khai thác,
phân tích, đánh giá, xử lý tin tức bí mật về tình hình đối phương, tình hình các hoạt
động đặc biệt khác bằng cách sử dụng người hoặc phương pháp, phương tiện, biện
pháp tinh vi, bí mật. Theo tinh thần của điều luật thì hành vi hoạt động tình báo
được hiểu là người phạm tội đã tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập tin tức, tài
liệu thuộc bí mật Nhà nước trên nhiều lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phịng... Bí mật Nhà nước là những tin về vụ việc, tài liệu, vật, địa
điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực liên quan đến chính
trị, quốc phịng, an ninh, cơ yếu, lập hiến, lập pháp, tư pháp, đối ngoại, kinh tế, tài
nguyên và môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thể
thao, thơng tin và truyền thông, y tế, hoặc các lĩnh vực khác mà Nhà nước không
công bố hoặc chưa công bố và nếu bị lộ, bị mất thì gây nguy hại nghiêm trọng, rất

nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho lợi ích quốc gia, dân tộc25. Hành vi
hoạt động tình báo là hành vi phổ biến, đặc trưng, chủ yếu của tội gián điệp.
+ Hành vi “phá hoại”
Theo Từ điển bách khoa Cơng an nhân dân thì phá hoại là cố ý không làm
những việc cần phải làm hoặc làm cho hư hỏng, làm cho thiệt hại nặng hay tiêu hủy;
hành vi phá hoại có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc hành động cụ thể26. Đây
được hiểu là hành vi của chủ thể làm cho đối tượng tác động lâm vào tình trạng mất
hẳn hoặc mất một phần giá trị sử dụng của nó. Tuy nhiên, quy định tội gián điệp lại
không bàn về đối tượng tác động của hành vi phá hoại. Trong một số tài liệu, đối
tượng tác động của hành vi phá hoại được hiểu là cơ sở vật chất - kĩ thuật của Chủ
nghĩa xã hội, chính sách kinh tế - xã hội, chính sách đồn kết và hành vi phá hoại
được biểu hiện ở các dạng như: đốt, phá, hủy hoại hoặc làm hỏng bằng các cơng cụ,
bom, mìn, hóa chất…hoặc phá hoại ngầm27. Như vậy, hoạt động phá hoại được quy
định trong tội gián điệp có thể là phá hoại về mặt vật chất, làm cho đối tượng tác
động mất hoàn toàn giá trị sử dụng (phá hủy), hoặc mất một phần giá trị sử dụng (làm
hư hỏng), hoặc phá hoại về chính sách kinh tế - xã hội, chính sách đồn kết làm chính
sách kinh tế - xã hội, chính sách đồn kết bị sai lệch, không thực hiện được.
+ Hành vi “gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại”
Hành vi gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại được thể hiện qua việc tên
gián điệp, cơ quan tình báo nước ngồi dùng thủ đoạn lơi kéo, rủ rê, mua chuộc,
24

Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), tlđd (13).
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2000), Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH Bảo vệ bí mật Nhà nước.
Ngày 15/11/2018, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thơng qua Luật bảo vệ bí mật Nhà nước – có hiệu lực
từ ngày 1/7/2020.
26
Bộ Cơng an Viện chiến lược và khoa học Công an (2005), tlđd (12), tr.407.
27
Nguyễn Duy Thuân (Chủ biên) (2013), tlđd (1).

25


×