Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
-------------

NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT

CHIA TÀI SẢN VỢ CHỒNG
KHI LY HƠN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Dân sự

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
-------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHIA TÀI SẢN VỢ CHỒNG
KHI LY HƠN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT
Khóa: 34. MSSV: 0955020104
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. TRẦN THỊ HƢƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013



LỜI CẢM ƠN
--------Khi hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này, trước hết tôi muốn gửi lời cảm
ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, đã giảng
dạy, cung cấp những nền tảng kiến thức cơ bản trong suốt q trình tơi theo học tại
trường. Đặc biệt là cô Trần Thị Hương giảng viên Khoa luật Dân sự. Mặc dù Cô không
là người trực tiếp giảng dạy tôi kiến thức liên quan đến mơn Luật hơn nhân và gia đình
nhưng trong suốt q trình tơi thực hiện đề tài Cơ đã rất tận tình hướng dẫn, định hướng
và góp ý để tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Bên cạnh đó, tơi cũng muốn
gửi lời cảm ơn của tơi đến Tịa án nhân dân Tỉnh Long An, Tòa án nhân dân quận Phú
Nhuận thành phố Hồ Chí Minh, các q tịa đã tạo điều kiện cho tơi tìm hiểu, nghiên
cứu cũng như cho phép tôi được phép sử dụng những bản án liên quan để thực hiện đề
tài khóa luận của mình.
Mặc dù, bản thân tơi đã có nhiều cố gắng trong việc học hỏi, tìm hiểu, nghiên
cứu nhưng rõ ràng đề tài sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Do đó, tơi rất
mong nhận được sự đóng góp q báu từ phía Thầy Cơ, các bạn sinh viên cũng như
những ai quan tâm đến đề tài này.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ
sung năm 2001.

LHN&GĐ

Luật hôn nhân và gia đình.


BLDS

Bộ luật dân sự năm 2005.

Nghị định 70/2001/NĐ-CP

Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật hơn nhân và gia đình.

Nghị quyết 35/2000/QH10

Nghị quyết của quốc hội số 35/2000/QH10
ngày 09/06/2000 Về việc thi hành Luật hơn
nhân và gia đình.
Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày
22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết

Nghị định 77/2001/NĐ-CP

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP

hôn theo Nghị định số 35/2000/QH10 của
Quốc hội về thi hành Luật hơn nhân và gia
đình.
Thơng tư liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP Của Toà án
Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao, Bộ Tư pháp, ban hành ngày
3/1/2001, hướng dẫn thi hành Nghị quyết

số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc
hội “Về việc thi hành Luật Hơn nhân và gia
đình”.


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly
hôn. ..................................................................................................................................5
1.1 Khái quát về tài sản. ............................................................................................5
1.1.1 Tài sản là vật. ..................................................................................................6
1.1.2 Tài sản là tiền..................................................................................................6
1.1.3 Tài sản là giấy tờ có giá ..................................................................................6
1.1.4 Tài sản là quyền tài sản. .................................................................................7
1.2 Tài sản của vợ chồng. ..........................................................................................8
1.2.1 Tài sản chung của vợ chồng. ..........................................................................8
1.2.1.1 Căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng. ..................................................8
1.2.1.2 Việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung vợ chồng. .............14
1.2.2 Tài sản riêng vợ, chồng. ...............................................................................18
1.2.2.1 Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng. ........................................18
1.2.2.2 Việc thực hiện quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng. .......19
1.2.3 Các trường hợp chia tài sản vợ chồng theo quy định của pháp luật.............21
1.2.3.1 Chia tài sản khi một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố đã chết. ...........21
1.2.3.2 Chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. ......................................................22
1.2.3.3 Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. ..........................................................24
1.3 Lịch sử phát triển của việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. ........................26
1.3.1 Thời kỳ Pháp thuộc.......................................................................................26
1.3.2 Pháp luật hơn nhân và gia đình ở Miền Nam trước 30/04/1975 điều chỉnh
quan hệ tài sản vợ chồng và việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. ......................26
1.3.3 Quy định về việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn trong Luật hơn nhân và gia

đình Việt Nam từ năm 1959 đến nay.....................................................................28
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hiện hành về việc chia tài sản vợ chồng khi ly
hôn. ................................................................................................................................30
2.1 Thời điểm xác định giá trị khối tài sản chung vợ chồng khi ly hôn..............30
2.2 Các nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. ...........................................31
2.2.1 Nguyên tắc tự thỏa thuận. .............................................................................31


2.2.2 Nguyên tắc được Tòa án áp dụng để giải quyết việc chia tài sản vợ chồng khi
ly hôn. ....................................................................................................................32
2.2.2.1 Đối với tài sản riêng. .............................................................................32
2.2.2.2 Đối với tài sản chung. ............................................................................34
2.3 Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong một số trƣờng hợp cụ thể. .......39
2.3.1 Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hơn.
...............................................................................................................................39
2.3.2 Chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. ........................42
2.3.2.1 Chia tài sản là quyền sử dụng đất mà vợ chồng được nhà nước giao. ..42
2.3.2.2 Chia tài sản là quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê. ................43
2.3.2.3 Chia tài sản là quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa
kế chung, nhận thế chấp. ...................................................................................45
2.3.2.4 Chia tài sản là quyền sử dụng đất được giao chung với hộ gia đình. ....46
2.3.3 Chia nhà ở. ....................................................................................................46
2.3.3.1 Giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà thuê của Nhà
nước. ..................................................................................................................46
2.3.3.2 Giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà thuê của tư
nhân. ..................................................................................................................47
2.3.3.3 Chia tài sản là nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi ly hôn. .....49
2.3.3.4 Giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở thuộc sở hữu
riêng của một bên mà được đưa vào sử dụng chung. ........................................50
2.4 Thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. ....................................51

2.4.1 Những trường hợp phát sinh nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. .......51
2.4.2 Phương thức thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
...............................................................................................................................53
Chƣơng 3: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn - Thực trạng giải quyết và một số kiến
nghị hoàn thiện.............................................................................................................55
3.1 Thực trạng giải quyết việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. ........................55
3.1.1 Thực trạng áp dụng các nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. .........55
3.1.1.1 Nguyên tắc tự thỏa thuận. ......................................................................55
3.1.1.2 Nguyên tắc Tòa án áp dụng để tiến hành việc chia tài sản vợ chồng khi
ly hôn đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ, chồng. ....................56
3.1.2 Phân biệt tài sản chung, tài sản riêng. ..........................................................58


3.1.3 Nguyên tắc suy đoán pháp lý trong việc xác định tài sản chung vợ chồng..59
3.1.4 Quy định của pháp luật về đồ dùng, tư trang cá nhân của một bên vợ chồng
là tài sản riêng. .......................................................................................................61
3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện. ............................................................................63
3.2.1 Bổ sung việc xác định yếu tố lỗi khi ly hôn để làm nguyên tắc chia tài sản vợ
chồng khi ly hôn. ...................................................................................................63
3.2.2 Thừa nhận chế độ hôn ước tài sản. ...............................................................66
3.2.3 Kiến nghị đối với nguyên tắc Tòa án áp dụng để tiến hành việc chia tài sản
vợ chồng khi ly hôn đối với tài sản riêng của một bên vợ, chồng. .......................68
3.2.4 Mở rộng các quy định về tài sản và các trường hợp chia tài sản vợ chồng khi
ly hôn cụ thể. .........................................................................................................69

KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO



LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân là việc gắn kết hai chủ thể với nhau để cùng nhau xây dựng gia đình.
Trải qua khoảng thời gian u nhau, tìm hiểu, các đơi nam nữ mới quyết định tiến tới
hôn nhân. Trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân, các đôi nam nữ đều mong muốn cho
cuộc hơn nhân của mình sẽ viên mãn, họ sẽ sống với nhau đến cuối cuộc đời. Nhưng
cuộc sống không phải lúc nào cũng như con người mong đợi, khi cuộc sống gia đình bị
rạn nứt bởi nhiều lý do khác nhau, các mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm thì giải pháp cuối
cùng cho các bên là ly hôn.
Ly hôn là điều khơng ai muốn nghĩ đến nhưng khơng có cuộc hơn nhân nào có
thể “miễn dịch” hồn tồn với nó. Ly hôn là mặt trái của kết hôn, việc giải quyết ly hơn
và hậu quả pháp lý của nó ln mang đến những hệ lụy nhất định. Ly hôn là nguyên
nhân dẫn đến hậu quả làm tan vỡ gia đình, từ đó làm ảnh hưởng một phần đến đời sống
xã hội. Vì vậy dưới bất kỳ chế độ xã hội nào, Nhà nước cũng quan tâm đến việc giải
quyết ly hơn và hậu quả pháp lý của nó. Nhưng đối với những xã hội khác nhau thì mục
đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung cũng như
việc ly hơn và giải quyết hậu quả của nó nói riêng là hồn tồn khác nhau.
Khi ly hôn, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt, vợ chồng khơng cịn
có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia
đình. Nếu có con chung thì con sẽ ở với cha hoặc mẹ, như vậy dù muốn dù khơng thì
con cái cũng sẽ thiếu vắng tình thương của cha hoặc mẹ, không được như những đứa trẻ
khác. Ngoài ra vấn đề được các bên quan tâm và thường xảy ra tranh chấp khi ly hơn
chính là giải quyết quyền lợi tài sản của vợ chồng.
Thực tiễn cho thấy việc giải quyết các vụ kiện về hôn nhân và gia đình gặp khó
khăn thì việc giải quyết hậu quả của việc ly hơn gặp nhiều khó khăn hơn. Bởi vì hậu quả
của việc ly hơn khơng những đụng chạm đến vấn đề nhân thân, con chung mà còn tác
động đến lợi ích tài sản của vợ, chồng. Khi mục đích hơn nhân khơng thể đạt được, tình
cảm vợ chồng khơng cịn thì họ thường mong muốn chiếm được phần lớn tài sản để
không bị gặp khủng hoảng tài chính sau khi ly hơn. Do đó, hầu hết các tranh chấp ly hôn
là tranh chấp về việc chia tài sản. Trong giai đoạn hiện nay việc giải quyết đúng đắn hậu

quả của ly hơn nói chung và việc chia tài sản vợ chồng khi ly hơn có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Đặc biệt trong thời đại kinh tế thị trường, tài sản giữ một vai trò trung tâm
trong nhiều quan hệ xã hội. Việc giải quyết tài sản khi ly hơn nếu khơng hợp tình, hợp
1


lý, không thỏa đáng sẽ làm cho các bên đi kiện tụng nhiều lần, mất nhiều thời gian. Mặt
khác, nếu việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn không được giải quyết đúng đắn sẽ ảnh
hưởng đến trước tiên là cuộc sống của mỗi bên sau khi ly hôn, cuộc sống của các con và
công việc của mỗi bên.
Pháp luật đã có quy định về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ,
chồng; các nguyên tắc, phương thức chia tài sản khi ly hôn; các trường hợp cụ thể chia
tài sản vợ chồng khi ly hôn. Sự tồn tại của các quy định pháp luật về giải quyết tài sản
vợ chồng khi ly hôn trong pháp luật hơn nhân và gia đình đã và đang góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích tài sản của vợ chồng khi hôn nhân tan vỡ. Tuy nhiên pháp luật cũng
không thể đi trước thực tiễn trong mọi trường hợp, không thể dự trù được tất cả các
trường hợp cụ thể sẽ xảy ra. Ngoài ra, qua gần 13 năm áp dụng, LHN&GĐ năm 2000
cũng bộc lộ nhiều điểm không phù hợp với điều kiện xã hội thay đổi. Việc chia tài sản
vợ chồng khi ly hôn là vấn đề khơng mới nhưng nó có thể khơng bao giờ cũ vì nó đang
được áp dụng vào thực tiễn một cách thường xuyên và qua thực tiễn áp dụng để giải
quyết thì sẽ bộc lộ ra những hạn chế trong quy định của pháp luật cần khắc phục và
những thiếu sót cần được bổ sung. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chia tài sản vợ
chồng khi ly hơn” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Sau khi xác định đề tài và trong quá trình thu thập tài liệu tác giả nhận thấy rằng:
Có rất nhiều tài liệu là cơng trình nghiên cứu, các bài viết tìm hiểu, phân tích liên quan
đến việc giải quyết hậu quả ly hơn nói chung và việc chia tài sản vợ chồng khi ly hơn nói
riêng. Trong đó phải kể đến: Thầy Lê Vĩnh Châu với “Chế độ tài sản vợ chồng theo Luật
hơn nhân và gia đình hiện hành”; Trần Thị Thu Hằng “Chia tài sản chung của vợ chồng
là quyền sử dụng đất” năm 2006; Lương Ngọc Đinh “Một số giải pháp nhằm nâng cao

hiệu quả chia tài sản chung vợ chồng”, năm 2005…Ngoài ra, việc chia tài sản vợ chồng
khi ly hôn cũng là đề tài được nhiều anh chị các khóa trước lựa chọn để làm đề tài cho
khóa luận tốt nghiệp như: Nguyễn Thu Trang, “Chia tài sản vợ chồng khi ly hơn” năm
2002; Huỳnh Xn Tình, “Việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn”, năm 2010; Trần Thu
Hà, “Giải quyết tài sản vợ chồng khi ly hôn” năm 2011; Phạm Thị Thùy Dương, “Giải
quyết tài sản vợ chồng khi ly hôn”, năm 2012. Hàng năm các Tịa xử lý rất nhiều vụ ly
hơn trong đó có các tranh chấp về tài sản vợ chồng và qua thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục và bổ sung để
việc chia tài sản vợ chồng ngày càng hoàn thiện hơn.

2


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu việc chia tài sản vợ chồng khi ly hơn trong
pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, điều đó có nghĩa là tác giả tập trung tìm hiểu,
nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về việc chia tài sản vợ chồng
khi ly hơn. Tác giả sẽ đi phân tích những vấn đề lý luận liên quan, những quy định của
pháp luật hiện hành về việc chia tài sản vợ chồng khi ly hơn. Bên cạnh đó tác giả cũng
đề cặp đến một vài nội dung liên quan đến thực tiễn giải quyết hiện nay của các cơ quan
có thẩm quyền đối với việc chia tài sản vợ chồng khi ly hơn từ đó nêu ra một số kiến
nghị hồn thiện.
4. Mục đích nghiên cứu.
Thơng qua việc tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích đề tài này tác giả muốn củng cố
kiến thức của mình trong mơn học Luật hơn nhân và gia đình nói chung và khía cạnh
chia tài sản vợ chồng khi ly hơn nói riêng. Mục đích nghiên cứu mà Tác giả đặt ra là
nghiên cứu, tìm hiểu những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề chia tài sản vợ
chồng khi ly hôn, những nội dung liên quan đến thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật và qua đó thấy được những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục và bổ sung. Từ đó

tác giả đưa ra một số kiến nghị hồn thiện việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. Bên
cạnh đó, tác giả muốn thơng qua đề tài của mình góp phần vào cơng tác tun truyền
pháp luật, đem pháp luật đến các chủ thể trong xã hội thông qua việc đề tài này trở thành
tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên sau tác giả.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Phương pháp luận của chủ
nghĩa Mark – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp phân tích, so sánh, quy
nạp, đối chiếu…

3


6. Bố cục của khóa luận.
Khóa luận được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn.
Chương 3: Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn – Thực trạng giải quyết và một số kiến
nghị hoàn thiện.

4


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Những vấn đề lý luận chung về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Khái quát về tài sản.
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của nhiều quan hệ xã hội nói chung và quan hệ
pháp luật nói riêng. Nhu cầu về tài sản để duy trì cuộc sống hiện tại và để lại cho con
cháu về sau, tuy không phải là mục tiêu duy nhất nhưng đó cũng là mục tiêu quan trọng
trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai,

bởi đơn giản tài sản là công cụ của đời sống con người. Trước tiên khái niệm tài sản
được xem xét dưới cách hiểu thông dụng: “Tài sản là của cải vật chất dành cho sản xuất
và tiêu dùng”1. Như vậy theo cách hiểu thơng dụng thì tài sản là của cải, của cải này
phục vụ cho nhu cầu cơ bản của con người là sản xuất và tiêu dùng. Khái niệm của cải
ln có sự thay đổi và hoàn thiện cùng với sự phát triển của loài người2. Một cách hiểu
cụ thể mang tính chất pháp lý về tài sản: “Tài sản là các vật giá trị được bằng tiền và là
đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực,
vật đang tồn tại và sẽ có như hoa lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu như đã thỏa
thuận giữa các bên, tiền và giấy tờ có giá được bằng tiền”3.
Pháp luật là cơng cụ để quản lý Nhà nước và quản lý xã hội. Về mặt pháp lý, nhận
thức đúng về tài sản và phân loại tài sản có vai trị rất quan trọng trong việc tạo lập các
quy định pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý. Trong chế định quyền sở hữu
thì tài sản giữ một vai trị quan trọng, vừa là đối tượng của quyền sở hữu, vừa là khách
thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Tài sản với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu
được đề cập lần đầu tiên trong các quy định về tài sản và quyền sở hữu của BLDS Việt
Nam năm 1995. Tại Điều 172 BLDS 1995 quy định “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền,
giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Tiếp đó, Điều 163 BLDS 2005
quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Từ hai khái
niệm quy định trong hai BLDS năm 1995 và 2005 cũng cho thấy quan niệm tài sản có
sự khác biệt theo thời gian. Xã hội vận động và phát triển, các quan hệ tư ngày càng
phổ biến, giao dịch dân sự ngày một tăng lên thì khái niệm về tài sản cũng tất yếu thay
đổi theo chiều hướng mở rộng các đối tượng là tài sản. Theo BLDS năm 1995, tài sản là
vật thì vật đó chỉ là vật có thực, tức là đáp ứng các yêu cầu sau: Vật có thực phải là một
bộ phận của thế giới vật chất; vật có thực phải có lợi ích vật chất cho con người (đáp
ứng nhu cầu về kinh doanh, tiêu dùng của con người); là vật mà con người có thể chiếm
1

Nguyễn Văn Xơ, “Từ điển tiếng Việt”, NXB Thanh niên, năm 2008.
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự”, Tập I, NXB Chính trị quốc gia, năm
2008, tr. 356.

3
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, “Từ điển Luật học”, NXB từ điển bách khoa, năm 2006.
2

5


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

giữ được. Khái niệm tài sản theo BLDS 2005 đã mở rộng hơn BLDS 1995 về những
đối tượng nào được coi là tài sản, theo đó, khơng chỉ những “vật có thực” mới được gọi
là tài sản mà cả những vật được hình thành trong tương lai cũng được gọi là tài sản.
Tài sản là vật.
Vật: Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, bao gồm cả động vật, thực vật, vật
với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí). Dưới góc độ khoa học pháp lý, một
vật chỉ được coi là khách thể của quyền sở hữu khi đáp ứng yêu cầu:
- Vật đó phải là một bộ phận của thế giới vật chất, có thể là vật hiện tại
hoặc là vật hình thành trong tương lai.
- Vật đó phải mang lại lợi ích cho con người, tức là vật đáp ứng nhu cầu về
vật chất hay tinh thần nhất định cho con người, đáp ứng nhu cầu về các mặt đời
sống xã hội như kinh doanh, tiêu dùng,…, của con người.
- Con người cịn có thể chiếm hữu được, tức là có thể nắm giữ và quản lý
được tài sản, bởi việc chiếm hữu là tiền đề trong việc sử dụng và định đoạt tài
sản.
Tài sản là tiền.
Tiền: Dưới góc độ kinh tế, tiền là một tài sản đặc biệt, có chức năng dùng để
thanh tốn, phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữ. Theo kinh tế chính trị học thì
tiền là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác.
Dưới góc độ pháp lý, tiền được nhìn nhận với tư cách là đại diện cho chủ quyền của
một quốc gia. Do vậy trong quá trình quản lý, lưu thông tiền tệ cần phải tuân thủ các

quy định của Nhà nước. Tiền là tài sản đặc biệt bởi chủ thể ban hành ra nó chỉ là Nhà
nước và được xác định theo mệnh giá của đồng tiền đó chứ không bằng những đơn vị
đo lường thông thường.
Tài sản là giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá: Hiện nay giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu
dân sự đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ giá trị được bằng tiền và chuyển giao được trong
giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá được phân thành hai loại: giấy tờ có giá như tiền và giấy
tờ có giá khác. Có thể liệt kê một số giấy tờ có giá như: Cổ phiếu, ngân phiếu, cơng trái,
séc, tín phiếu… Trong khi chủ thể phát hành tiền chỉ là Nhà nước thì chủ thể phát hành
giấy tờ có giá có thể do nhiều cơ quan ban hành như: Chính phủ, Ngân hàng, Kho bạc,
các cơng ty cổ phần…Tiền ln có mệnh giá nhất định, lưu hành khơng có thời hạn
định trước và khơng ghi danh. Trong khi đó, giấy tờ có giá có thể có mệnh giá hay
6


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hơn

khơng có mệnh giá, có thời hạn sử dụng hoặc khơng có thời hạn sử dụng, có thể ghi
danh hoặc khơng ghi danh. Hiện nay có nhiều người lầm tưởng rằng các giấy xác nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký ô tô, sổ tiết kiệm là giấy tờ có giá vì
nó là “giấy” và trên đó có ghi tài sản “có giá”. Tuy nhiên, các giấy chứng nhận kể trên
không phải là giấy tờ có giá mà nó chỉ đơn thuần là vật và thuộc sở hữu của người đứng
tên trên giấy đó4.
Trước những yêu cầu ngày một cao của nền kinh tế thị trường, các phương thức
thanh tốn khơng dùng tiền mặt đang có xu hướng phát triển. Trong xu hướng bùng nổ
thơng tin hiện nay, khi những giao dịch dân sự không cịn chịu sự hạn chế về khơng
gian thì phương thức thanh tốn bằng tiền mặt đã tỏ ra khơng cịn phù hợp trong một số
trường hợp. Do vậy việc quy định như tại Điều 163 BLDS đã có ý nghĩa hết sức quan

trọng, đáp ứng được những nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế thị trường.
Tài sản là quyền tài sản.
Quyền tài sản: Quyền tài sản có đặc điểm là gắn liền với tài sản và khi thực hiện
các quyền này thì chủ sở hữu sẽ có được một tài sản. Quyền tài sản trước tiên phải được
hiểu là xử sự được phép của chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền
năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đó là quyền
chuyển giao tài sản, quyền địi nợ, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng
cơng nghiệp…
Quyền tài sản là một tài sản vơ hình và phải đáp ứng các điều kiện là trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Do đó quyền tài sản trên thực tế
rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản nào có thể trở thành đối tượng trong giao dịch
dân sự mới được coi là tài sản tại Điều 163 BLDS.
BLDS 1995 và BLDS 2005 không đưa ra khái niêm cụ thể tài sản là gì mà liệt kê
các đối tượng là tài sản, điều này có ưu điểm là việc xác định đối tượng nào là tài sản,
đối tượng nào không là tài sản dễ dàng do luật đã có sự liệt kê. Tuy nhiên, cách lập
pháp như vậy đã không đáp ứng sự phát triển của thực tiễn cuộc sống và gây ra sự tranh
luận về một số đối tượng như: tài sản ảo trong game online, khoảng không, hệ thống
khách hàng …

4

Th.S Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí luật học số 01/2009. Tr 15.

7


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Tài sản của vợ chồng.
Gia đình là tế bào của xã hội5, để xây dựng, duy trì và phát triển gia đình tốt thì

phải có điều kiện về vật chất. Khi hôn nhân được xác lập, quan hệ nhân thân vợ chồng
phát sinh, quan hệ tài sản từ đó cũng hình thành. Việc vợ chồng xác lập quan hệ hôn
nhân không chỉ là chuyện riêng của họ mà còn ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội khác
cũng như tồn xã hội. Do đó, Nhà nước bằng công cụ pháp luật đã điều chỉnh quan hệ
hơn nhân gia đình nói chung và quan hệ tài sản vợ chồng nói riêng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì trong thời kỳ hơn nhân, giữa vợ và
chồng tồn tại các khối tài sản: khối tài sản chung của vợ chồng, khối tài sản riêng của
mỗi bên vợ, chồng.
Tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sở hữu tài sản chung vợ chồng được quy định trong BLDS năm 2005 Điều
219, Điều 239 đến Điều 244 và LHN&GĐ năm 2000 Điều 27 và văn bản hướng dẫn
Mục 3 Nghị quyết 02/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định của LHN&GĐ năm 2000. Về hình thức sở hữu tài sản chung
vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, tức là phần quyền sở hữu của mỗi
chủ sở hữu không thể xác định được đối với khối tài sản chung khi chưa phân chia
chúng.
Căn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng.
Thứ nhất là căn cứ vào thời điểm phát sinh tài sản, LHN&GĐ năm 2000 sử
dụng thời kỳ hôn nhân làm căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung vợ
chồng hình thành từ sự nỗ lực lao động của vợ chồng, từ q trình tích lũy của cải trong
gia đình. Khối tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thường là khối tài sản có giá
trị quan trọng nhất và là nguồn bảo đảm chính đối với cuộc sống vật chất của gia đình.
Thời kỳ hơn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật hơn nhân và gia đình. Các tài sản do vợ chồng tạo lập ra trong thời kỳ hôn
nhân được xác định không phân biệt vợ chồng ở chung hay ở riêng, khơng phân biệt ai
làm ít ai làm nhiều mà miễn những tài sản đó là: Tài sản do vợ, chồng tạo ra; thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân6 là tài sản chung của vợ chồng. Do đó việc xác định thời
kỳ hôn nhân là cơ sở quan trọng để đánh giá chứng cứ và xác định đường lối giải quyết
quyền lợi về tài sản của vợ chồng trong nhiều vụ án hơn nhân và gia đình, trong đó có

5
6

Lời nói đầu LHN&GĐ năm 2000.
Khoản 1 Điều 27 LHN&GĐ năm 2000.

8


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn. Khi nào khối tài sản chung được xác định đầy đủ,
chính xác thì việc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn mới được giải quyết đúng đắn, bảo
vệ quyền lợi của vợ chồng về tài sản và các chủ thể khác có liên quan. Theo quy định
tại Khoản 7 Điều 8 LHN&GĐ 2000 thì: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hơn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Ngày
chấm dứt hôn nhân là ngày: vợ chồng chết hoặc có quyết định của Tịa án tuyên bố vợ,
chồng bị chết (khi quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật), trường hợp vợ chồng
cịn sống thì hơn nhân chấm dứt bằng ly hơn, tính từ thời điểm phán quyết ly hơn của
Tịa án có hiệu lực pháp luật7.
Căn cứ vào quy định trên thì thời kỳ hơn nhân tính từ ngày đăng ký kết hơn. Tuy
nhiên vẫn có những ngoại lệ cơng nhận quan hệ vợ chồng trong trường hợp khơng có
đăng ký kết hôn hay thường được gọi là “hôn nhân thực tế”.
Khi nam nữ sống chung trước ngày 03/01/1987, đủ điều kiện kết hôn (không vi
phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 9 và không rơi vào trường hợp cấm kết hôn
tại Điều 10 LHN&GĐ năm 2000) và thuộc một trong bốn trường hợp (được coi nam và
nữ chung sống với nhau như vợ chồng) theo quy định như sau: “Có tổ chức lễ cưới khi
về chung sống với nhau; Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc
cả hai bên) chấp nhận; Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức
chứng kiến; Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau

xây dựng gia đình”8 thì cơng nhận họ là vợ chồng. Thời kỳ hơn nhân tính từ ngày các
bên sống chung với nhau như vợ chồng, việc đăng lý kết hôn chỉ là khuyến khích9.
Nếu thời điểm nam nữ bắt đầu sống chung là từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày
01/01/2001 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm: từ ngày 01/01/2001
đến ngày 01/01/2003.Trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hơn nhưng có u
cầu ly hơn thì Tịa án áp dụng các quy định về ly hơn của LHN&GĐ năm 2000 để giải
quyết10. Cần chú ý trong trường hợp họ thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định
tại Điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10, thì quan hệ của họ vẫn được cơng nhận
là đã xác lập kể từ ngày họ bắt đầu sống chung với nhau như vợ chồng chứ không phải
kể từ ngày đăng ký kết hôn. Trường hợp nam nữ làm thủ tục trong thời hạn đã nêu
nhưng bị giải quyết trễ thì sẽ được cơng nhận là vợ chồng như đăng ký kết hôn trong
thời hạn (kết luận số 84a UBTVQH11 ngày 29/04/2003).
7

TS Nguyễn Minh Hằng, TP Nguyễn Thanh Danh, “Xác định thời kỳ hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân kỳ II tháng 10/2012, tr. 26.
8
Điểm d mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP .
9
Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001.
10
Điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10.

9


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Nếu sau ngày 01/01/2003 nam nữ mới thực hiện việc đăng ký kết hơn thì họ được
công nhận là vợ chồng từ ngày đăng ký kết hơn và thời kỳ hơn nhân được tính từ ngày

đăng lý kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ khơng đăng ký kết hơn thì pháp luật
khơng cơng nhận họ là vợ chồng. Nếu một bên hoặc cả hai bên có u cầu ly hơn thì
Tịa án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm b khoản 3 Nghị quyết
35/2000/QH10, khoản 1 Điều 11 LHN&GĐ năm 2000, bằng bản án tuyên bố không
công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có u cầu về ni con và chia tài sản, thì Tịa án áp
dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 LHN&GĐ năm 2000 để giải quyết theo thủ tục
chung.
Không phải mọi tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của
vợ chồng. Những loại tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ
chồng bao gồm các tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 27 LHN&GĐ năm 2000: tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Thu nhập do lao động: đây thường là thu nhập chủ yếu của mỗi gia đình. Thu
nhập do lao động là tiền lương của vợ chồng hoặc của một bên vợ (chồng) nhận được
trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, là nguồn sống của hầu hết các
cặp vợ chồng và của gia đình. Lương được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm lương căn bản
và các loại phụ cấp (độc hại, chức vụ, trách nhiệm, làm việc tại vùng sâu, vùng xa…).
Thu nhập do lao động cũng có thể là tiền thù lao khốn việc, tiền nhuận bút, cơng tác
phí, trợ cấp thường xuyên, định kỳ hoặc bất thường.
Thu nhập do hoạt động sản xuất, kinh doanh thực chất là thu nhập do lao động
theo nghĩa rộng, đó là lợi nhuận rịng (trừ thuế và chi phí) từ việc bán sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ hoặc đó cũng có thể là sản vật của hoạt động nghề nghiệp. Tính chất của
lao động hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là thường xuyên, liên tục hoặc thời
vụ, bán thời gian và gián đoạn. Đó có thể là lao động chân tay hoặc lao động trí tuệ.
Thu nhập hợp pháp khác ở đây được hiểu là những khoản thu nhập không thuộc
nhóm tài sản vừa nêu. "Những thu thập hợp pháp khác" của vợ chồng trong thời kỳ hơn
nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được
hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định tại các Điều 247,
248, 249, 250, 251 và 252 Bộ luật dân sự... trong thời kỳ hôn nhân11. Đây là khoản thu
nhập khơng thường xun mang tính bất ngờ của vợ chồng. Quy định trên được ban

11

Điểm a mục 3 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

10


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

hành khi BLDS năm 1995 cịn hiệu lực. Khi BLDS năm 2005 ra đời thì tài sản mà vợ,
chồng xác lập quyền sở hữu được quy định trong các điều luật sau: xác lập quyền sở
hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu (Đ239); Xác lập quyền sở
hữu đối với tài sản bị chơn giấu, chìm đắm được tìm thấy (Điều 240); Xác lập quyền sở
hữu đối với tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều 241); Xác lập quyền sở hữu
đối với gia súc bị thất lạc (Điều 242); Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc
(Điều 243); Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 244).
Thứ hai là dựa vào nguồn gốc tài sản: “Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung”12 là tài sản chung của vợ chồng. Đây là những tài sản mà vợ
chồng được chủ sở hữu thể hiện ý chí chuyển giao quyền sở hữu cho cả hai vợ chồng.
Tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ sở hữu, pháp luật xác định đây là tài sản chung
của vợ chồng. Như vậy căn cứ vào nguồn gốc tài sản đó được chủ sở hữu thể hiện ý chí
cho cả hai vợ chồng để xác định đó là tài sản chung vợ chồng.
Nguồn gốc của loại tài sản này là do một giao dịch khơng có đền bù. Việc vợ
chồng được tặng cho chung rất thường được ghi nhận trong thực tiễn. Chủ sở hữu có
quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu theo ý chí của mình và trong khuôn khổ
pháp luật. Một khi chủ sở hữu thể hiện ý chí của mình cho chung vợ chồng thì nó trở
thành tài sản chung của vợ chồng. Nhưng trên thực tế, cha mẹ thường cho con tài sản
như nhà ở, quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng kí quyền sở hữu mà việc tặng cho chỉ
bằng lời nói hoặc chỉ viết giấy tay điều này về sau gây ra nhiều hệ lụy. Khi vợ chồng

người con sống với nhau hạnh phúc, êm đẹp thì mọi chuyện khơng phát sinh tranh
chấp. Nhưng khi vợ chồng người con phát sinh mâu thuẫn và đỉnh điểm là ly hơn thì
khối tài sản này trở thành đối tượng tranh chấp gây gắt không chỉ giữa vợ chồng người
con mà cả với bên cha mẹ đã tặng cho tài sản.
Tiếp theo là tài sản do được thừa kế chung như trường hợp cha mẹ cùng nhận di
sản do con chết để lại với tư cách là người thừa kế hàng thứ nhất. Hoặc con ni và con
ruột kết hơn thì hồn tồn có khả năng là người thừa kế chung của cha, mẹ. Trong
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế theo pháp luật thì tài sản nhận được là tài sản
riêng của mỗi bên vợ, chồng. Khái niệm thừa kế chung chỉ sử dụng như là căn cứ tạo
lập một tài sản chung, một khi vợ chồng cùng được hưởng di sản theo di chúc và di
chúc có thể hiện ý chí tài sản chuyển giao chung cho vợ chồng, khơng xác định phần cụ
thể mà mỗi bên được hưởng. Nếu quy định rõ trong di chúc là cho chung vợ chồng
nhưng có xác định phần cụ thể mỗi bên được hưởng thì vợ chồng vẫn hưởng di sản theo
12

Khoản 1 Điều 27 LHN&GĐ năm 2000.

11


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

di chúc nhưng tài sản thừa kế theo di chúc này là tài sản chung với hình thức sở hữu
chung theo phần chứ khơng phải là tài sản chung với hình thức sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng.
Thứ ba, dựa vào ý chí của các bên vợ, chồng: những chủ thể tham gia các quan
hệ hơn nhân và gia đình bình đẳng trước pháp luật. Luật hơn nhân và gia đình là ngành
luật tư, do đó sự thỏa thuận ln được tơn trọng nếu sự thỏa thuận đó khơng trái với
những ngun tắc mà pháp luật quy định. Như vậy, vợ hoặc chồng có quyền quyết định
nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung vợ chồng. Điều này đã đảm bảo thực

thi nguyên tắc tự nguyện, tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ dân sự nói chung
và quan hệ pháp luật hơn nhân gia đình nói riêng. Việc nhập tài sản riêng của một bên
vợ, chồng vào khối tài sản chung để được pháp luật cơng nhận thì cần được tuân thủ
theo các quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình.
Quy tắc này cho thấy quyền tự định đoạt của vợ, chồng đối với tài sản là sở hữu
riêng của vợ, chồng. Như vậy vợ chồng có quyền chủ động quyết định về phạm vi khối
tài sản chung của vợ chồng. Nếu có sự mập mờ, chưa rõ ràng về tính chất chung hay
riêng của một tài sản nào đó, mà vợ chồng đều thống nhất là tài sản chung, thì tài sản
này được xác định là tài sản chung. Ngoài ra tài sản chung loại này cũng có từ việc vợ
chồng sáp nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung, tạo ra những điều kiện vật chất tốt
nhất trong việc xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc và tiến bộ.
“Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn
thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo
quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Hơn nhân và gia đình phải được lập thành văn
bản, có chữ ký của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể được cơng chứng hoặc chứng
thực theo quy định của pháp luật”13. Tuy nhiên trên thực tế thì việc nhập tài sản riêng
vào khối tài sản chung vợ chồng khơng được thực hiện theo đúng hình thức trên mà
được cải biên như cho vợ hoặc chồng cùng đứng ra giao dịch hoặc cùng đứng tên sở
hữu tài sản đó. Do đó, khi giải quyết một vụ việc cụ thể thì thẩm phán phải khéo léo,
linh hoạt để xác định có hay khơng có việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung vợ
chồng.
Thứ tư, nguyên tắc suy đốn pháp lý: “Trong trường hợp khơng có chứng cứ
chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì
tài sản đó là tài sản chung”14. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
13
14

Khoản 1 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.
Khoản 3 Điều 27 LHN&GĐ năm 2000.


12


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

giải quyết các tranh chấp về tài sản vợ chồng. Trong quan hệ tài sản của vợ chồng, khi
có phát sinh tranh chấp tài sản thì thường áp dụng ngun tắc: Ai cho đó là tài sản riêng
của mình thì có nghĩa vụ chứng minh. Chứng minh được bằng các chứng cứ xác thực
thì tài sản đó là tài sản riêng của họ. Nếu khơng chứng minh được thì đó là tài sản
chung của vợ chồng. Đối với các tài sản mà còn mập mờ về tính “chung”, “riêng” mà
một bên vợ hoặc chồng cho rằng đó là tài sản riêng nhưng khơng chứng minh được là
tài sản riêng của mình thì tài sản đó được suy đốn là tài sản chung khơng những mang
lại lợi ích cho vợ chồng mà cịn cho các chủ thể khác liên quan đến tranh chấp như chủ
nợ có nghĩa vụ được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. tuy nhiên quy tắc suy
đoán tài sản chung không áp dụng đối với mọi loại tài sản trong gia đình. Có những tài
sản mà tính chất riêng biệt bộc lộ hẳn ra bên ngoài và việc chứng minh tính riêng của
nó khơng cần thiết như tư trang; đồ dùng cá nhân; các tài sản là vật phụ của một tài sản
riêng; các kỷ vật của gia đình mà có mang các ký hiệu, dấu hiệu riêng của gia đình…
Suy đốn tài sản chung là ngun tắc có tính định hướng trong việc giải quyết các
tranh chấp giữa vợ, chồng. Xét trong mối tương tác với quyền con người và đặt trong
mối quan hệ hơn nhân và gia đình, suy đoán tài sản chung là cơ sở bảo vệ quyền con
người, bảo vệ lợi ích tài sản của các bên tham gia quan hệ. Vận dụng nguyên tắc suy
đoán tài sản chung có ý nghĩa góp phần thu hẹp khoảng cách đối xử giữa vợ - chồng và
là cơ hội để vợ chồng cùng thụ hưởng lợi ích ích kinh tế từ tài sản mà họ được thừa
nhận.
Ngoài những tài sản chung vừa nêu, cịn có một loại tài sản chung đặc biệt của vợ
chồng, đó là quyền sử dụng đất. Theo đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau
khi kết hơn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất của vợ chồng là một tài
sản đặc thù do: quyền sử dụng đất là một quyền tài sản, quyền sử dụng đất của vợ
chồng là loại tài sản có đăng ký quyền sở hữu và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, là

tài sản của vợ chồng phải ghi tên cả vợ và chồng15 và quyền sử dụng đất là một loại tài
sản có giá trị lớn nên việc định đoạt quyền sử dụng đất là tài sản chung vợ chồng phải
có sự thỏa thuận của cả hai. Chính từ sự đặc thù của loại tài sản này nên việc xác định
tính chung hay riêng của nó ln có ý nghĩa hết sức quan trọng để bảo vệ quyền lợi tài
sản của cả vợ và chồng.
Theo Khoản 1 Điều 27 LHN&GĐ thì quyền sử dụng đất có sau khi kết hơn là tài
sản chung vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hơn,
được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Việc nhận chuyển
15

Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.

13


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

nhượng quyền sử dụng đất có đền bù và việc thuê đất có tác dụng tạo ra một tài sản
chung của vợ chồng do được tạo lập ra trong thời kỳ hôn nhân. Nếu quyền sử dụng đất
đó được giao có hoặc khơng có thu tiền sử dụng đất hoặc được cho th thì đó cũng là
một tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và là tài sản chung. Nhà làm luật đã dự trù khả
năng cơ quan giao đất, cho thuê đất chỉ tính đến khả năng, điều kiện sử dụng đất của cá
nhân xin giao đất, xin thuê đất và chỉ quyết định giao đất cho cá nhân đó hoặc chỉ giao
kết hợp đồng giao đất với người đó.
Trường hợp cịn lại quyền sử dụng đất do vợ chồng được tặng cho hoặc thừa kế
thì xác định như sau: nếu vợ chồng được tặng cho chung thì đó là tài sản chung, cũng
do áp dụng luật chung về thành phần cấu tạo các khối tài sản; còn nếu vợ chồng được
tặng cho hoặc thừa kế riêng thì đó là tài sản riêng.
Việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung vợ chồng.
Chế độ pháp lý tài sản chung của vợ chồng.

Theo Khoản 1 Điều 219 BLDS sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp
nhất. Quy định của khoản 1 Điều 217 đã chỉ ra rằng sở hữu chung hợp nhất là sở hữu
chung mà trong đó phần quyền của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản
chung. “Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở
hữu chung hợp nhất không thể phân chia”16. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Tài sản chung hợp nhất của vợ chồng là
tài sản chung hợp nhất có thể phân chia vì nó có thể được chia trong một số trường hợp,
cụ thể như: khi một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết, chia tài sản trong thời kỳ
hôn nhân, chia tài sản khi ly hơn hoặc sau khi ly hơn.
“Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung”17. Tài sản chung của vợ chồng có thể có nguồn gốc từ cơng
lao chung của vợ chồng hoặc của vợ hoặc của chồng. Tuy sự đóng góp vật chất của mỗi
người có thể khơng ngang nhau nhưng một khi đã là tài sản chung thì tài sản chịu sự
quản lý chung của vợ chồng, họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
Quyền chiếm hữu là một trong ba nội dung quyền năng của quyền sở hữu. Chủ sở
hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu của mình và được thực hiện
mọi hành vi theo ý chí của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi đó khơng trái pháp
luật, đạo đức xã hội cũng như không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
16
17

Đoạn cuối, khoản 1 Điều 217 BLDS.
Khoản 1 Điều 28 LHN&GĐ.

14


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn


nước, tập thể, các cá nhân và tổ chức khác. Tài sản chung vợ chồng cũng là hình thức
sở hữu chung do đó việc thực hiện quyền chiếm hữu cũng trên nguyên tắc thỏa thuận và
thống nhất ý chí của các chủ sở hữu chung (trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có
thỏa thuận khác). Vợ chồng thường sống chung nhà và cùng nhau tạo lập khối tài sản
chung, thực hiện các hoạt động tác động lên khối tài sản chung để đáp ứng các nhu cầu
của cuộc sống do đó quyền chiếm hữu của vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung
thường không thể hiện rõ nét bằng các hình thức sở hữu khác và của các chủ thể khác.
Quyền sử dụng tài sản là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản. Như vậy quyền sử dụng được hiểu dưới hai gốc độ một là chủ sở hữu khai thác
công dụng một cách trực tiếp thông qua hành vi của chính mình; hai là chủ sở hữu được
hưởng lợi từ tài sản.
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở
hữu đó. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt
tài sản của mình theo hai phương thức: định đoạt số phận thực tế của tài sản, tức là chủ
sở hữu có quyền bằng hành vi của mình làm cho tài sản khơng còn trong thực tế như tài
sản bị tiêu hủy, từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản; định đoạt số phận pháp lý của tài sản
tức là chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thơng qua giao dịch dân sự
như tặng cho, mua bán, cho vay…
Quyền và nghĩa vụ ngang nhau của vợ, chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung được thể hiện ở các nội dung như sau:
Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc quản lý tài sản chung, những tài sản mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
phải ghi tên cả hai người theo hướng dẫn tại Nghị định 70/2001/NĐ-CP. Tuy nhiên,
việc giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chỉ ghi tên một người thì chưa chắc đó là tài
sản riêng của người đứng tên mà được hướng dẫn cụ thể như sau: “Trong trường hợp
tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị
định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể u
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó
để ghi tên của cả vợ và chồng; nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký
quyền sở hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh

chấp, bên nào cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng
minh”18. Tiêu biểu cho tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu là
quyền sử dụng đất. Như vậy hình thức của giấy chứng nhận quyền sử đất là tài sản
18

Khoản 3 Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.

15


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

chung của vợ chồng phải ghi tên cả hai vợ chồng. Song không thể suy luận ngược lại
một cách máy móc là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một bên vợ, chồng
thì đó là tài sản riêng của bên đứng tên trên giấy chứng nhận. “Với nguyên tắc suy đoán
tài sản chung, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là chứng cứ có giá
trị pháp lý cao nhất để chứng minh cho tài sản tranh chấp là tài sản riêng của một bên
đứng tên trên giấy chứng nhận”19 . Người đứng trên trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đó phải chứng minh đó là tài sản riêng của mình, nếu khơng chứng minh được
thì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Vì là đồng sở hữu chủ nên vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc sử dụng và
định đoạt tài sản chung vợ chồng. Do đó, cơ chế pháp lý phù hợp để điều chỉnh việc
định đoạt để việc định đoạt không làm ảnh hưởng quyền lợi các bên là cùng nhau bàn
bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau để thực hiện các quyền năng này. Về nguyên
tắc, khi vợ hoặc chồng thực hiện một giao dịch liên quan đến tài sản chung, phải có sự
đồng ý của hai vợ chồng.
Tuy nhiên sự bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất ý chí này chỉ mang tính tương đối.
Quan hệ xã hội đa dạng nên trong cuộc sống hằng ngày có thể phát sinh rất nhiều giao
dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Do đó, pháp luật quy định vợ hoặc
chồng có thể tự mình xác lập các giao dịch đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia

đình mà khơng cần có sự đồng ý của người còn lại. Vợ hoặc chồng có quyền giao kết
các hợp đồng nhằm bảo quản, sửa chữa những hư hỏng thông thường xảy ra đối với tài
sản chung; có quyền quyết định phương thức khai thác đối với tài sản; thu hoạch hoa lợi
tự nhiên; tiến hành các vụ kiện yêu cầu chấm dứt sự quấy nhiễu đối với việc chiếm hữu
tài sản chung; tiến hành các vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản chung bị
xâm hại; tiến hành các vụ kiện yêu cầu buộc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng liên
quan đến tài sản chung. Như vậy đối với việc sử dụng, định đoạt tài sản chung vợ chồng
trong một số trường hợp không cần sự đồng ý của bên vợ, chồng còn lại. Vợ chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch do một bên thực hiện để đáp ứng kịp
thời nhu cầu sinh hoạt thiết yếu cho các thành viên trong gia đình. Do đó dù không biết
hoặc biết nhưng không đồng ý vợ, chồng vẫn có trách nhiệm liên đới với các giao dịch
hợp pháp nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình20 như nhu cầu ăn, mặc,
ở, đi lại, học tập, khám chữa bệnh cũng như các nhu cầu thiết yếu khác.

19

Th.S Lê Thị Mận, “ Bảo vệ quyền lợi của vợ chồng đối với tài sản là quyền sử dụng đất- nhìn từ ngun tắc suy
đốn tài sản chung”, Tạp chí khoa học pháp lý số chuyên đề tháng 01/2011, tr.47.
20
Điều 25 LHN&GĐ năm 2000.

16


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Đối với các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là
nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải
được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận của hai vợ chồng21. Việc định đoạt của vợ, chồng
liên quan đến các tài sản chung vừa nêu sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của gia

đình, do đó, pháp luật quy định cần sự bàn bạc, cân nhắc thận trọng của hai vợ chồng và
phải do hai vợ chồng quyết định.
Tài sản có giá trị lớn của gia đình căn cứ vào tính chất và giá trị của tài sản đó
trong khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản có giá trị lớn của mỗi gia đình là khác
nhau nên pháp luật không đưa ra một con số cụ thể, không căn cứ vào giá trị thương
mại của tài sản đó tại thời điểm tham gia giao dịch. Tiêu chí để xác định tài sản chung
có giá trị lớn là dựa vào giá trị tài sản mà vợ chồng tranh chấp với giá trị của toàn bộ
khối tài sản chung của vợ chồng.
Việc định đoạt tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, phải có sự đồng
ý của vợ chồng. Tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình là tài sản mà hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ nó là nguồn sống duy nhất của gia đình. Quy định này của pháp luật là
phù hợp và có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên vợ
chồng và các thành viên khác trong gia đình. Bởi khi định đoạt tài sản là nguồn sống
duy nhất sẽ có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các thành viên trong gia
đình.
Pháp luật hơn nhân và gia đình quy định việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh
doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận của hai vợ chồng là hoàn toàn hợp lý.
Việc dùng tài sản để đầu tư kinh doanh tuy có thể mang lại nguồn lợi lớn làm tăng giá
trị khối tài sản chung của vợ chồng nhưng cũng có nguy cơ gặp phải rủi ro làm giảm sút
hoặc mất khối tài sản chung. Nên pháp luật quy định việc dùng tài sản chung để đầu tư
kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, điều đó giúp bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên một cách tốt nhất.
Khi thiếu sự thống nhất của một bên vợ chồng đối với việc định đoạt tài sản chung
có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu
tư kinh doanh thì bên cịn lại có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự đó vơ
hiệu theo Điều 134 BLDS, hậu quả của giao dịch này được giải quyết theo quy định tại
Điều 137 BLDS.

21


Khoản 3 Điều 28 LHN&GĐ năm 2000.

17


SVTH: NGUYỄN THỊ THU NGUYỆT – Đề tài: Chia tài sản vợ chồng khi ly hôn

Tài sản riêng vợ, chồng.
Bản thân các bên vợ, chồng vẫn là một công dân trong xã hội nên họ cũng được
hưởng các quyền của một công dân. Trong quan hệ hôn nhân bên cạnh khối tài sản
chung thì pháp luật hơn nhân và gia đình hiện hành cũng ghi nhận quyền sở hữu đối với
tài sản riêng của một bên vợ, chồng.
Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Tài sản riêng vợ chồng được quy định tại Điều 32 và Điều 33 LHN&GĐ. Căn cứ
để xác định tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được quy định như sau: “tài sản mà
mỗi người có trước khi kết hơn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong
thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong trường hợp chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân; đồ dùng, tư trang cá nhân”22.
Như vậy để xác định một tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ (chồng) thì phải
dựa vào các căn cứ nêu trên để xác định. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có thể
được tặng cho riêng, thừa kế riêng. Nếu có tranh chấp về tài sản này vợ, chồng phải
chứng minh được rằng tuy nó có trong thời kỳ hơn nhân nhưng nguồn gốc của nó là vợ,
chồng được chủ sở hữu thể hiện ý chí tặng cho hoặc để lại thừa kế riêng cho một bên.
Để xác định tài sản riêng của vợ hoặc chồng còn dựa vào thời điểm vợ, chồng xác
lập quyền sở hữu đối với tài sản đó là trước khi kết hơn. Trước thời điểm kết hơn họ có
tài sản là sở hữu của riêng họ, khi hơn nhân được xác lập, tài sản đó vẫn nằm ngoài khối
tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp sáp nhập tài sản riêng vào tài sản chung).
Trường hợp trong thời kỳ hơn nhân vợ, chồng có căn cứ để chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có quyền chia tài sản chung. Hậu quả pháp lý của
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là: phần tài sản được chia của mỗi bên là

tài sản riêng; hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhận được sau khi chia là tài sản riêng của bên
đó (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác); thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia là tài sản
riêng của bên đó (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). Như vậy quyền sở hữu
tài sản của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được tôn trọng, khi muốn thực hiện một
nhu cầu cá nhân và tránh ảnh hưởng khối tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp hữu hiệu.
LHN&GĐ năm 2000 có những quy định tiến bộ hơn so với LHN&GĐ năm 1986
trong căn cứ xác định tài sản. Thật vậy theo quy định của LHN&GĐ năm 2000: đồ

22

Khoản 1 Điều 33 LHN&GĐ năm 2000.

18


×