Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh bình phước thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.89 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
============

VÕ LIỄU NGUN
MSSV: 3250126

CƠNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CƠNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH BÌNH PHƯỚC – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2007-2011

Người hướng dẫn: Th.S TRẦN THỊ THU HÀ
Giảng viên Khoa Luật Hành Chính

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – Năm 2011


MỤC LỤC
Phần mở đầu.
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ................................................................... 07
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trị của đội ngũ
cán bộ, cơng chức cấp xã ........................................................................ 07
1.1.1. Khái niệm ....................................................................................... 07
1.1.2. Đặc điểm ......................................................................................... 12
1.1.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã................................ 15
1.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ............ 18
1.2.1. Quan niệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng


cán bộ, công chức cấp xã ................................................................. 18
1.2.2. Quy định pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã ................................................................. 21
1.2.3. Tầm quan trọng của công tác đào tạo , bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã ................................................................. 28
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
cấp xã ở tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay và một số giải pháp ... 31
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở tỉnh Bình Phước. ........................................................................ 31
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước ................. 31
2.1.2. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Bình Phước ................... 32
2.2 Thực trạng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở tỉnh Bình Phước hiện nay.......................................................... 34
2.2.1. Kết quả đạt được............................................................................. 34
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế.................................................................... 42
 Một số mặt hạn chế ......................................................................... 42
 Nguyên nhân của hạn chế ............................................................... 45


2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Bình Phước hiện nay. ..................... 48
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục 1, 2.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống chính quyền bốn cấp
của chúng ta. Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư

trú. Bởi vậy, cấp xã là cấp có vị trí rất đặc biệt, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, là nơi tổ chức thực hiện trên thực tế mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Từ vai trò quan trọng của cấp xã, lại càng thấy rõ hơn vai trò của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã. Họ là lực lượng nịng cốt, quyết định sự vận hành trơi chảy
của tồn bộ hệ thống chính trị cơ sở, là hạt nhân cơ bản quyết định mọi thắng lợi
của chính quyền cơ sở. Khơng có cán bộ, cơng chức cấp xã khơng thể có chính
quyền cấp xã. Khơng có đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã mạnh không thể có
chính quyền cấp xã vững mạnh. Mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cấp xã làm
được việc thì mọi việc đều xong xuôi…”.
Tuy nhiên trên thực tế, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Việt Nam chưa
phải là lực lượng hùng hậu nhìn từ phương diện chất lượng. Tham gia vào hệ
thống chính trị cơ sở từ điểm xuất phát rất thấp, đa số họ còn hạn chế về trình độ,
năng lực. Một bộ phận cán bộ, cơng chức cấp xã có nguy cơ bị tụt hậu trong điều
kiện nhà nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế…
Khơng ít cán bộ, cơng chức cấp xã chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới. Điều này đe dọa trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả cũng như sự tồn tại
bền vững của chính quyền cấp cơ sở ở nước ta.
Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
xã, phường thị trấn cần phải được quan tâm đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Vì
dù có thể trưởng thành trong thực tiễn song người cán bộ, công chức nói chung
và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng khơng thể đứng ngồi q trình đào tạo,
bồi dưỡng. Nói cách khác, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã phải là
việc làm thường xuyên, nghiêm túc và hiệu quả.
1


Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, cơng chức nói chung và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng.

Song bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn tổ chức hoạt động này cũng bộc
lộ không ít bất cập, hạn chế. Vì vậy, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức ở cơ sở là yêu cầu khách quan, cấp bách trong giai đoạn hiện
nay.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, kết hợp với việc tìm hiểu thực tiễn ở
tỉnh Bình Phước, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức cấp xã ở tỉnh Bình Phước – Thực trạng và giải pháp” làm khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tìm hiểu những vấn đề lý luận và pháp lý về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Trên cơ sở thực tiễn, đề tài nghiên cứu về thực
trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại Bình Phước để đối
chiếu với lý luận và các quy định pháp luật hiện hành về vấn đề này. Từ những
kết quả đó, đề tài có sự phân tích, đánh giá để tìm ra ngun nhân, đưa ra giải
pháp nhằm khắc phục những hạn chế và hồn thiện hơn cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã khơng chỉ ở Bình Phước nói riêng mà còn ở các
địa phương khác. Đề tài còn góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan
trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Phạm vi nghiên cứu: ở tỉnh Bình Phước, trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng một số các phương pháp cụ thể
khác như: phân tích, so sánh, chứng minh, diễn giải, quy nạp…trong quá trình
thực hiện nghiên cứu đề tài kết hợp với việc cập nhật những quy định pháp luật
2



hiện hành, thu thập những thông tin, dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau trong quá
trình đi tìm hiểu thực tiễn để có được kiến thức sâu hơn về vấn đề cần nghiên
cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu hồn thiện các quy định
pháp luật hành chính nói riêng và hệ thống pháp luật ở nước ta về công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã. Đây cũng là đề tài tham khảo cho sinh
viên chuyên ngành luật và những ai quan tâm đến nội dung này.
6. Bố cục của khóa luận:
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
hai chương:
Chương 1
Cơ sở lý luận và pháp lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã
Chương 2
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã ở tỉnh
Bình Phước trong giai đoạn hiện nay và một số giải pháp
Do năng lực thực tiễn, trình độ lý luận và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề
tài khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định và chưa thật hồn chỉnh. Vì
vậy, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của q thầy, cơ để giúp tác giả
tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện đề tài cả về lý luận lẫn thực tiễn, góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã tại Bình Phước nói riêng và đội
ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã nói chung ngày càng vững mạnh.
Cuối cùng, xin được tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Cơ giáo – Thạc sỹ Trần Thị
Thu Hà, người đã tận tình dành nhiều thời gian hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn
thành đề tài này. Đồng thời, kính gửi lời cảm ơn đến tồn thể q thầy, cơ
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Khoa Hành Chính
nói riêng đã truyền đạt những kiến thức quý báu làm hành trang cho chúng em
trong tương lai.
3



Chương 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1.1 Khái niệm
Trong nền hành chính của bất cứ một quốc gia nào, cán bộ, cơng chức ln
có vị trí đặc biệt quan trọng. Cán bộ, công chức là hạt nhân của các cơ quan, tổ
chức nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức nhà nước hay
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước nói chung đều được thực hiện chủ yếu bằng
chính hoạt động của cán bộ, cơng chức nhà nước. Trình độ cán bộ, cơng chức
hành chính nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
luôn là hệ quả trực tiếp từ hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, cơng chức
hành chính nhà nước.
Trước đây, ở nước ta, việc phân định cán bộ, công chức tương đối khó khăn
vì các quy định pháp lý thiếu sự rõ ràng. Nhưng hiện nay, với sự ra đời của Luật
Cán bộ, công chức 2008, các khái niệm “cán bộ”, “công chức”, “cán bộ, công
chức cấp xã”... đã được Luật hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiếp cận và phân
biệt.
 Khái niệm cán bộ:
Tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008, khái niệm cán bộ được
quy định cụ thể như sau: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kì trong các cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh), ở huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.


4


Theo định nghĩa này, chỉ những ai là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kì, làm việc trong các cơ
quan Nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước mới là cán bộ. Nói
cách khác, khái niệm cán bộ nêu tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008 được
giới hạn trong một phạm vi khá hẹp, không chung chung, trừu tượng và dễ gây
nhầm lẫn với khái niệm công chức như trước. Điều đáng nói là hiện nay, với cách
hiểu này, cán bộ bao gồm những người thỏa mãn các dấu hiệu luật định làm việc
ở trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện). Không bao gồm những người được bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ ở cấp xã.
 Khái niệm công chức:
Khác với cán bộ, công chức là “công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn
nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật” (khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008).
Trên cơ sở khoản 2 Điều 4 và Điều 32 của Luật Cán bộ, công chức 2008, Nghị
định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 1 năm 2010 của Chính phủ đã quy định rõ

“những người là cơng chức”. Từ đây, câu hỏi cơng chức “là gì” và “là ai” khơng
cịn là một câu hỏi khó. Những đặc trưng của cơng chức cũng có thể dễ dàng
được chỉ ra như sau:
5


- Về phương thức trở thành công chức: công chức là những người được
tuyển dụng vào biên chế, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ;
- Về tính chất cơng việc: cơng chức làm việc thường xun theo chuyên
môn, nghiệp vụ;
- Về nơi làm việc: công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội nhưng chỉ từ cấp huyện trở lên hoặc trong
cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân; ngồi ra có thêm
những người làm việc trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập.
Luật Cán bộ, công chức 2008 đã quy định tiêu chí để phân định tương đối rõ
ràng ai là cán bộ, ai là công chức. Theo đó, cán bộ gắn với tiêu chí bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kì; cơng chức gắn với tiêu
chí được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Trong khi đó, cả
một thời kì dài trước đây, do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng,
của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong các doanh nghiệp, lâm
nông trường… đều được gọi chung trong cụm từ là “cán bộ cơng chức viên chức”
mà chưa có sự phân định cụ thể. Vì vậy, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách do
Nhà nước ban hành vẫn cịn những hạn chế, chưa hồn tồn phù hợp với từng
nhóm đối tượng. Điều này ảnh hưởng đến q trình xây dựng đội ngũ cán bộ và
đội ngũ công chức vốn có những đặc điểm hoạt động và cơng tác đặc thù riêng.
 Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã:
Cán bộ, công chức cấp xã được đưa vào Luật Cán bộ, công chức 2008 với

tư cách những khái niệm riêng, có sự độc lập tương đối so với khái niệm cán bộ,
công chức. Nếu như cán bộ, công chức làm việc từ cấp huyện trở lên thì cán bộ,
cơng chức cấp xã chỉ hoạt động trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
Theo khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008, cán bộ cấp xã “là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kì trong Thường trực Hội
6


đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội”; công chức cấp xã “là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế”.
Cán bộ cấp xã bao gồm các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nơng, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.”
(Khoản 2 Điều 61 Luật Cán bộ, cơng chức 2008)
Cơng chức cấp xã gồm có các chức danh sau:
a. Trưởng Công an;
b. Chỉ huy trưởng Quân sự;
c. Văn phịng – thống kê;
d. Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính – nơng nghiệp – xây dựng và mơi trường (đối với xã);
e. Tài chính – kế tốn;

f. Tư pháp – hộ tịch;
g. Văn hóa – xã hội.
( Khoản 3 Điều 61 Luật Cán bộ, công chức 2008)
Sự hiện diện của khái niệm cán bộ cấp xã, công chức cấp xã trong Luật Cán
bộ, cơng chức 2008 chính là một điểm mới, một tiến bộ rất đáng kể của đạo luật
7


quan trọng này. Không chỉ tách cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, cơng chức
nói chung, các nhà làm luật còn làm rõ hai khái niệm cán bộ cấp xã và cơng chức
cấp xã, theo đó cán bộ cấp xã gắn với cơ chế bầu cử và công chức cấp xã gắn với
cơ chế tuyển dụng. Trước đây, Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức năm 1998 chưa có
nội dung quy định về cán bộ, công chức cấp xã. Điều này làm cho chính quyền
cấp xã vốn đã kém ổn định lại càng trở nên kém ổn định hơn, hiệu quả thấp. Mãi
tới Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức
2003, lần đầu tiên những người làm việc ở chính quyền cơ sở, tổ chức Đảng, tổ
chức chính trị - xã hội ở cấp xã cũng được coi là cán bộ, công chức, gọi chung là
cán bộ, công chức cấp xã. Thế nhưng đến Nghị định 117/2003/NĐ-CP, đối tượng
này một lần nữa lại bị “bỏ quên”. Sau đó, đối tượng cán bộ, công chức cấp xã
được điều chỉnh tại một Nghị định riêng là Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày
10/10/2003 quy định về chức danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ, quyền lợi, những việc
khơng được làm, chế độ, chính sách và quản lý cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn (gọi chung là cán bộ, công chức cấp xã). Như vậy, Luật Cán bộ, công chức
2008 ra đời đã thống nhất điều chỉnh đối tượng là “cán bộ, công chức cấp xã” và
“cán bộ, cơng chức” nói chung trong cùng một văn bản. Luật đã dành hẳn một
chương để quy định riêng về cán bộ, công chức cấp xã (bên cạnh chương về cán
bộ ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và chương về công chức ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện). Điều này khơng những góp phần khắc phục hạn chế của Pháp
lệnh Cán bộ, cơng chức mà cịn một lần nữa khẳng định vai trị của “cơng chức
cấp xã” là cầu nối giữa chính quyền cấp trên với nhân dân ở xã, xóa đi ấn tượng

cấp xã là cấp thấp và cán bộ, công chức cấp xã thuộc về “tốp dưới”, thua thiệt,
kém cỏi, tạo ra bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dụng quản lý cán
bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã. Khắc phục xu hướng
“hành chính hóa” và “phình” biên chế ở cơ sở, cán bộ cấp xã và công chức cấp xã
được quy định cụ thể theo những chức vụ bầu cử và chức danh chuyên môn cần
thiết quy định ngay trong Luật.

8


Và để cụ thể hóa Luật Cán bộ, cơng chức 2008 (Quốc hội khóa XII, kỳ họp
thứ 4 ngày 13/11/2008, có hiệu lực vào ngày 01/01/2010), Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, thay thế Nghị định số
121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003, có rất nhiều điểm mới về cán bộ, công chức
cấp xã như sau:
- Nghị định này không chỉ quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ cấp
xã mà còn quy định chức danh cán bộ, công chức cấp xã. Chức danh cán
bộ, công chức cấp xã theo đúng tên gọi như Luật Cán bộ, công chức gồm
11 chức vụ cán bộ bầu cử và 7 chức danh công chức chuyên môn.
-

Nghị định quy định cụ thể hơn về số lượng cán bộ, công chức cấp xã,
trước đây quy định tùy theo số dân của cấp xã, đồng bằng, đô thị hay miền
núi, thấp nhất là 17 người, cao nhất là 25 người thì nay quy định: Cấp xã
loại 1 không quá 25 người, cấp xã loại 2 không quá 23 người; cấp xã loại 3
khơng q 21 người (Nghị định 159/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về việc phân loại đơn vị hành chính cấp xã). Quy định này vừa
giúp cho cơ sở tự chủ trong việc bố trí cán bộ, cơng chức cấp xã , vừa tạo
điều kiện cho một số chức danh có điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã
hội. Cũng theo Nghị định 92/2003/NĐ-CP, hiện nay có 2 chức danh cơng

chức cấp xã được bố trí 2 người là: Chức danh cơng chức địa chính – xây
dựng – mơi trường và chức danh văn hóa – xã hội.

- Về chế độ tiền lương:
+ Đối với cán bộ cấp xã: Nếu cán bộ cấp xã có trình độ sơ cấp hoặc chưa đào
tạo trình độ chun mơn nghiệp vụ thì hưởng lương theo bảng lương chức vụ,
được nâng lương theo nhiệm kì bầu cử, không được cộng phụ cấp chức vụ lãnh
đạo. Nếu cán bộ cấp xã đã tốt nghiệp trình độ đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từ
trung cấp trở lên thì thực hiện xếp lương như cơng chức hành chính, được nâng
bậc theo niên hạn, ngồi ra cịn được cộng thêm phụ cấp chức vụ lãnh đạo.
+ Đối với công chức cấp xã: Cơng chức cấp xã tốt nghiệp trình độ đào tạo từ
sơ cấp trở lên, phù hợp với chun mơn của chức danh đảm nhiệm, thì thực hiện
9


xếp lương như cơng chức hành chính. Nếu chưa tốt nghiệp đào tạo chun mơn,
nghiệp vụ theo quy định thì hưởng lương bằng 1,18 so với lương tối thiểu.
Đây là nội dung có ý nghĩa vơ cùng lớn trong việc quy định các vấn đề liên
quan đến quyền, nghĩa vụ, công tác sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cũng
như xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
1.1.2 Đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
Ở Việt Nam, cán bộ, công chức cấp xã là một dạng cán bộ, cơng chức. Bởi
vì, chính quyền cơ sở là một bộ phận trong bộ máy chính quyền nhà nước. Chúng
ta chưa thừa nhận cấp cơ sở là cấp tự quản, mặc dù trong quá trình đổi mới hoạt
động nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cấp chính quyền đã có sự phân
cấp mạnh mẽ cho cấp cơ sở. Cán bộ, công chức cấp xã là những người hoạt động
theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật,
trước cơ quan nhà nước cấp trên và trước nhân dân địa phương. Cán bộ, công
chức cấp xã vẫn nằm trong biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Trong khi đó ở một số nước khác, điển hình như Canada, cơng chức là

những người làm việc trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, còn những
người làm việc tại cơ quan tự quản địa phương không phải là công chức.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, cán bộ, công chức cấp xã
và cán bộ, công chức lại không phải là hai thuật ngữ đồng nhất với nhau. Nói
cách khác, khái niệm cán bộ, công chức cấp xã là một khái niệm độc lập so với
khái niệm cán bộ, công chức. Điều này cho thấy, cán bộ, công chức cấp xã là đối
tượng đặc thù. Nét nổi bật đáng kể nhất của cán bộ, công chức cấp xã là họ làm
việc ở cấp xã. Cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở nước
ta, là cấp gần dân nhất, trực tiếp với dân nhất, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Nhưng cấp xã cũng là cấp lâu nay chưa được quan tâm đúng mức,
chính quyền cấp xã thường ở trong tình trạng kém ổn định và chưa thực sự
chuyên nghiệp.
Việc tách khái niệm cán bộ, công chức cấp xã thành một khái niệm riêng
mặc dù vẫn được điều chỉnh thống nhất trong cùng một đạo luật có tên là Luật
10


Cán bộ, công chức 2008 tạo một cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của đội
ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã. Đồng thời, khẳng định được tính đặc thù, tầm
quan trọng của cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất nên họ
cũng là người hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của dân nhất, đảm bảo kỹ cương pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đảm bảo an ninh trật tự ở
địa phương mình, từ đó nâng cao đời sống của mỗi người dân và cũng là người
cung cấp thông tin cho cấp trên, cho Đảng và Nhà nước để làm cơ sở đề ra các
chủ trương, chính sách cho phù hợp, đảm bảo việc thực thi mang lại hiệu quả cao.
Chính quy định này đóng vai trị nền tảng để khắc phục sự thiếu ổn định, tâm lý
coi thường cấp thấp đã tồn tại bấy lâu nay, tạo điều kiện thúc đẩy, khuyến khích
những người trẻ có năng lực và phẩm chất tốt trở về làm việc tại địa phương. Từ
đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động bộ máy nhà nước ở cơ sở.
Cán bộ, công chức cấp xã là người gần dân nhất, sát dân nhất, hoạt động của

họ hàng ngày trực tiếp với dân. Chính vì vậy, họ ít nhiều bị ảnh hưởng bởi các
phong tục tập quán và lối sống riêng của địa phương. Ngồi ra, đa số cán bộ,
cơng chức cấp xã đều xuất thân từ địa phương, “trưởng thành tại chỗ”, trực tiếp
sinh sống và làm việc ngay tại quê hương mình. Hàng ngày họ vừa sản xuất kinh
doanh vừa làm “việc nước”. Trong các quan hệ xã hội của họ có quan hệ dịng
tộc, họ hàng, láng giềng [30-Tr.10]. Đó vừa là thuận lợi vừa là khó khăn cho cán
bộ, cơng chức cấp xã trong q trình thực thi cơng vụ. Là thuận lợi vì nhờ vậy
cán bộ, cơng chức cấp xã nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó
có khả năng thuyết phục nhân dân đảm bảo kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân, đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương mình, nâng
cao đời sống của mỗi người dân. Đồng thời người cán bộ, công chức cấp xã trở
thành người cung cấp thông tin cho cấp trên, cho Đảng và Nhà nước để làm cơ sở
đề ra các chủ trương, chính sách cho phù hợp, đảm bảo việc thực thi mang lại
hiệu quả cao. Là khó khăn vì đơi khi họ khó tránh khỏi tâm lý nể nang, ngại va
chạm, tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, “một trăm cái lý khơng bằng một tý cái tình”…
dẫn đến khó giải quyết cơng việc theo đúng quy định của pháp luật.
11


Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã ở nước ta hiện nay có nhiều
hạn chế về trình độ, kể cả trình độ lý luận chính trị lẫn trình độ chun mơn
nghiệp vụ và kỹ năng quản lý nhà nước. Xuất phát điểm của cán bộ, công chức
cấp xã khá thấp, đặc biệt là cán bộ, công chức cấp xã ở các vùng nông thôn và
miền núi. Tỷ lệ cán bộ, cơng chức có trình độ sơ cấp hoặc chưa qua đào tạo vẫn
còn khá nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của chính
quyền cơ sở, gây ra tình trạng mất ổn định cục bộ tại một số địa phương. Đây là
một thực tế không thể phủ nhận cho thấy về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở nước ta hiện nay chưa tương xứng với vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm
vụ. Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã nhằm nâng cao sức mạnh của
hệ thống chính trị ở cơ sở là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

1.1.3 Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Nghiên cứu về vai trị của đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã trước hết phải
thấy được vị trí và tầm quan trọng của cấp xã. Cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ
thống chính trị, là khâu cuối cùng trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, truyền đạt
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân,
phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, “cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp
xã làm được việc thì mọi việc đều xong xi”[34-Tr.371]. Để hệ thống chính trị
cơ sở có thể vận hành đồng bộ theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân lao động làm chủ, cán bộ, cơng chức cấp xã giữ vai trị ngày càng quan
trọng.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự
tồn tại vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã, hệ thống
chính trị cơ sở. “Mấu chốt của cơ sở là chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm
ăn, sinh sống, cố kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội,
phát triển sức dân” [25-Tr.178]. Chính quyền cấp xã khơng thể mạnh, khơng thể
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
12


thị trường, trong bối cảnh cải cách hành chính nhà nước đồng bộ, toàn diện, với
xu hướng phân cấp quản lý cho cơ sở ngày càng mạnh mẽ hơn nếu nhân tố con
người làm việc trong guồng máy ấy yếu kém, trì trệ. “Cán bộ, cơng chức cấp xã
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm mọi quyền lợi của công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của họ; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện thắng lợi mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; động viên quần chúng
nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; đồng thời phản ánh tâm tư nguyện
vọng của dân đối với Đảng, với Nhà nước, góp phần đưa Nghị quyết, chính sách,

pháp luật vào cuộc sống” [35-Tr.126].
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta cũng thấy rõ vai trò quan trọng của đội
ngũ cán bộ, công chức; đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Nghị quyết
Trung ương III (khóa VIII) đã từng khẳng định : “Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn
với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường,
thị trấn mạnh hay yếu là một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ
cán bộ xã, phường, thị trấn” vì họ “chính là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành”[33-Tr.269].
Từ thực tế cũng cho thấy, nơi nào có đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã vững
mạnh thì nơi ấy tình hình an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững; cán bộ, cơng chức được nhân dân tin u. Cịn nơi nào đội ngũ cán bộ,
cơng chức yếu kém thì chính trị mất ổn định, kéo theo kinh tế khó có điều kiện
phát triển. “Cán bộ, công chức cấp xã phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị,
huy động mọi nguồn lực ở cơ sở, giữ vững ổn định xã hội, đẩy mạnh phong trào
cách mạng của quần chúng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương” [35-Tr.129].
Ngoài ra, “cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo sự phát triển năng động, sáng
tạo và bền vững của hệ thống chính trị cơ sở theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa” [35-Tr.142]. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải được tiến hành một cách tự giác, thường xun, đồng bộ. Chính vì vậy, vai
13


trị của đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã ở từng địa phương là vô cùng quan
trọng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp xã trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo
chủ trương, chính sách của cấp trên, biết phát huy tối đa sức mạnh, trí tuệ, nguồn
lực của cơ sở, dám chịu trách nhiệm trước quần chúng, học hỏi để nâng cao năng
lực trước hết hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ cho Đảng, Nhà nước.
Vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã được thể hiện cụ thể
thông qua vai trò của từng loại chủ thể nhất định.

Trước hết là cán bộ trong tổ chức Đảng (Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã).
Đây là những con người quyết định tính đúng đắn của những chủ trương, chính
sách mà Đảng ủy cơ sở đề ra để lãnh đạo chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội; thể hiện sự gương mẫu của người Đảng viên; tiến hành giám sát q trình
thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vai
trò lãnh đạo của Đảng ủy cơ sở có thực hiện được hay khơng là phụ thuộc vào
hoạt động của Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy cấp xã. Vì : “Đối với hệ thống chính
trị cơ sở, họ là những người trụ cột, là trung tâm đoàn kết, quy tụ và phát huy sức
mạnh cộng đồng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ có khả năng
tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng và huy động mọi nguồn lực ở địa phương để
phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, họ giữ vai trò quyết định năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức Đảng, năng lực và hiệu quả cơng tác của chính quyền,
lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng ở cơ sở” [35-Tr.118].
Khơng kém phần quan trọng là vai trị của cán bộ, cơng chức làm việc tại
chính quyền cấp xã (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân). Đó là những
người trực tiếp thực hiện hoạt động công vụ tại địa phương. Hoạt động của họ
mang tính quyền lực nhà nước, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, quyền lợi,
nghĩa vụ của dân. Khác với chính quyền địa phương tự quản ở một số nước,
chính quyền cấp xã nước ta là nơi phải quản lý rất nhiều lĩnh vực, làm rất nhiều
việc cho dân. Công việc của cán bộ, cơng chức trong chính quyền cấp xã khá bộn
bề, thậm chí “thượng vàng hạ cám”. Người cán bộ, cơng chức cấp xã phải lo giải
quyết tất cả các công việc trong đời sống xã hội ở địa phương từ chính trị, kinh
14


tế, văn hóa xã hội đến an ninh quốc phịng…, “làm dâu trăm họ”, “làm đầy tớ
của mọi nhà”… phổ biến chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước đến với dân, đảm bảo cho các chính sách và quy định đó được thực
hiện trên thực tế bằng việc đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, xử lý đối với những
người vi phạm.

Bên cạnh đó, vai trị của cán bộ, cơng chức cấp xã cịn được thể hiện
thơng qua vai trị của những cán bộ hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã
hội ở cấp xã. Họ là những người trực tiếp thu hút nhân dân lao động tham gia
ngày càng đông đảo vào các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện quyền làm chủ
của mình, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia giáo dục những
thành viên trong tổ chức mình sống và làm việc theo pháp luật.
Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã,
Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đã họp và ra Nghị quyết “Đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Nghị quyết xác định
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là một trong ba vấn đề cơ bản, bức
xúc nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Để đường lối, chính sách của Đảng, chính sách – pháp luật Nhà nước đến với
nhân dân, trở thành hành động của nhân dân, phải từng bước xây dựng được đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong sáng về phẩm chất đạo đức, mạnh về trình độ
năng lực đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của chính quyền cơ sở xã, phường, thị
trấn trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt có đủ phẩm chất, năng lực là
nhiệm thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu
dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
1.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1 Quan niệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi việc. Vì vậy, huấn
luyện cán bộ là cơng việc gốc của Đảng”. Từ những năm 20 của thế kỷ trước,
trong nỗ lực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, tại Quảng Châu
15


(Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp học đào tạo về lý luận
cách mạng cho những thanh niên Việt Nam yêu nước. Từ những cán bộ cách
mạng đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đào tạo và cử về nước, đội ngũ cán bộ

của Đảng đã được nhân rộng, lớn mạnh và trưởng thành trong tranh đấu, đủ khả
năng đảm đương chức trách do Đảng và nhân dân giao phó. Vững niềm tin vào
Đảng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc, những cán bộ của Đảng luôn đi đầu
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh
giành độc lập, thống nhất đất nước. Thực hiện di huấn của Người về chiến lược
trồng người và coi cán bộ là cái gốc của công việc, công tác tổ chức cán bộ luôn
quan tâm đến khâu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Trong cách nói hoặc viết của chúng ta, đào tạo và bồi dưỡng thường đi liền
với nhau như một khái niệm chung. Nhưng thực ra, “đào tạo” và “bồi dưỡng” là
hai khái niệm khác nhau, phản ánh hai loại cơng việc khơng hồn tồn đồng nhất
với nhau, dù cùng mục đích trang bị kiến thức cho cán bộ, công chức.
 Đào tạo:
Theo Đại Từ điển tiếng Việt thì “đào tạo” là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp [44-tr.593]. Đào tạo đề cập đến việc dạy các
kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vưc cụ thể,
để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp một
cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng
đảm nhận được một công việc nhất định. Trong thực tế chúng ta cũng thường
xuyên nghe nói đến các thuật ngữ liên quan như : đào tạo cán bộ, đào tạo nghề,
đào tạo hệ cử nhân….
Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào
tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi và có một
trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: Đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu,
đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa… Đào tạo được
xem là quá trình làm cho người ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu
chuẩn nhất định” [26-tr.24], là một quá trình truyền thụ kiến thức mới, trang bị
16


những phẩm chất, kỹ năng cơ bản, có hệ thống cho cán bộ, cơng chức thơng qua

đó có được văn bằng mới hoặc cao hơn trình độ trước đó.
Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 3 năm 2010 về đào
tạo, bồi dưỡng công chức đã đưa ra khái niệm tương đối rõ ràng về đào tạo như
sau:“Đào tạo là q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ
năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”.
 Bồi dưỡng:
Bồi dưỡng được dùng với nghĩa là quá trình cập nhật, bổ túc thêm một số
kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản,
cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng đối với
những người mà họ đang giữ chức vụ, đang thực thi cơng vụ…, là q trình làm
cho người ta “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” [26-tr.24]. Theo Nghị định
18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng công chức, bồi dưỡng là hoạt động trang
bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc.
Thời gian đào tạo thường dài hơn so với bồi dưỡng. Khóa đào tạo ít nhất phải
tương đồng với một năm học (09 tháng trở lên). Cuối khóa đạo tạo, người học
được nhận văn bằng. Trong khi đó, do mục đích chủ yếu là bổ sung kiến thức
(cũng có thể là trang bị kiến thức mới, nhưng chỉ là một loại, nhóm kiến thức của
các chun mơn hoặc chun sâu, cập nhật những vấn đề liên quan đến chức vụ
đang đảm nhiệm nên bồi dưỡng có thời gian ngắn hơn. Bồi dưỡng được xác nhận
bởi các chứng chỉ [26-tr.111].
Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách
nền hành chính quốc gia, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm hơn đến công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Tại Đại
hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: cần tiếp tục “đẩy
mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình, nội dung sát hợp,
chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường”, xác định đây là nhu cầu cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay.

17



Có thể hiểu một cách khái qt nhất về cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã là một q trình diễn ra có kế hoạch của cơ quan nhà nước,
nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng cũng như cải thiện hành vi, thái độ của cán bộ,
công chức cấp xã giúp họ thực thi hiệu quả cơng việc mà mình đảm nhiệm.
Như vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là một quá trình
nhằm: trang bị, bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, tạo điều
kiện cho họ có thể hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, tiến tới xây dựng, chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã nhằm đảm bảo cho họ có đủ năng lực và
phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở cơ sở, phục vụ cho sự
nghiệp đổi mới đất nước. Từ đó, tạo nguồn nhân lực trong tương lai cho cấp xã
đáp ứng cả về lượng lẫn về chất, cũng như đảm bảo tính kế thừa giữa các thế hệ.
Phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính trong sạch,
vững mạnh; góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ
sở theo tinh thần Nghị quyết TW5 khóa IX của Đảng đã đề ra.
Đào tạo, bồi dưỡng vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cán bộ, cơng chức nói
chung và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng. Được tham gia đào tạo, bồi dưỡng
(tức là “quyền”) nhằm đảm đương tốt hơn công việc của mình, bổ sung kiến thức
chun mơn, hồn thành các nhiệm vụ được giao với chất lượng ngày càng cao
hơn đồng thời qua đó có thể cải thiện các vấn đề về thu nhập, lợi ích, lương
bổng… Nhưng quyền đi liền với nghĩa vụ, quyền đồng thời là nghĩa vụ. Khoản 5
Điều 8 Nghị định 114/2003/NĐ-CP nêu rõ một trong những nghĩa vụ của cán bộ,
công chức cấp xã là “phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ…, đạt tiêu
chuẩn theo thời hạn quy định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý, sử
dụng cán bộ, công chức”. Cán bộ, công chức cấp xã khi đã được cử đi đào tạo,
bồi dưỡng thì phải tham gia đào tạo, bồi dưỡng theo đúng yêu cầu, chấp hành
nghiêm chỉnh theo đúng quy định. Ngoài ra, đào tạo, bồi dưỡng còn là nhu cầu tự
thân của mỗi người cán bộ, cơng chức cấp xã. Đó là cách để họ vươn lên, tồn tại
và phát triển.


18


1.2.2 Quy định pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã được quy
định tại Điều 63 Chương V của Luật cán bộ, cơng chức 2008 và được cụ thể hóa
tại các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành. Cụ thể như sau:
- Nghị định 114/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10 tháng 10 năm 2003 về
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cán bộ, công chức cấp xã);
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 10 năm 2009
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, cơng chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
- Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 05 năm 2010
về đào tạo, bồi dưỡng cơng chức;
- Quyết định số 85/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28 tháng 6
năm 2002 ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị Quyết số 17 – NQ/TW ngày 18
tháng 3 năm 2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về “ Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn”;
- Quyết định 161/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04 tháng 8
năm 2003 ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;
- Quyết định 03/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07 tháng 01
năm 2004 Phê duyệt Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010;
- Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/02/2006
về Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn giai đoạn 2006-2010;
- Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08 tháng

02 năm 2006 Phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010;
19


- Quyết định 664/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02 tháng 6
năm 2008 Phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt Hội Liên hiệp
Phụ nữ cấp quận, huyện và xã, phường, thị trấn giai đoạn 2008-2012”;
- Quyết định 1959/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày… Điều
chỉnh Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp quận,
huyện và xã, phường, thị trấn” giai đoạn 2008-2012 được phê duyệt theo Quyết
định 664/2008/NĐ-TTg;
- Quyết định số 1045/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07 tháng
7 năm 2010 về: Phê duyệt Đề án “Đào tạo , bồi dưỡng cán bộ Hội Nông dân Việt
Nam giai đoạn 2010-2015”;
- Thông tư 139/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 21 tháng 9 năm 2010
Quy định việc lập dự tốn, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước
dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Từ các quy định của pháp luật hiện hành, có thể rút ra một số vấn đề cơ bản
thuộc về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã như sau:

 Đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng:
Cán bộ, công chức cấp xã chính là đối tượng “được” và “phải” tham gia đào
tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng này khơng
chỉ có những người được coi là cán bộ, cơng chức cấp xã mà cịn bao gồm cả
những người hoạt động không chuyên trách (như Phó Chủ tịch Hội phụ nữ xã,
Phó Bí thư Đồn thanh niên xã, Phó Trưởng cơng an xã, Phó Chỉ huy trưởng
quân sự xã…). Điều 15 Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009
của Chính phủ xác định rõ: “Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ hiện đang

đảm nhiệm; khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng được hưởng chế độ như quy định
tại khoản 2 Điều 12 Nghị định này”, tức là như chế độ áp dụng đối với cán bộ,
công chức cấp xã.
20


Ngồi ra, việc đào tạo, bồi dưỡng cịn được thực hiện đối với những đối
tượng thuộc diện “nguồn” cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt, “nguồn” cán bộ,
công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số rất được quan tâm. Quyết định
34/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ: “Đào tạo văn hố gắn với
đào tạo chun mơn nghiệp vụ, lý luận chính trị theo tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, công chức quy định cho những người dưới 30 tuổi đã hoàn thành nghĩa vụ
trong các lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong, dân tộc thiểu số chưa có
người làm cán bộ, cơng chức xã trong quy hoạch chuẩn bị bổ sung, thay thế cho
cán bộ, công chức xã; Bồi dưỡng các kiến thức còn thiếu theo tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, công chức cho những học sinh mới tốt nghiệp trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học chưa có việc làm, cư trú tại địa phương, trong quy
hoạch chuẩn bị bổ sung, thay thế cho cán bộ, công chức xã”.
 Nguyên tắc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng:
- Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của từng
chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã, kế hoạch xây dựng phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức của cơ quan đơn vị và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao. Đối
với cán bộ, công chức cấp xã bao gồm nhiều chức danh, đảm nhiệm những công
việc, những lĩnh vực công tác khác nhau. Do đó, yêu cầu đào tạo cho mỗi chức
danh không giống nhau và không đồng thời thực hiện cùng một lúc, trong một
khóa học. Vì vậy, cần thống kê để nắm được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, từ đó
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp, kịp thời, đạt hiệu quả cao.
- Bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cán bộ, công
chức cấp xã trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Chính vì các cơ quan quản lý,

đơn vị sử dụng cán bộ, công chức cấp xã mới nắm rõ tình hình cán bộ, cơng chức
tại địa phương mình, do vậy họ cần phải điều tra, rà sốt, phân tích một cách
khẩn trương và nghiêm túc thực trạng cán bộ, cơng chức cấp xã ở địa phương
mình quản lý để xác định đúng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng. Trên cơ sở đó, xây

21


dựng tốt quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cho chính địa
phương mình quản lý.
- Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng. Quy định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan chức năng trong việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã kết hợp với chính sách khen thưởng,
động viên, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt việc tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Đề cao vai trị tự học và quyền của cán bộ, cơng chức cấp xã trong việc lựa
chọn chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm. Với những kiến thức đã được
truyền thụ kết hợp với việc tự nghiên cứu giúp người học khắc sâu, dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ vận dụng và điều quan trọng hơn là giúp họ học phương pháp tư duy, học
cách phân tích để xử lý những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn hoạt động ở cơ sở.
- Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
 Mục tiêu công tác đào tạo, bồi dưỡng:
- Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã chuyên nghiệp có
đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại.
Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ
ngày 07 tháng 01 năm 2004 Phê duyệt Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010 đã xác định các mục tiêu cụ
thể hơn, hướng đến việc xây dựng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã,
có phẩm chất và năng lực, đảm bảo đủ về số lượng, tiêu chuẩn, đồng bộ về cơ

cấu, trình độ, tính kế thừa giữa các thế hệ nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
 Nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng:
Điều 6 Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cơng
chức xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức theo những phạm vi khác
nhau: trong nước và ngoài nước.

22


×