Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Đối chất trong tố tụng hình sự lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.17 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

LATHỊ MỸ HƢƠNG
MSSV: 0855030117

ĐỐI CHẤT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHĨA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2008 – 2012

Người hướng dẫn: Ths. DƯ HOÀNG CHÂU
Giảng viên Trường Đại Học Cảnh Sát Nhân Dân

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2012


Những từ, cụm từ viết tắt
BLTTHS 2003

Bộ luật tố tụng hình sự 2003

BLHS 1999

Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009

CAND

Công an nhân dân


CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSGT

Cảnh sát giao thông

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

TTLT05/2005

Thông tư liên tịch 05/2005/ TTLT-VKSNATC-BCABQP ngày 07 tháng 9 năm 2005 về quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003

TTHS

Tố tụng hình sự


VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang
Những từ, cụm từ viết tắt
Mở đầu

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đối chất

6

1.1.Khái niệm và đặc điểm của đối chất

6

1.1.1. Khái niệm đối chất


6

1.1.2. Đặc điểm của đối chất

8

1.2. Vai trò và ý nghĩa của đối chất

12

1.2.1. Vai trò của đối chất

12

1.2.2. Ý nghĩa của đối chất

14

1.3. Các nguyên tắc của đối chất

14

1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đối chất

15

1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án

17


Chương 2: Pháp luật thực định về đối chất và thực tiễn áp dụng

21

2.1. Căn cứ, chủ thể và trình tự, thủ tục của đối chất

21

2.1.1. Căn cứ tiến hành đối chất

21

2.1.2. Chủ thể của đối chất

22

2.1.2.1. Chủ thể tiến hành

22

2.1.2.2. Chủ thể tham gia

28


2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành đối chất

32


2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong đối chất

37

2.2.1. Khái quát tình hình tội phạm

37

2.2.2. Các giai đoạn tiến hành hoạt động đối chất trong TTHS

38

2.3. Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân tồn tại

51

Chương 3: Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đối chất trong
TTHS

56

Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo báo cáo tổng kết tình hình tội phạm của Tổng cục cảnh sát điều tra tội phạm từ

năm 2009 đến năm 2011, trong những năm qua, tình hình tơi phạm trong cả nước đã có
có những biến đổi đáng mừng khi có sự giảm xuống về số lượng. Tuy nhiên, điều đáng
lo ngại là mức độ và tính chất nguy hiểm của tội phạm ngày càng tăng. Các tội phạm
xuyên quốc, các tội phạm sử dụng vũ lực, buôn bán phụ nữ và trẻ em, ma túy, tội phạm
có tổ chức, tội phạm công nghệ cao,… gia tăng với nhiều cách thức tinh vi, phức tạp
hơn như lợi dụng những người thu nhập thấp đi du lịch để thuê vận chuyển ma túy,
giấu ma túy vào những đồ vật khó phát hiện khi kiểm tra bằng máy soi an ninh tại của
khẩu như giày, dép, cúc áo lớn, hay điều chế ma túy từ thuốc ho, tổ chức buôn bán phụ
nữ và trẻ em qua biên giới với số lượng lớn và sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị cơ
quan chức năng phát hiện,… Như vậy, tình hình tội phạm đang diễn biến hết sức phức
tạp.
Trước thực trạng đó, các cơ quan chức năng đang ráo riết đề ra các phương án, chiến
lược thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh
tội phạm. Theo đó, CQĐT đang tích cực lập kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu quả cơng
tác phát hiện, điều tra tội phạm với các biện pháp điều tra hình sự như hỏi cung bị can,
thực nghiệm điều tra, nhận dạng, khám nghiệm hiện trường… góp phần thực hiện mục
tiêu chung phịng chống tội phạm. Tuy nhiên quá trình tiến hành điều tra VAHS hồn
tồn khơng đơn giản. Những trở ngại, bất cập là điều không thể tránh khỏi. Mỗi biện
pháp điều tra đều có sự tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau đồng thời cũng đóng vai trị và
mang ý nghĩa nhất định. Đối chất với tư cách là một biện pháp điều tra VAHS được xem
là biện pháp cần thiết khi các biện pháp khác tỏ ra khơng có hiệu quả trong một số
trường hợp. Sự cần thiết áp dụng biện pháp đối chất sẽ do Cơ quan có thẩm quyền xác
định. Trên thực tế, để tiến hành một cuộc đối chất so với việc tiến hành các biện pháp
điều tra khác là rất khó khăn vì thế mà tỷ lệ áp dụng biện pháp điều tra này so với các
biện pháp khác thấp hơn. Đồng thời, vấn đề quan trọng đáng lưu tâm là nhận thức của
một số chủ thể tiến hành đối chất về biện pháp điều tra này. Họ chưa thực sự có cái nhìn
1


tồn diện về đối chất do đó mà hiệu quả áp dụng của đối chất vẫn chưa cao. Các quy

định của pháp luật cũng chưa làm rõ các vấn đề liên quan dẫn đến việc khó áp dụng trên
thực tế.
Vì thế, để có sự nhận thức đúng đắn về cả mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt động
đối chất cũng như việc tìm ra nguyên nhân và giải pháp góp phần hồn thiện các quy
định pháp luật, nâng cao hiệu quả của biện pháp điều tra hình sự này, tác giả đã lựa
chọn đề tài “Đối chất trong tố tụng hình sự – Lý luận và thực tiễn” để làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác nghiên cứu khoa học về các hoạt động TTHS trong thời gian qua diễn ra khá
sôi nổi và đã thu được những kết quả đáng khen ngợi, góp phần thực hiện mục đích
chung phịng chống tội phạm theo chủ trương, chính sách của nhà nước. Nghiên cứu về
các hoạt động điều tra VAHS là một trong những đề tài thu hút được nhiều sự quan
tâm. Tuy nhiên, riêng về đối chất, hiện nay vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu
chuyên sâu nhằm tìm ra bản chất, những đặc trưng của biện pháp điều tra này cũng như
thực trạng áp dụng của nó. Chúng ta có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu, các
sách báo, tạp chí có liên quan về vấn đề này như Các hoạt động điều tra trong Bộ Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học 2002 của Nguyễn Văn Hoạt,
Hoạt động điều tra các vụ án buôn bán phụ nữ và trẻ em, PGS,TS Nguyễn Văn Cảnh
chủ biên, Giáo trình tố tụng hình sự của Đại Học Luật Hà Nội 2005, Tập bài giảng
Khoa học điều tra hình sự của Đại Học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Tố tụng hình sự
của Đai Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh...
Tuy vậy, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức chung nhất, khá mơ hồ và
chưa đưa ra cho người đọc thấy được cái nhìn tồn diện về đối chất, chưa làm rõ được
bản chất cũng như những đặc trưng của hoạt động điều tra này, mối quan hệ với các
biện pháp điều tra khác trong quá trình giải quyết VAHS.

2


Như vậy, đối chất tuy là đề tài không mới nhưng chưa được đào sâu, khai thác, tìm

hiểu. Do đó, tác giả chọn đề tài này với mong muốn làm rõ những vấn đề chưa rõ đã
nêu ra ở trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, mục đích nghiên cứu của tác giả là làm rõ những vấn đề mang tính lý
luận và thực tiễn của việc thực hiện biện pháp điều tra đối chất trong tố tụng hình sự ở
nước ta, đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của nó.
Theo đó, tác giả sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu các tài liệu lý luận,

-

Hệ thống, phân tích các quy định pháp luật,

-

Nghiên cứu các hồ sơ, báo cáo, chuyên đề về hoạt động đối chất

trong TTHS,
-

Tìm hiểu hoạt động đối chất trên thực tế thơng qua các vụ án

mang tính chất điển hình,
-

Nghiên cứu những vướng mắc, khó khăn gặp phải của các cơ

quan, cá nhân có thẩm quyền khi tiến hành đối chất,

-

Nghiên cứu hiệu quả áp dụng,

-

Đưa ra các kiến nghị, giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả áp

dụng đốí chất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là các vấn đề lý luận và thực tiển về đối chất
trong TTHS Việt Nam.
Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề sau:
- Về nội dung: nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận về đối chất trong pháp luật
thực định Việt Nam và thực tiễn áp dụng,

3


- Về không gian: đề tài sẽ được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động đối chất
diễn ra trên lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà đặc biệt là tại
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
- Về thời gian: đề tài sẽ tìm hiểu, nghiên cứu tất cả các vấn đề liên quan về đối chất
trong khoảng thời gian từ 2009 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường nhận thức và khả năng
nhận thức chân lý trong TTHS nói chung và trong hoạt động đối chất nói riêng.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như so sánh, tổng
hợp, phân tích, đánh giá, tham khảo ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực có liên

quan,… để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Thứ nhất, đây là một cơng trình nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về
đối chất đưa đến người đọc một cái nhìn tồn diện, khách quan nhất về hoạt động này
trong TTHS.
Thứ hai, những phân tích, kiến nghị và giải pháp đưa ra có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các nhà lập pháp, cho những người tiến hành tố tụng.
Thứ ba, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập và cho những người có
quan tâm.
7. Cơ cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt, đề tài
khóa luận này có cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đối chất
Chương 2: Pháp luật thực định về đối chất và thực trạng áp dụng
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đối chất trong TTHS
4


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI CHẤT
1.1.Khái niệm và đặc điểm của đối chất
1.1.1. Khái niệm đối chất
Đối chất là một biện pháp điều tra đã được sử dụng từ rất lâu phục vụ công tác giải
quyết VAHS. Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức về nó.
Ngay BLTTHS 2003 cũng chỉ có một điều luật cụ thể về vấn đề này là Điều 138 bên
cạnh những điều khoản khác có liên quan. Trên thực tế có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu, tạp chí, sách báo đã đưa ra khái niệm về biện pháp điều tra này. Chúng ta có thể
xem xét một số khái niệm sau:
Đối chất là một biện pháp được Bộ luật Tố tụng hình sự cho phép sử dụng trong trường
hợp cần thiết nhằm xác định xem trong các người tham gia tố tụng người nào khai đáng

tin cậy hơn để giúp cho việc đánh giá chứng cứ, xác định sự thật về các tình tiết của vụ
án.[2, tr117]
Đối chất là hoạt động tố tụng hình sự và là hoạt động nghiệp vụ của cơ quan điều tra
được tiến hành bằng cách đồng thời hỏi hai người về cùng một vấn đề nhằm làm rõ
hoặc giải quyết những mâu thuẫn tồn tại trong lời khai trước đây của họ.[3, tr193]
Hay đối chất “là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành hỏi hai người cùng một lúc về
cùng một vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của
họ”.[20, tr262]
Theo từ điển luật học thì đối chất là “hỏi hai hay nhiều người về một vấn đề hay một
tình tiết trong cùng một vụ án mà trước đó lời khai của họ có mâu thuẫn với nhau nhằm
xác định sự thật”.
Trong khi đó, Tập bài giảng Tố tụng hình sự của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
thì cho rằng đối chất “là hoạt động điều tra được áp dụng khi có mâu thuẫn trong lời
khai giữa hai hay nhiều người để xác định sự thật của vụ án”.

5


Nếu nói đối chất là “biện pháp điều tra”, “hoạt động tố tụng hình sự” hay “hoạt động
điều tra” trong TTHS đều không sai. Tất cả các cách gọi trên đều thể hiện đối chất phải
được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong BLTTHS 2003. Thế
nhưng, để làm rõ được nội hàm của đối chất quả thực không hề đơn giản. Nội hàm của
đối chất là tập hợp tất cả các dấu hiệu cơ bản của đối tượng hoặc lớp đối tượng được
phản ánh trong đối chất.
Đối với khái niệm đầu tiên, chúng ta vẫn chưa thấy được nội hàm của đối chất, những
điểm giống và khác so với các biện pháp điều tra khác để lựa chọn áp dụng. Khái niệm
chỉ ra điều kiện áp dụng đối chất là trong trường hợp cần thiết nhưng hiểu thế nào là
trường hợp cần thiết. Thông qua các quy định pháp luật thực định về đối chất (khoản 1
Điều 138 BLTTHS 2003) thì có thể hiểu trường hợp cần thiết là trường hợp khi có sự
mâu thuẫn trong lời khai của hai hay nhiều người về những tình tiết có ý nghĩa cho việc

giải quyết vụ án. Đồng thời, nếu coi đối chất là biện pháp “xác định xem trong các người
tham gia tố tụng người nào khai đáng tin cậy hơn” thì vơ hình chung đã xác định tất cả
những người tham gia tố tụng đều buộc phải có lời khai mà khơng có sự phân biệt về tư
cách tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của mổi người. Theo pháp luật TTHS Việt
Nam, người tham gia tố tụng gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch. Và không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều bị đưa ra đối chất. Do đó,
dùng “người tham gia tố tụng” để chỉ đối tượng có thể bị đưa ra tiến hành đối chất là
chưa thực sự chính xác. Vấn đề nữa đặt ra là chủ thể nào có thẩm quyền tiến hành đối
chất. Nếu xác định chủ thể tiến hành của đối chất là CQĐT như khái niệm thứ hai đưa ra
thì vẫn chưa đầy đủ. Bởi lẽ, CQĐT là người chịu trách nhiệm chính tiến hành các hoạt
động điều tra giải quyết VAHS nhưng pháp luật TTHS cũng cho phép một số cơ quan
khác tiến hành đối chất trong một số trường hợp (khoản 2 Điều 112, khoản 5 Điều 138
BLTTHS 2003, điểm a khoản 1 các Điều 19, 20,21,22 PLTCĐTHS 2004). Do đó, không
nên chỉ ra chủ thể tiến hành của hoạt động đối chất vì khơng đầy đủ và nếu đã chỉ ra chủ
thể tiến hành thì cũng phải chỉ ra cả chủ thể tham gia. Các khái niệm tiếp theo đã phần
6


nào làm rõ được đặc trưng của hoạt động đối chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối chất
không chỉ là hỏi hai người mà có thể hỏi nhiều hơn hai người về cùng một vấn đề liên
quan đến vụ án mà có sự mâu thuẫn trong lời khai trước đây của họ nhằm tìm ra sự thật
khách quan.
Từ những phân tích, đánh giá trên và theo quy định của BLTTHS 2003 có thể đưa ra
khái niệm về đối chất như sau:
“Đối chất là biện pháp điều tra được quy định trong BLTTHS do những người có thẩm
quyền tiến hành bằng cách hỏi đồng thời hai hay nhiều người nhằm giải quyết những mâu
thuẫn trong lời khai trước đây của họ.”
1.1.2. Đặc điểm của đối chất

Thơng qua việc tìm hiểu khái niệm của đối chất ở trên, chúng ta đã phần nào thấy được
những dấu hiệu cơ bản của biện pháp điều tra này. Theo đó, đối chất có những nét đặc
trưng sau:
Thứ nhất, đối chất là việc hỏi đồng thời ít nhất hai người mà lời khai trước đây của họ
mâu thuẫn nhau theo trình tự, thủ tục do đó luật TTHS quy định
Trước khi đưa ra đối chất, những người được đưa ra đối chất đã được tiến hành lấy lời
khai tuy nhiên những lời khai đó khơng có sự thống nhất về cùng một vấn đề. Vì thế,
chủ thể tiến hành sẽ đưa họ ra để tiến hành đối chất nhằm giải quyết mâu thuẫn bằng
cách đặt ra câu hỏi cho họ trả lời hoặc để cho họ tự hỏi lẫn nhau. Trường hợp chủ thể
tiến hành đưa ra những câu hỏi không liên quan đến mâu thuẫn hoặc có mối liên hệ
nhưng lại khơng giải quyết được mâu thuẫn thì khơng mang tác dụng gì đối với việc
làm sáng tỏ mâu thuẫn đó. Đồng thời, đối chất phải hỏi cùng lúc hai người mà không
phải hỏi từng người một vào từng thời điểm khác nhau vì lúc đó bản chất của việc hỏi
này lại trở về là hỏi cung hoặc lấy lời khai. Chúng ta có thể dễ dàng phân biệt được đối
chất với lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và hỏi cung bị can. Trong hai hoạt động
điều tra này chỉ có một đối tượng bị đưa ra lấy lời khai hoặc đưa ra hỏi cung và cũng
khơng nhất thiết khi có mâu thuẫn về các tình tiết trong lời khai mới tiến hành. Trên cơ
7


sở phát hiện ra mâu thuẫn trong quá trình hỏi cung, lấy lời khai, cơ quan có thẩm quyền
mới quyết định có tiến hành đối chất hay khơng. Vì vậy, đối chất là biện pháp tiến hành
sau khi phát hiện ra mâu thuẫn thông qua hỏi cung và lấy lời khai của những người có
liên quan.
Hiện nay, rất nhiều người có quan điểm sai lầm khi cho rằng đối chất là biện pháp cuối
cùng được áp dụng khi các biện pháp khác không thể giải quyết được mâu thuẫn. Về
mặt lý luận, khi tiến hành đối chất mà cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền
vẫn khơng thể giải quyết được mâu thuẫn hoặc phát hiện tình tiết mới thì vẫn được tiến
hành hỏi cung, lấy lời khai và thực hiện các biện pháp điều tra khác như thực nghiệm

điều tra, giám định... để thu thập chứng cứ chứng minh trong VAHS. Pháp luật TTHS
cũng khơng có bất kỳ quy định nào không cho phép áp dụng lấy lời khai, hỏi cung
cũng như bất kỳ biện pháp nào khác sau khi đối chất.
Vấn đề mâu thuẫn có thể được làm rõ khi các đối tượng cùng nói về nó. Có thể lời khai
của họ khác nhau nhưng trong quá trình trả lời các câu hỏi, cùng với những chứng cứ
khác họ tự bộc lộ ra sự gian dối, sự mâu thuẫn trong lời khai của chính mình đồng thời
giúp chủ thể tiến hành xem xét, đánh giá được thái độ khai báo của họ để xem xét đề
nghị tình tiết tăng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, đối chất là là hoạt động tố tụng rất dễ thông cung nếu không được tổ chức và
tiến hành tốt
Tiến hành một cuộc đối chất là một hoạt động rất khó khăn. Bởi lẽ, khi đối chất, những
người đưa ra đối chất có cơ hội được gặp nhau. Bên cạch những người có sự xung đột
về quyền lợi cịn có những đối tượng mà quyền lợi của họ không xung đột nhau và lời
khai của người này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác và ngược lại. Tuy
nhiên sự ảnh hưởng này phải là sự ảnh hưởng tương hỗ tức nếu bất lợi cả hai cùng bất
lợi và ngược lại. Do đó, họ sẽ cố tình thơng cung nhằm tìm kiếm cho mình những lợi
ích cao nhất. Đồng thời, đối với những người mặc dù có mâu thuẫn về mặt lợi ích
nhưng vì những lý do khác nhau họ vẫn thông cung như trường hợp giữa bị can và
người bị hại do bị đe dọa nên khi đối chất họ sẽ khai theo ý của bị can kia… Chủ thể
tiến hành đối chất có thể lợi dụng đối chất để mớn cung, để cho các đối tượng thông
8


công, thực hiện các hành vi trái pháp luật và một khi chủ thể tiến hành cố tình che giấu
cho hành vi sai trái của các đối tượng hay đe dọa họ để họ thống nhất lời khai thì cuộc
đối chất trở thành cơ hội để các đối tượng vi phạm pháp luật.
Như vậy, đối chất tiềm ẩn nguy cơ thơng cung cao khơng chỉ từ phía những người
được đưa ra đối chất mà cịn có thể từ phía chủ thể tiến hành, các cơ quan có thẩm
quyền tổ chức và tiến hành đối chất nếu không được tiến hành và tổ chức tốt.
Thứ ba, đối chất là biện pháp điều tra có sự tác động tâm lý rất lớn đến những người

tham gia
Như đã phân tích, đối chất là việc hỏi hai hay nhiều người mà lời khai trước đây của họ
mâu thuẫn nhau. Ngoại trừ trường hợp do trí nhớ khơng tốt, những người đưa ra đối chất
đã có sự xung đột tâm lý chính vì thế mà lời khai của họ khơng có sự thống nhất. Có
người thì cố tình che dấu một tội phạm khác hoặc che dấu cho chính hành vi vi phạm của
mình; có người khai báo chỉ một phần sự thật vì những lý do riêng... Nói chung, dù họ
khai sai hay khai đúng thì tất cả đều có ngun nhân và mỗi người cũng hồn tồn ý thức
được hành vi của mình. Vì thế mâu thuẫn mới phát sinh và nhiệm vụ của đối chất là giải
quyết mâu thuẫn đó bằng cách tìm ra và xóa bỏ ngun nhân của mâu thuẫn, giải quyết
sự xung đột về mặt tâm lý. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt khó khăn do nó làm thay đổi
lập trường của những người đưa ra đối chất, chuyển từ cố tình khai báo gian dối sang
thành khẩn khai báo. Điều này đòi hỏi chủ thể tiến hành đối chất phải hết sức cố gắng tác
động đến tâm lý của người tham gia đối chất nhằm chuyển biến thái độ của họ theo
hướng tích cực, tìm ra được sự thật đang bị che dấu.
Như vậy, đối chất là cách thức lần theo dấu vết trong tâm lý và ý thức. Đây là cách
thức mà cơ quan điều tra sử dụng để giải quyết những tình tiết, vấn đề mâu thuẫn cần
làm rõ dựa trên cơ sở khoa học, tìm đến sự thật khách quan. Theo đó, q trình đối chất
là quá trình tìm đến sự đồng nhất trừu tượng trong lời khai của những đối tượng được
đưa ra đối chất bằng cách để họ thực hiện quá trình tư duy. Có thể hiểu sự đồng nhất
một cách đơn giản trên cơ sở triết học Mác - Lênin là A trùng với A. Đồng nhất là một
phạm trù thể hiện một sự vật, hiện tượng, khái niệm…phải là một với bản thân nó, y
ngun nó, khơng thể là một sự vật, hiện tượng, một cái khác. Mỗi đối tượng chỉ đồng
9


nhất với chính nó. Nói đơn giản là hoạt động đối chất nhằm tìm ra cái chung được ẩn
dấu tức là tìm ra sự thật khách quan. Sự thật khách quan chỉ có một và chỉ một, khơng
thể tồn tại hai sự thật khách quan về cùng một vấn đề. Vì thế, cùng một sự việc thì
khơng thể có những lời khai khác nhau, mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật
biện chứng quan niệm thế giới vật chất là một thể thống nhất luôn vận động và biến

đổi. Trong một thời gian nhất định A là A nhưng đồng thời nó cũng có sự biến đổi bởi
những mâu thuẫn nội tại cho nên A khơng phải hồn tồn là A nữa mà có thể trở thành
A1,A2... Vậy tính đồng nhất không phải là cái cơ bản lâu dài mà sự vận động, biến đổi
mới là bất biến, vĩnh viễn. Dó đó, cái mà chúng ta hướng tới là tìm ra cái đồng nhất
trừu tượng. Sự vật hiện tượng là bản thân nó nhưng nó có thể biểu hiện dưới những
dạng thức có sự khác nhau. Ví dụ trong đối chất, khơng thể có hai lời khai giống như
nhau về từ ngữ, cách diễn đạt khi nói về cùng một vấn đề, cùng một ý. Người ta có thể
dùng những lời lẽ khác nhau để cùng nói về ý đó. Cái mà chúng ta tìm kiếm là điểm
chung chứ khơng phải là sự chính xác trong từng câu chữ.
Q trình đối chất là một quá trình tái tạo. Sự “tái tạo” lại trong trí nhớ của một người
dưới dạng mô tả, lời khai. Sự thật khách quan được phản ánh vào trong ý thức của con
người và được con người nhận thức, lưu trữ vào trong bộ não. Chủ nghĩa Mac-Lênin đã
chỉ ra rằng “con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; nhận thức là
sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một q trình vẫn động phát triển
khơng ngừng đưa con người từ khơng biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện
tượng đến bản chất”[4]. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền trong q trình đối chất sẽ tác
động vào nhận thức của những người đưa ra đối chất để họ thực hiện quá trình tư duy,
tái tạo lại trong trí nhớ về những gì đã xảy ra. Tất nhiên, sự thật khách quan một khi
được phản ánh vào trong bộ não của con người đã có sự “vận động” tức thay đổi phụ
thuộc vào các điều kiện tiếp nhận thông tin, vào tâm lý của đối tượng... Do đó, khi tiến
hành đối chất cần có sự linh động, sáng tạo mà không nên rập khuôn, bảo thủ.

10


1.2. Vai trò và ý nghĩa của đối chất
1.2.1. Vai trị của đối chất
Khơng phải ngẫu nhiên mà đối chất lại được quy đinh trong BLTTHS 2003 với tư cách
là một biện pháp điều tra bên cạnh những biện pháp điều tra khác như lấy lời khai
người làm chứng, hỏi cung bị can, thực nghiệm điều tra, giám định… nhằm giải quyết

VAHS. Trong cuốn 100 năm Khoa Học Điều Tra Hình Sự Thế Giới của Guyếc - Gien
Tc - Van có một nhân vật được nhắc đến khá nhiều đó là Vi-đốc, một người tù vượt
ngục và sau này trở thành Chánh mật thám của Sở mật thám Paris. Ông đã bắt tay với
cảnh sát Paris để lùng bắt tội phạm vì hơn ai hết ơng là một kẻ phạm tội có thời gian
sinh sống ở trong tù khá lâu và hiểu được tâm lý của những người phạm tội. Ông đã
đưa ra một nguyên tắc: “Chỉ có những tội phạm mới đấu tranh chống lại có hiệu quả
bọn phạm tội”. Và chính ơng là bằng chứng sống cho ngun tắc của mình. Nói như
vậy khơng có nghĩa đối chất là quá trình diễn ra giữa các tội phạm. Tuy nhiên, trong
thực tế, đối chất thông thường diễn ra giữa bị can với bị can, bị can với người bị nghi
phạm tội. Mặc dù họ vẫn chưa phải là tội phạm, chưa bị kết án bằng một bản án của
Tòa án nhưng họ đã bị cơ quan điều tra nghi ngờ có những dấu hiệu phạm tội, dấu hiệu
thỏa mãn một hay một số cấu thành tội phạm nào đó. Sau khi tiến hành các biện pháp
điều tra khác nhưng vẫn cịn một số mâu thuẫn về các tình tiết trong lời khai của họ thì
cơ quan có thẩm quyền đưa họ ra tiến hành đối chất. Qua đối chất, các đối tượng sẽ
được trực tiếp đối mặt với nhau và cùng khai về các tình tiết mâu thuẫn đó đặc biệt là
có thể được đặt câu hỏi cho nhau nhằm giúp cơ quan có thẩm quyền tìm ra được sự thật
của vấn đề.
Như vậy, đối chất đóng vai trị rất quan trọng.
- Đầu tiên, đối chất sẽ làm rõ, giải quyết được những mâu thuẫn còn tồn tại
trong các lời khai, thống nhất các lời khai của những người đưa ra đối chất, giúp
cơ quan có thẩm quyền, nghười có thẩm quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để kết luận về tội phạm được đầy đủ, chính xác, phù hợp.

11


- Q trình đối chất có thể giúp cơ quan có thẩm quyền, chủ thể có thẩm
quyền mở rộng điều tra thông qua việc thu thập các thông tin mới làm cơ sở để
vạch phương hướng điều tra làm rõ các vấn đề cụ thể của vụ án. Trong quá trình
đối chất, thơng qua việc hỏi về các tình tiết mâu thuẫn của người tiến hành đối

chất với các đối tượng bị đưa ra đối chất và cho các đối tượng hỏi lẫn nhau có
thể phát hiện thêm những tình tiết mới mà quá trình điều tra chưa thu thập, xác
minh được. Thơng thường những tình tiết này là những tình tiết khá quan trọng
mà các đối tượng có thể cố tình dấu hoặc quên đi và khi bị tác động từ phía
người tiến hành đối chất và chính các đối tượng khác cùng tham gia họ có thể
nhớ lại hoặc khai ra mặc dù trước đây đã cố tình dấu giếm. Đây là kết quả vượt
ngoài sự mong đợi của đối chất, giúp cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm
quyền mở ra một hướng điều tra mới để việc giải quyết vụ án được tồn diện và
chính xác hơn và cịn có thể giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án
khác.
- Qua đối chất, cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền vạch trần
được thái độ ngoan cố của các đối tượng, đánh gục ý chí chống đối, làm chuyển
biến thái độ khai báo của họ theo hướng tích cực. Đồng thời, đối chất cũng đóng
vai trị quan trọng trong việc tìm hiểu được tâm lý của các đối tượng trong quá
trình đối chất, hiểu được nguyên nhân các lời khai, lý do mà họ cố tình chống
đối để có hướng xử lý phù hợp.
1.2.2. Ý nghĩa của đối chất
Qua việc tìm hiểu những dấu hiệu cơ bản cũng như vai trò của đối chất trong hoạt động
điều tra nói riêng và trong TTHS nói chung, đối chất đã thể hiện được tầm quan trọng
của mình và mang những ý nghĩa tích cực, lớn lao cho việc giải quyết VAHS đúng đắn,
khách quan, toàn diện.
- Đầu tiên, đối chất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi biện pháp lấy lời
khai và hỏi cung bị can đã sử dụng mà khơng thể tìm ra sự thật khách quan đang
ẩn dấu, khơng thể giải thích nổi những mâu thuẫn trong lời khai của các đối
tượng để làm sáng tỏ vấn đề.
12


- Đối chất là tạo cơ sở cho việc mở rộng điều tra, giải quyết vụ án chính
xác, tồn diện, khách quan.

- Trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, đối chất tạo điều kiện
để tội phạm học hoàn thành nhiệm vụ của mình tốt hơn thơng qua việc nắm bắt
tâm lý của các đối tượng. Trong quá trình thực hiện đối chất, CQTHTT, NTHTT
tìm ra nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội từ đó có các biện pháp
xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội đó, nhằm mục tiêu chung phịng chống
tội phạm.
1.3. Các ngun tắc của đối chất
Nguyên tắc là những quan điểm, tư tưởng nền tảng định hướng hành vi. Nguyên tắc
của đối chất là những quan điểm, tư tưởng định hướng hoạt động đối chất trong TTHS.
Với tư cách là một biện pháp điều tra được quy định trong BLTTHS 2003, đối chất
phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của hoạt động điều tra VAHS nói riêng và các
nguyên tắc cơ bản của TTHS nói chung. Nguyên tắc cơ bản về hoạt động điều tra là
những tư tưởng chỉ đạo chi phối hoạt động điều tra VAHS. Nguyên tắc cơ bản của
TTHS là những tư tưởng, quan điểm, những phương châm và định hướng chi phối hoạt
động xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Vì những đặc điểm riêng biệt của đối chất
mà khi tiến hành biện pháp điều tra này cần đặc biệt chú trọng đến hai nguyên tắc sau:
1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong đối chất
Đây là nguyên tắc bắt buộc và bao trùm trong tất cả các hoạt động TTHS nói chung và
hoạt động đối chất nói riêng. Nó là cơ sở định hướng cho các nguyên tắc khác và được
áp dụng thống nhất để giải quyết tất cả các vụ án hình sự. Điều 12 Hiếp Pháp 1992 quy
định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và
của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.” Theo đó, BLTTHS 2003 cũng đã có quy
13


định làm rõ nguyên tắc này tại Điều 3: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành
theo quy định của Bộ luật này.”
Với tư cách là một biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra được quy định trong
BLTTHS 2003, đối chất phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật TTHS về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành nhằm giải quyết vụ án. Bởi lẽ, như đã phân tích
ở trên, đối chất rất dễ dẫn đến thông cung nếu không được tổ chức và tiến hành tốt. Khi
có bất kỳ sự vi phạm nào được thực hiện, kết quả đối chất khơng cịn đảm bảo được
khách quan và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Đối chất là một hoạt động điều tra VAHS và kết quả của nó cùng với kết quả của
những biện pháp điều tra khác là cơ sở đưa ra bản kết luận điều tra. Một kết luận điều
tra sai có thể kéo theo một quyết định truy tố sai tiếp theo sau có thể là một bản án
khơng đúng với sự thật. Chỉ cần một sai sót nhỏ trong đối chất cũng có thể đẩy người
vơ tội vào vịng lao lý, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền cơ bản của con người
đặc biệt là quyền sống, quyền tự do và kéo theo những hệ lụy khác về mặt tâm lý, xã
hội…. Do đó, khi tiến hành hoạt động đối chất, cơ quan có thẩm quyền chỉ được phép
thực hiện trong phạm vi các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói
riêng. Các quyết định đưa ra phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS và
phải triệt để tn thủ nó, phải tơn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Pháp luật TTHS đã quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc tiến hành hoạt động đối chất. Theo đó, các
chủ thể này chỉ được thực hiện những gì mà pháp luật cho phép, có quy định, không
được lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Đối với những người tham gia đối chất, về mặt nguyên tắc được thực hiện
những gì mà pháp luật không cấm tuy nhiên do đặc thù quan hệ pháp luật TTHS và bị
chi phối bởi tư cách tố tụng họ bị hạn chế một số quyền và phải thực hiện những nghĩa
vụ nhất định.

14



Để nguyên tắc pháp chế được đảm bảo trong hoạt động đối chất thì trước tiên là phải
hồn thiện hệ thống pháp luật về đối chất. Pháp luật có hồn thiện, các quy định có
thống nhất, rõ ràng thì việc tn thủ nó mới được đảm bảo, chính xác. Sẽ là một sự khó
khăn rất lớn trong việc triển khai áp dụng đối chất nói riêng và tất cả các hoạt động
khác của TTHS nói chung khi có sự khơng thống nhất, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc
khi khơng có những quy định đầy đủ của pháp luật TTHS về các vấn đề liên quan. Các
cơ quan, tổ chức không bị nhầm lẫn, sai sót hay khơng thể cố ý nhầm lẫn, sai sót khi
thực hiện các hoạt động TTHS trong đó có đối chất. Sự mâu thuẫn, chồng chéo của
pháp luật sẽ tạo cơ hội cho những hành vi sai trái và khắc phục nó là việc khơng hề dễ
dàng đặc biệt khi liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp thiết thân của con người
như quyền sống, quyền tự do, quyền được học tập,…
Phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của hoạt động đối
chất. Đây là vai trị khơng chỉ của VKS mà cịn là nhiệm vụ của chính CQĐT trực tiếp
thi hành biện pháp điều tra này, các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Phải kịp thời phát
hiện những sai sót trong q trình đối chất để kịp thời xử lý, đảm bảo việc tuân thủ
đúng pháp luật TTHS. Công tác kiểm sát, kiểm tra phải được thực hiện thường xuyên,
nghiêm túc giúp phát hiện ra những sai trái để ngăn chặn hoặc xử lý trong quá trình đối
chất.
Khơng ngừng nâng cao trách nhiệm, trình độ chun môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp của các chủ thể tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, ý thức tuân thủ
pháp luật của toàn thể nhân dân. Có như thế thì q trình giải quyết vụ án nói chung và
q trình tiến hành đối chất nói riêng mới đảm bảo được các quy định của pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng.
1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án
Đối chất là biện pháp pháp điều tra VAHS góp phần xác định sự thật khách quan của
vụ án.
Điều 10 BLTTHS 2003 đã quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan,
15



toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ
tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo.”
Tìm ra sự thật khách quan của vụ án là mục đích hướng tới khi giải quyết một VAHS
mà chủ yếu thông qua việc tiến hành các hoạt động điều tra.
Trong đối chất, sự thật khách quan có thể được làm sáng tỏ bằng việc giải quyết mâu
thuẫn và có thể mở rộng điều tra khi thu thập được những thông tin mới có ý nghĩa cho
việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đôi khi không phải mâu thuẫn trong lời khai của các
đối tượng được xóa bỏ thì sự thật khách quan của vụ án đã được sáng tỏ.
Mọi sự vật, sự việc đều có tính hai mặt, có cả ưu điểm và hạn chế. Bên cạnh những ưu
điểm, quá trình đối chất dễ bộc lộ những điểm yếu trong tài liệu, chứng cứ của cơ quan
có thẩm quyền. Thay vì những người phải bị cách ly, không cho tiếp xúc, trao đổi với
nhau lại có cơ hội gặp nhau, đặc biệt là đối với những đối tượng đã có nhiều tiền án,
tiền sự, ngoan cố, có nhiều chiêu thức đánh lừa CQĐT…lại càng có cơ hội để gặp gỡ,
củng cố tâm lý cho nhau, thông cung, thống nhất lời khai giả làm chệch hướng điều tra.
Vì thế, mặc dù mâu thuẫn khơng cịn tồn tại nhưng sự thống nhất đó khơng phải là sự
thật khách quan. Cơ quan có thẩm quyền và chủ thể tiến hành đối chất có thể bị các đối
tượng “qua mặt”. Đồng thời để tránh trường hợp do những lý do nào đó mà chủ thể
tiến hành đối chất chỉ chú trọng tìm ra những chứng cứ buộc tội mà phớt lờ những
chứng cứ gỡ tội có lợi cho những người đưa ra đối chất dẫn đến làm oan người vô tôi,
kết qủa đối chất cùng với kết quả của các hoạt động tố tụng khác không phản ánh đúng
bản chất của sự việc đã xảy ra. Chỉ cần một sai sót nhỏ vấn đề khơng được giải quyết
mà còn làm phát sinh thêm những vấn đề phức tạp mới như xác định sai sự thật khách
quan, người tiến hành đối chất sơ hở tạo cơ hội cho các đối tượng thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật,…
Chính vì thế, trong đối chất phải hết sức thận trọng và luôn chú trọng, tuân thủ nghiêm
túc nhất nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án.

16



Hiện nay, có một số quan điểm cho rằng đối chất là một con dao hai lưỡi. Nói như vậy
chưa thực sự chính xác. Bởi lẽ mọi biện pháp điều tra đều tiềm ẩn những rủi ro, có thể bị
vi phạm nếu không được tổ chức và tiến hành tốt, không đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các
quy định của pháp luật. Vì vậy, đối chất nếu thực hiện thành cơng thì vụ án sẽ được giải
quyết nhanh chóng, chính xác bằng khơng có thể làm chệch hướng điều tra, làm vụ án
càng phức tạp, khó khăn trong việc thu thập chững cứ và có thể rơi vào bế tắc.
VAHS phải được xem xét một cánh toàn diện, đầy đủ khơng chỉ có chứng cứ buộc tội
mà cịn phải xem xét cả chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự.
Quá trình đi tìm sự thật khách quan sẽ gặp rất nhiều khó khăn và đơi khi khơng tìm ra
được hướng giải quyết. Sự chống đối, bất hợp tác của các đối tượng, sự thiếu thốn các
trang thiết bị phục vụ cho công tác điều tra, sự non trẻ, thiếu kinh nghiệm cũng như
năng lực của các bộ... Tuy nhiên khơng phải vì thế mà cơ quan có thẩm quyền lại có
thái độ khơng tơn trọng các quy định của pháp luật, làm việc dựa trên ý chí chủ quan
và áp đặt sự việc theo suy nghĩ của mình, khơng đi theo các tình tiết khách quan của vụ
án. Sự thật khách quan phải dựa trên những chứng cứ có thật, có liên quan đến vụ án và
đặc biệt là phải được thu thập hợp pháp theo đúng các quy định của BLTTHS 2003.
Trong đối chất, các mâu thuẫn đưa ra phải được giải thích, chứng minh bằng cách đối
chiếu, so sánh, đánh giá tất cả các ý kiến, các dấu vết để lại, lời khai của của các đối
tượng, đồng thời phải dựa vào mối liên hệ với các tình tiết khác trên cơ sở khoa học để
tìm ra chứng cứ chứng minh, nghiêm cấm các trường hợp lợi dụng đối chất để mớm
cung, bức cung, dụ cung làm sai lệch sự thật khách quan của vụ án và chệch hướng
điều tra.
Do đó, để đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án được tuân thủ
triệt để cần:
- Phải hết sức thận trọng, ngăn chặn ngay từ ban đầu những ý đồ
không hợp pháp, cũng như phải chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để cuộc
đối chất diễn ra sn sẻ và hiệu quả, khơng nên nóng vội và chỉ nghe

17


những lời khai phù hợp với nhận định ban đầu nhằm xác định được sự thật
khách quan của vụ án. Để đảm bảo được nguyên tắc này, thì trước tiên
phải đáp ứng được nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.
- Cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, chỉ được thực hiện những gì mà pháp luật đã quy
định. Phải đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng.
- Khơng ngừng nâng cao, hồn thiện trình độ chuyên môn và phẩm
chất, đạo đức nghề nghiệp. Phải tôn trọng các quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng, khơng được áp đặt ý chí chủ quan của mình
lên ý kiến của họ hay xâm phạm đến quyền được khai báo của họ.
- Xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn thiện đặc biệt là
cơ chế bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, nhân phẩm và trách nhiệm
đối với người vi phạm thật nghiêm minh, đủ sức răn đe, ngăn ngừa các
hành vi sai trái.
Xác định sự thật khách quan của vụ án vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc của các hoạt
động TTHS nói chung và đối chất nói riêng. Nguyên tắc này đảm bảo cho việc giải
quyết vụ án chính xác, phù hợp, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tôi,
tạo sức răn đe đối với các hành vi khác.
Tìm ra sự thật khách quan của vụ án là nhiệm vụ và cũng là mục đích của TTHS. Tất
cả các hoạt động, các trình tự thủ tục đều phải tiến hành theo một trình tự nhất định,
khơng được bỏ sót bất kỳ giai đoạn nào trong suốt q trình và cũng khơng được có bất
kỳ sai sót nào.
Vậy, để đối chất diễn ra theo đúng các qui định của pháp luật TTHS và đem lại hiêu
quả cao thì phải tuân thủ và kết hợp tất cả các nguyên tắc đã nêu trên.

18



CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ ĐỐI CHẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Pháp luật thực định về đối chất
2.1.1. Căn cứ tiến hành đối chất
Trong đời sống hàng ngày, mỗi khi có mâu thuẫn phát sinh, người ta thường “mặt đối
mặt” để “nói cho ra lẽ”. Các bên trực tiếp gặp nhau nhằm xác định xem ai đúng, ai sai,
ai là người gian dối, ai là kẻ thành thật. Như vậy, việc các bên trực tiếp gặp nhau để
làm rõ những hiểu lầm, mâu thuẫn là cần thiết và đem lại hiệu quả cao. Từ chính những
kết quả tích cực của cách giải quyết mâu thuẫn này trong thực tế cuộc sống, pháp luật
TTHS đã vận dụng vào trong hoạt động TTHS nhằm giải quyết vụ án bằng việc khái
quát và quy định thành biện pháp điều tra đối chất – Một biện pháp điều tra được áp
dụng khi phát sinh mâu thuẫn trong lời khai trước đây của hai hay nhiều người. Tất
nhiên, khi đã được luật hóa thì đối chất đã có những thay đổi, có những khác biệt so
với cách thức mà con người vẫn thường áp dụng trong đời sống hằng ngày.
Theo quy định tại khoản Điều 138 BLTHS thì: “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn
trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra viên tiến hành đối chất”. Như vậy
có thể hiểu, căn cứ đối chất là “có sự mâu thuẫn trong lời khai của hai hay nhiều
người”.
“Sự mâu thuẫn trong lời khai của hai hay nhiều người” không phải là trong suy nghĩ,
trong phán đoán của ĐTV mà phải được thể hiện ra bên ngồi dưới hình thức các biên
bản ghi lời khai hoặc biên bản hỏi cung bị can.
Về mặt lý luận, có những tài liệu phân chia mâu thuẫn trong lời khai ra làm mâu thuẫn
cơ bản và mâu thuẫn tình tiết. Mâu thuẫn cơ bản là những mâu thuẫn có liên quan đến
những vấn đề cần phải chứng minh trong quá trình điều tra từng vụ án cụ thể. Mâu
thuẫn về tình tiết có nghĩa là lời khai của hai hay nhiều người về một sự việc, hiện
tượng cơ bản là thống nhất, nhưng có một hay một số tình tiết được phản ánh trong lời
khai cịn mâu thuẫn mà giải quyết những mâu thuẫn này có ý nghĩa rất quan trọng để
giải quyết đúng đắn vụ án. Qua cách phân loại này, có quan điểm cho rằng chỉ nên tổ
19



chức đối chất khi có mâu thuẫn tình tiết, khơng nên tổ chức đối chất khi có mâu thuẫn
cơ bản.
Dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng khi có mâu thuẫn trong lời khai
thì ĐTV có thể cho đối chất. Việc phân loại mâu thuẫn không ảnh hưởng đến việc xác
định căn cứ của đối chất trong TTHS.
Vấn đề đặt ra, nếu khơng có mâu thuẫn trong lời khai của hai hay nhiều người thì chủ
thể tiến hành có cho đối chất được khơng? Về mặt lý luận, cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng chỉ có thẩm quyền tiến hành những gì mà pháp luật cho phép.
Do đó, trong trường hợp nêu trên, chủ thể tiến hành không thể tiến hành đối chất.
2.1.2. Chủ thể của đối chất
2.1.2.1. Chủ thể tiến hành
 ĐTV là chủ thể chủ yếu tiến hành đối chất
Khoản 1 Điều 138 BLTHS quy định: “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời
khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra viên tiến hành đối chất”. Quy định này đã
chỉ rõ chủ thể tiến hành đối chất là ĐTV. Đây cũng chính là sự khẳng định lại một lần
nữa nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV được ghi nhận tại điểm đ khoản 1 Điều 35
BLTTHS 2003: “Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất,
nhận dạng, thực nghiệm điều tra”.
 Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT
Khi được phân cơng điều tra VAHS thì Thủ trường, Phó thủ trưởng CQĐT cũng có
những quyền và nghĩa vụ như ĐTV được phân công giải quyết vụ án nên cũng sẽ tiến
hành đối chất (điểm g khoản 2, khoản 3 Điều 34 BLTTHS 2003). Do đó, cần tránh
trường hợp nhầm lẫn rằng Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT chỉ tổ chức và chỉ đạo
việc thực hiện các hoạt động điều tra mà còn trực tiếp giải quyết VAHS và tiến hành
đối chất.

20



 Kiểm sát viên
Đồng thời Khoản 5, Điều 138 cũng có ghi nhận: “Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát
viên có thể tiến hành đối chất. Việc đối chất được tiến hành theo quy định tại Điều
này.” Như vậy, ngoài ĐTV ra thì KSV cũng có thể tiến hành đối chất khi cần thiết.
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và giám sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của Hiến pháp 1992 và được thể chế hóa trong BLTTHS 2003, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2002 và các quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp quan trọng, Viện kiểm sát vẫn được quyền thực hiện các hoạt động điều tra
trong giai đoạn điều tra và cả trong giai đoạn truy tố trong đó có đối chất. Cụ thể theo
khoản 2 Điều 112 BLTTHS 2003 và mục 14.3 TTLT 05/2005, VKSND vẫn được
quyền tiến hành các hoạt động điều tra gồm hỏi cung bị can, lấy lời khai, thực nghiệm
điều tra, đối chất. Viện trưởng VKSND sẽ phân công KSV thực hành quyền công tố và
giám sát tư pháp trong qúa trình giải quyết vụ án. Như vậy, KSV được phân cơng trong
vụ án đó là người trực tiếp tiến hành đối chất.
Viện trưởng VKS, Phó viện trường VKS khi trực tiếp tham gia giải quyết VAHS thì
cũng có những quyền và nghĩa vụ như KSV và cũng có nhiệm vụ trực tiếp tiến hành
đối chất nếu có đủ cơ sở. Theo đó, trong q trình thực hiện giám sát hoạt động điều tra
có hai trường hợp KSV được trực tiếp tiến hành đối chất gồm:
Thứ nhất, khi có yêu cầu của CQĐT
Hiện tại, chưa có một quy định pháp luật nào cũng như bất kỳ hướng dẫn nào của cơ
quan có thẩm quyền quy định về vấn đề này. Do đó, việc xác định trong trường hợp
nào thì CQĐT sẽ được yêu cầu VKSND tiến hành đối chất, thủ tục của nó ra sao,
VKSND có được quyền từ chối hay khơng và nếu được thì những trường hợp nào luật
cho phép, những trường hợp nào khơng? Chính vì vậy, thơng thường, khi thấy cần thiết
thì CQĐT sẽ yêu cầu VKS thực hiện. Thế nhưng, tính chất “cần thiết” này hồn tồn
chỉ mang tính định tính tùy vào nhận thức của CQĐT. Nếu thấy khơng “cần thiết, VKS
có thể từ chối. Mặc dù, theo quy định tại Điều 115 BLTTHS 2003 thì mọi yêu cầu của
CQĐT trong giai đoạn điều tra “phải được cơ quan, tổ chức, công dân nghiêm chỉnh
21



×