Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

NGUYỄN PHƢƠNG TRANG
MSSV: 1055040297

PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Niên khóa: 2010 – 2014

Giảng viên hƣớng dẫn
ThS. Thái Thị Tuyết Dung

TP. HCM – NĂM 2014


2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VPHC:

Vi phạm hành chính

XLVPHC:
XPVPHC:

Xử lý vi phạm hành chính


Xử phạt vi phạm hành chính


3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ........................................................ 7
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính .......................................................................... 7
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.

Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính ............................................................. 9
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính ............................................................ 11
Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ......... 16
Thủ tục xử phạt đơn giản ................................................................................... 17

1.2.2. Thủ tục xử phạt thông thường ............................................................................ 18
1.2.2.1. Lập biên bản vi phạm hành chính ................................................................... 18
1.2.2.2. Q trình xác minh vi phạm hành chính ......................................................... 22
1.2.2.3. Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính..................................................... 30
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1.
Thực tiễn áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ............................. 34
2.1.1. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm ......................................................................... 34
2.1.2. Thủ tục xử phạt đơn giản .................................................................................. 36

2.1.3. Thủ tục xử phạt thông thường ............................................................................ 39
2.1.3.1. Lập biên bản vi phạm hành chính ................................................................... 39
2.1.3.2. Xác minh tình tiết vụ vi phạm hành chính ...................................................... 46
2.1.3.3. Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính..................................................... 53
2.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật về
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính .............................................................. 58

KẾT LUẬN
DANH MỤC THAM KHẢO
PHỤ LỤC


4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thơng qua ngày 20/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2013 đã thay thế Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung
năm 2008. Luật Xử lý VPHC năm 2012 đã kế thừa, phát triển và bổ sung thêm nhiều
quy định mới trên cơ sở nền tảng các Pháp lệnh trước đây nhằm đáp ứng kịp thời nhu
cầu XLVPHC trên thực tế. Trong thực tiễn công tác xử phạt vi phạm, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan nên vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, sai sót về thẩm quyền,
thủ tục xử phạt,... dẫn đến hậu quả người dân thực hiện quyền khiếu nại đối với các
quyết định xử phạt và cũng chính điều này phần nào làm cho nhân dân mất niềm tin
vào một bộ phận cá nhân hay cơ quan có thẩm quyền. Từ đó, pháp luật nước ta ngày
càng chú trọng hơn đến việc xây dựng pháp luật về XPVPHC và cho ban hành Luật Xử
lý VPHC. Khi Luật Xử lý VPHC ra đời Chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định
nhằm hướng dẫn thực hiện Luật này như: Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013

quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính,
Nghị định 93/2013/NĐ-CP ngày 20/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thơng hàng hải và đường thủy nội địa,... Đa số trong những nghị định
hướng dẫn được Chính phủ ban hành là những nghị định quy định về các hành vi vi
phạm và mức XPVPHC.
Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm hành chính ở nước ta khơng giảm
mà có xu hướng gia tăng về cả số lượng và quy mô trên nhiều lĩnh vực khác nhau (y tế,
văn hóa xã hội, mơi trường, đất đai…); cùng với thực tiễn thực hiện thủ tục XPVPHC
trong những năm qua, Luật Xử lý VPHC 2012 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung một
số quy định về thủ tục XPVPHC. Là một trong những hoạt động nằm trong chương
trình cải cách thủ tục hành chính, việc đơn giản hóa các loại thủ tục nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho cả cơ quan nhà nước và người dân, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước, thì thủ tục XPVPHC cũng khơng nằm ngồi quy luật chung này.
Thủ tục XPVPHC đã được áp dụng rất nhiều trong thực tế đời sống nhưng vẫn còn
nhiều bất cập và gặp khó khăn nên chưa đạt được hiệu quả cao như mong đợi.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy vi phạm hành chính đang diễn ra hàng ngày với
diễn biến đa dạng và hết sức phức tạp. Cùng với đó là hoạt động XPVPHC cũng được


5
tiến hành nhằm xử lý những hành vi vi phạm. Đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề XLVPHC trên rất nhiều lĩnh vực như:
Luận văn thạc sỹ Luật “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thúy, năm 2012; Luận văn thạc sỹ Luật “Xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ (từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh)”
của tác giả Nguyễn Văn Đông, năm 2012,… Nội dung của các luận văn này đều nhắm
đến việc phân tích, đánh giá thực trạng XLVPHC của một lĩnh vực nhất định, chưa tìm
hiểu đánh giá chung những vấn đề liên quan đến thủ tục XPVPHC – quy trình thực
hiện XPVPHC.

Từ rất nhiều những đề tài nghiên cứu, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu
về thủ tục XPVPHC nên người viết mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính” để nghiên cứu, từ đó làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý liên
quan. Đề tài này sẽ góp phần làm rõ quy định của pháp luật về thủ tục XPVPHC, đảm
bảo việc xử phạt nghiêm minh, giảm vi phạm trong việc áp dụng thủ tục XPVPHC,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động XPVPHC.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận.
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính sau đó đưa ra
nhận xét đánh giá.
- Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật, kiến nghị nâng cao hiệu quả
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trên thực tế.
4. Phạm vi nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm
hành chính hiện hành (các quy định của Luật Xử lý VPHC năm 2012) về khái niệm,
nguyên tắc,… và thực tiễn áp dụng thủ tục XPVPHC hiện nay. Trên cơ sở đó, tìm ra
những điểm hạn chế, tồn tại, thiếu sót của pháp luật và của việc áp dụng pháp luật về
thủ tục XPVPHC từ đó đưa ra một vài kiến nghị nhằm hướng đến tăng cường hiệu quả
của hoạt động này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu


6
Từ cơ sở phương pháp luận duy vật – biện chứng của Triết học Mác – Lênin
người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp so sánh – đối chiếu.
5. Kết cấu của khóa luận

Ngồi phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm có 02 chương:
Chương 1: Pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Chương 2: Thực tiễn áp dụng thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và một số
kiến nghị


7
CHƢƠNG 1. THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm pháp luật là hành vi của con người không thực hiện đúng những quy
định được ghi nhận tại các quy phạm pháp luật và là cơ sở nảy sinh trách nhiệm pháp
lý hay nói cách khác vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có
năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ một cách cố ý hoặc vô ý1. Vi phạm pháp luật bao gồm bốn loại chủ yếu: vi
phạm hình sự, vi phạm dân sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật.
Vi phạm pháp luật hành chính tuy là vi phạm khơng lớn nhưng mang tính phổ
biến cao trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và có xu hướng ngày càng gia tăng,
tuy khơng có mức độ nguy hiểm cao như tội phạm hình sự nhưng cũng có khả năng
gây thiệt hại, ảnh hướng đến lợi ích của Nhà nước, cá nhân cũng như lợi ích chung của
cả cộng đồng. Xác định hành vi VPHC có ý nghĩa hết sức quan trọng trong vấn đề áp
dụng trách nhiệm hành chính nói chung và XPVPHC nói riêng.
Khái niệm VPHC ở Việt Nam được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác
nhau và xuất hiện lần đầu tiên với tên gọi “vi cảnh” được quy định tại Điều 2 Điều lệ
xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định 143 ngày 27/5/1977 của Hội đồng Nhà
nước:“Những hành vi xâm phạm đến trật tự xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng,
hậu quả không đến mức nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các vi phạm hành chính khác là phạm pháp vi cảnh”.
Đến năm 1989 với sự ra đời của Pháp lệnh Xử lý VPHC ngày 07/12/1989 có
hiệu lực ngày 01/01/1990 thì “vi phạm hành chính” được quy định là “hành vi do cá

nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà
nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính”. Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 1995 và Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
2002 thì lại khơng định nghĩa trực tiếp khái niệm “vi phạm hành chính” mà quy định
thông qua khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính”.
Luật Xử lý VPHC ra đời năm 2012 đã tiếp tục quy định tại khoản1 Điều 2 Luật
này như sau: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi, do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo
Đàm Đức Tuyền (2006), Vi phạm hành chính và áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực hải
quan tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, tr.5.
1


8
quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, định nghĩa về
“vi phạm hành chính” trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ có sự tương đồng với
nhau mặc dù có một chút khác biệt về việc sử dụng thuật ngữ.
Pháp luật về XLVPHC ở các quốc gia trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa
VPHC như Pháp lệnh của Hội đồng bang Milaca, Minnesota, Hoa Kỳ định nghĩa: “Vi
phạm hành chính là hành vi vi phạm quy định của Pháp lệnh này và phải chịu các hình
thức xử phạt hành chính theo quy định…”. Luật XLVPHC của Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa năm 1996 quy định tại Điều 3 như sau: “Vi phạm hành chính là hành vi vi
phạm trật tự hành chính của cơng dân và pháp nhân hoặc các tổ chức khác, bị áp dụng
các hình thức xử phạt hành chính được quy định bởi pháp luật theo quy định của Luật
này và các hình thức xử phạt này được giao cho các cơ quan hành chính áp dụng theo
thủ tục do Luật này quy định”. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật XPVPHC của
Cộng hòa Liên bang Nga tại Điều 2.1:“Vi phạm hành chính là hành động (không hành
động) của thể nhân hoặc pháp nhân, trái pháp luật, có lỗi và bị Bộ luật này hoặc các
luật của Cộng hòa Liên bang Nga quy định phải chịu trách nhiệm hành chính”2.
Từ những định nghĩa về VPHC nêu trên, có thể rút ra các dấu hiệu cơ bản của

“vi phạm hành chính” gồm những đặc điểm như sau:
- Chủ thể thực hiện có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
- Hành vi có lỗi.
- Đó là hành vi trái pháp luật hành chính quy định trong các văn bản pháp luật
VPHC có hiệu lực pháp luật.
- Hành vi đó khơng phải là tội phạm, chưa nghiêm trọng tới mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Định nghĩa về XPVPHC Việt Nam và Trung Hoa giống nhau ở chỗ quy định
VPHC là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý hành chính nhà nước, phải bị
XPVPHC chứ khơng đưa ra thế nào là “quy tắc quản lý nhà nước”, các hành vi VPHC
lại được quy định cụ thể trong các nghị định hướng dẫn theo từng lĩnh vực. Trong khi
đó ở quy định của Hoa Kỳ và Liên bang Nga lại chỉ ra rằng VPHC là hành vi vi phạm
quy định của pháp luật về vi phạm hành chính và phải bị xử phạt theo quy định của
pháp luật về XLVPHC chứ khơng mang tính chất chung chung như của pháp luật Việt
Nam. Về vấn đề này có ý kiến cho rằng “xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước” hay “vi
2

(truy cập
ngày 14/5/2014)


9
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước” thì vi phạm “quy tắc” hay “quy
định” chỉ là tính chất trái pháp luật của hành vi, “quản lý nhà nước” chỉ là khách thể
của hành vi. Nhưng không rõ “quản lý nhà nước” được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp. Điều này rất quan trọng vì ngay cả theo nghĩa hẹp cũng rất chung chung, đó có thể
là bất cứ vi phạm nào. Vì vậy, chỉ cần nói “trái pháp luật” là đủ3. Qua những định
nghĩa và dấu hiệu của VPHC thì ta có một định nghĩa chung nhất về VPHC như sau:
“Vi phạm hành chính là hành vi (hành động hoặc khơng hành động) trái pháp
luật, có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính

hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu
của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp
pháp của cơng dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành
chính”4.
So với các định nghĩa trong các văn bản pháp luật thì định nghĩa này phần nào
mang tính dễ hiểu và chặt chẽ hơn khi đề cập đến năng lực trách nhiệm hành vi hành
chính của chủ thể vi phạm, về tính trái pháp luật của hành vi; bỏ các cụm từ “không
phải tội phạm” và “bị xử phạt vi phạm hành chính” mà thay vào đó là “phải chịu trách
nhiệm hành vi hành chính” (hậu quả của VPHC thể hiện ở sự áp dụng bởi cơ quan nhà
nước, những người có thẩm quyền những chế tài pháp luật hành chính đối với chủ thể
VPHC theo thủ tục do pháp luật hành chính quy định5).
1.1.2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Khi có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, nếu đó là hành vi VPHCthì đặt ra vấn
đề cần phải xử lý hành vi vi phạm đó. Đây là nhiệm vụ bắt buộc của nhà nước và
những người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước nhằm ngăn chặn hành vi vi
phạm, thiết lập trật tự quản lý nhà nước đã bị các hành vi vi phạm làm ảnh hưởng.
Khái niệm XPVPHC lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
1995 như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy

3

Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.496.
4
Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.393.
5
Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, tlđd, tr.507.



10
cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính”6.
Đến Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002 cũng đưa ra định nghĩa cũng tương
tự:“Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau
đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
So với các định nghĩa về VPHC như đã đề cập đến ở Mục 1.1.1 thì có thể thấy
sự tương đồng nhưng pháp luật thay vì quy định trực tiếp thế nào là VPHC thì quy định
gián tiếp thơng qua khái niệm về XPVPHC. Luật Xử lý VPHC 2012 có sự tiến bộ hơn
các Pháp lệnh trước đây khi quy định tại Điều 2 tách biệt hai khái niệm “vi phạm hành
chính” (khoản 1) và “xử phạt vi phạm hành chính” (khoản 2). Trong đó “Xử phạt vi
phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”.
Có một thuật ngữ cũng thường xun sử dụng và dễ gây nhầm lẫn với khái niệm
“xử phạt vi phạm hành chính” là khái niệm “xử lý vi phạm hành chính”. Ở Pháp lệnh
Xử lý VPHC năm 1995 và năm 2002 thì XLVPHC được quy định bao gồm XPVPHC
và các biện pháp xử lý hành chính khác7 chứ khơng đưa ra định nghĩa cụ thể thế nào là
XLVPHC. Theo Từ điển luật học, khái niệm XLVPHC được định nghĩa là:“Hoạt động
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính
do pháp luật quy định đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật nhưng
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”8. Định nghĩa này chưa được chính xác và
đúng với bản chất của hoạt động này bởi vì bản chất của hoạt động XLVPHC là áp
dụng một số loại biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp luật quy định. Cưỡng chế
hành chính được xác định là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền quyết định áp dụng theo thủ tục hành chính đối với cá nhân có hành vi
VPHC hoặc đối với một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn chặn, phịng ngừa

hoặc thực hiện cơng vụ vì lí do an ninh, quốc phịng và vì lợi ích quốc gia.
Tóm lại, XLVPHC, XPVPHC, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
khác đều thuộc phạm trù XLVPHC, có thể hiểu chung là việc áp dụng các biện pháp
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và năm 2002.
8
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội, tr.619.
6
7


11
hoặc chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với chủ thể có hành vi
VPHC. XLVPHC là khái niệm rộng, bao trùm lên cả các khái niệm khác và XPVPHC
chỉ là một trong những biện pháp mà người có thẩm quyền áp dụng để xử lý đối với
những hành vi VPHC mà theo quy định của pháp luật phải bị XPVPHC. Trong phạm
vi đề tài này chỉ đề cập đến vấn đề pháp luật về thủ tục XPVPHC nhằm phục vụ cho
công tác XPVPHC.
1.1.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Theo Từ điển Tiếng Việt nguyên tắc được định nghĩa là điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm9, là cơ sở cho các mối quan hệ xã hội
được rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo hành động10.
Nguyên tắc XPVPHC có thể hiểu là những tư tưởng, chỉ đạo định hướng cho
hoạt động XPVPHC, đảm bảo cho hoạt động này được diễn ra đúng pháp luật, tránh sự
tùy tiện của những người có thẩm quyền; đảm bảo cơng bằng, quyền và lợi ích hợp
pháp của những người bị xử phạt. Vấn đề này đã từng quy định tại các Pháp lệnh Xử lý
VPHC năm 1995 và 2002 với tên gọi là nguyên tắc XLVPHC. Nhưng tại Luật Xử lý
VPHC 2012 lại phân chia thành hai nhóm là nguyên tắc XPVPHC và nguyên tắc áp
dụng các biện pháp hành chính.
Nguyên tắc XPVPHC được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý VPHC 2012

bao gồm các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và
phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật.
Đây là nguyên tắc được quy định đầu tiên bởi nó làm cơ sở, tiền đề cho các
nguyên tắc tiếp theo trong hoạt động XPVPHC. Nguyên tắc này là yêu cầu quan trọng
trong việc xử lý vi phạm ở bất kỳ lĩnh vực nào của hoạt động quản lý nhà nước.
Yêu cầu của nguyên tắc này trước hết địi hỏi những cơ quan nhà nước và
những người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước cần tích cực, chủ động trong
cơng tác quản lý hành chính nhà nước; trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, trong quá
trình thi hành cơng vụ nhằm phát hiện nhanh chóng hành vi vi phạm. Khi đã phát hiện
được vi phạm việc làm trước tiên là ngăn chặn hành vi đó tiếp tục diễn ra nhằm thiết
lập lại ổn định xã hội, giảm bớt thiệt hại và có thể nhanh chóng thực hiện công tác xử
9

Từ điển Tiếng Việt (2006), NXB Đà Nẵng, Hà Nội, tr.694.
Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Việt – Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh, tr.1286.

10


12
phạt. Cũng như các vi phạm pháp luật khác VPHC nếu để xảy ra hậu quả thì người
thực hiện hành vi vi phạm phải tiến hành khắc phục hậu quả do chính hành vi của mình
gây ra (thể hiện tại khoản1 Điều 13 và khoản1 Điều 28 Luật Xử lý VPHC 2012). Quy
định này của pháp luật là nhằm mục đích phịng ngừa hành vi vi phạm. Nếu khơng vi
phạm, khơng gây thiệt hại thì khơng phải khắc phục.
Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, cơng
khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này được đặt ra đối với những người có thẩm quyền XPVPHC

nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế (Hiến pháp 2013 đã bỏ nguyên tắc này nhưng Luật
Xử lý VPHC 2012 ra đời lúc Hiến Pháp 1992 đang có hiệu lực pháp luật) trong hoạt
động quản lý nhà nước và việc tuân thủ nguyên tắc này cũng thể hiện việc tinh thần
của nguyên tắc thứ nhất. Việc XPVPHC phải thực hiện nhanh chóng bởi các hành vi
VPHC là hành vi trái pháp luật, trên thực tế số lượng rất lớn, diễn biến đa dạng ở nhiều
lĩnh vực nên việc xử phạt nhanh làm cho vi phạm chấm dứt ngay, đảm bảo trật tự an
toàn xã hội, tránh việc vi phạm diễn ra nhiều lần, giảm bớt thiệt hại, đảm bảo sự
nghiêm minh của pháp luật.
Công khai, khách quan được đặt ra là nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể
tiếp cận, tham gia kiểm soát hoạt động xử phạt, tránh sự sai phạm hay lạm quyền từ
những người có thẩm quyền. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có cơ sở để thực hiện quyền
khiếu nại (nếu có), để xử lý vi phạm đối với những người có thẩm quyền cố ý làm trái,
nâng cao trách nhiệm của chính họ và tránh việc họ áp đặt ý chí chủ quan của mình vào
cơng tác xử phạt. Bên cạnh đó cũng phải đảm bảo sự công bằng, bởi một trong những
nguyên tắc pháp lý quan trọng của pháp luật Việt Nam là “mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật”. Nếu hoạt động hướng đến sự cơng bằng thì quyền và lợi ích của các
bên sẽ được bảo vệ một cách tuyệt đối.
Hoạt động XPVPHC khơng phải ai cũng có thể thực hiện mà chỉ những chủ thể
được pháp luật trao quyền mới có thể tiến hành (Điều 38 đến Điều 54 Luật Xử lý
VPHC 2012). Quy định này của pháp luật hướng đến việc tránh sự tùy tiện trong hoạt
động XPVPHC, hạn chế thiếu sót, tăng cường hiệu quả của hoạt động xử phạt vi phạm
và trách nhiệm của những người có thẩm quyền. Trong q trình họ thực hiện thẩm
quyền của mình khơng thể khơng tn thủ theo các quy định của pháp luật. Bởi những
hành vi VPHC được pháp luật quy định nên khi xử phạt cũng phải dựa vào định pháp
luật về hình mức, mức xử phạt… để ra quyết định xử phạt đúng đắn, hợp pháp.


13
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.

Nguyên tắc cũng đã từng được ghi nhận ở các Pháp lệnh Xử lý VPHC 1995 và
2002 là nhằm đảm bảo sự chính xác, cơng minh và sự thiết thực của pháp luật. Việc
XPVPHC phải xem xét toàn diện các khía cạnh: tính chất, mức độ, (tính chất nguy
hiểm, mức độ thiệt hại, sự ảnh hưởng đến xã hội), tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vừa để
phân biệt VPHC với các hình vi vi phạm pháp luật khác và khi tiến hành xử phạt có thể
đưa ra hình thức xử phạt, mức xử phạt tương ứng với từng hành vi và đối tượng vi
phạm. Quy định này cũng phần nào thể hiện được tính nhân đạo của nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa đó là khơng đặt nặng vấn đề trừng phạt mà mang tính giáo dục,
phịng ngừa là chủ yếu, từ đó pháp luật có thể có sức thuyết phục cao và nâng ý thức tự
giác chấp hành pháp luật của mỗi cá nhân.
Thứ tư, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định; một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; nhiều
người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị xử
phạt về hành vi vi phạm hành chính đó; một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Đây là nguyên tắc mà những người có thẩm quyền cần phải xem xét, cân nhắc
kỹ lưỡng trước khi ra bất cứ quyết định XPVPHC nào. Một người chỉ bị coi là VPHC
khi và chỉ khi họ thực hiện một hành vi mà pháp luật hành chính khơng cho phép,
khơng thực hiện hành vi mà pháp luật quy định hay thực hiện không đầy đủ những
hành vi mà pháp luật hành chính quy định, khi đó họ phải chịu trách nhiệm hành chính
đồng nghĩa với việc bị XPVPHC đối với hành vi mà họ thực hiện. Nếu hành vi vi
phạm đó được nhiều người cùng thực hiện thì bản thân mỗi người vi phạm cũng đều
phải chịu trách nhiệm về hành vi đó. Nếu hành vi họ thực hiện cũng trái pháp luật
nhưng chưa được pháp luật hành chính ghi nhận trong các quy phạm pháp luật hành
chính hay hành vi đó là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, dân sự,… thì họ không thể
bị XPVPHC.
Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền lập biên bản để xử phạt
hoặc ra quyết định xử phạt thì khơng được lập biên bản hoặc ra quyết định xử phạt lần
thứ hai đối với chính hành vi vi phạm đó nữa; một hành vi VPHC đã được người có
thẩm quyền ra quyết định xử phạt thì khơng đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành



14
chính khác đối với người thực hiện hành vi này11. Điều này có nghĩa là cùng một hành
vi VPHC khơng thể bị xử phạt nhiều lần, nếu sau này cá nhân, tổ chức tiếp tục thực
hiện hành vi VPHC đã bị xử phạt thì áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm khi tiến
hành xử phạt. Mục đích của quy định này là hạn chế tình trạng chồng chéo, bất hợp lý
trong xử phạt vi phạm và tránh mang lại gánh nặng cho người bị xử phạt.
Thực hiện nhiều hành vi VPHC là một người, một tổ chức thực hiện nhiều hành
vi vi phạm theo quy định của pháp luật VPHC. Ví dụ: Một người điều khiển xe gắn
máy lưu thông trên đường vừa không đội mũ bảo hiểm, không chấp hành hiệu lệnh của
người điều khiển giao thông, vừa chạy quá tốc độ cho phép trong cùng một thời gian,
địa điểm (thực hiện hành vi mà pháp luật cấm, không thực hiện hành vi mà pháp luật
quy định phải làm) thì cá nhân này bị xử phạt về từng hành vi.
VPHC nhiều lần có thể hiểu là một cá nhân, tổ chức vi phạm một hành vi hành
chính nhiều lần vào nhiều thời điểm, địa điểm khác nhau nhưng chưa bị xử phạt về
những hành vi vi phạm đó, thì họ sẽ bị xử phạt đối với hành vi vi phạm của mình. Quy
định này cũng tương tự như quy định “phạm tội nhiều lần” trong pháp luật hình sự. Vi
phạm nhiều lần ở đây được hiểu là từ 02 lần trở lên. Ví dụ như một người đã nhiều lần
điều khiển xe mơ tơ nhưng khơng có giấy phép lái xe theo quy định, cho đến khi bị
phát hiện thì cũng chỉ bị xử phạt một lần về hành vi này kèm theo tình tiết tăng nặng là
tái phạm nhiều lần. Để khắc phục được tình trạng này thì bản thân những người có
thẩm quyền xử phạt cần tích cực hơn nữa trong cơng tác phát hiện vi phạm để có thể
xử lý vi phạm ngày từ đầu.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm
hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại
diện hợp pháp chứng minh mình khơng vi phạm hành chính.
Đây là quy định mới so với các Pháp lệnh Xử lý VPHC trước đây khi quy định
nghĩa vụ chứng minh thuộc về những người có thẩm quyền xử phạt thay cho người vi
phạm (chứng minh mình khơng thực hiện hành vi VPHC) nhằm tăng cường trách

nhiệm, sự nghiêm túc của những người có thẩm quyền trong hoạt động XPVPHC, phải
tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tránh sự tùy tiện, áp đặt, tránh xử phạt không
đúng vi phạm.

11

(truy cập
ngày 14/5/2013).


15
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thơng qua người đại diện
hợp pháp chứng minh mình khơng VPHC nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trong trường hợp cho rằng người có thẩm quyền xử phạt chưa xử phạt đúng quy định
pháp luật. Đồng thời quy định này cũng thể hiện sự tôn trọng và vấn đề bảo đảm quyền
con người trong quá trình XPVPHC vì việc XPVPHC cũng có ảnh hưởng nhất định
đến cá nhân, tổ chức bị xử phạt về nhiều mặt (uy tín, danh dự,…) nên việc xử phạt cần
đảm bảo được tính chính xác, khách quan, hợp pháp. Pháp luật quy định đây là quyền
của cá nhân, tổ chức bị xử phạt do đó họ có thể thực hiện hoặc khơng.
Tỷ lệ đối tượng u cầu được giải thích về hành vi vi phạm12
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ

Đối tượng yêu cầu được giải thích về hành vi
vi phạm

307


56,8%

Khơng u cầu

233

43,3%

Thứ sáu, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với
tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Đây là quy định mới so với các Pháp lệnh Xử lý VPHC (Pháp lệnh Xử lý VPHC
năm 1995 và 2002 quy định mức tiền phạt tương ứng với từng loại VPHC trong từng
lĩnh vực chứ không phân chia ra tổ chức hay cá nhân vi phạm13) nhằm phân hóa đối
tượng bị XPVPHC là tổ chức với cá nhân.
Việc tổ chức bị xử phạt gấp hai lần so với cá nhân (mức phạt tiền trong
XPVPHC từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 100.000 đồng
đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức14) có thể coi là một quy định mang tính dân
chủ và công bằng cao hơn so với trước đây. Điều này có thể xuất phát từ bản chất hành
vi VPHC của các nhân hoặc tổ chức. Cá nhân vi phạm thì chỉ là sự vi phạm của một
người, đa số là những vi phạm nhỏ, tính nguy hiểm khơng cao. Cịn tổ chức thì thường
thực hiện những hành vi có sự cấu kết của cả một tập thể nên có thể nói tính chất, mức
độ của hành vi vi phạm phần nào lớn hơn so với cá nhân. Mặt khác, đã là tổ chức thì
thường có khả năng về tài chính cao hơn cá nhân nên việc quy định mức hình phạt cao
như vậy có thể là nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tổ chức phải chấp
hành đúng pháp luật (nhất là người lãnh đạo), bởi tập thể là tập hợp của nhiều cá nhân.
Báo cáo đánh giá tác động dự án luật XLVPHC, duthaoonline.quochoi.vn (truy cập ngày 15/5/2014).
Điều 14 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.
14
Khoản 1 Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

12
13


16
Do vậy, tự bản thân mỗi cá nhân khi không vi phạm pháp luật thì cũng góp phần tránh
được sự vi phạm của tổ chức vì hành vi của tổ chức phải thông qua hành vi của cá nhân
cụ thể.
Thông qua những nguyên tắc này pháp luật yêu cầu hoạt động XPVPHC cũng
như việc áp dụng thủ tục XPVPHC cần được tuân thủ triệt để và đúng đắn từ phía cơ
quan nhà nước, nhất là bởi những người có thẩm quyền xử phạt và cả bản thân những
cá nhân, tổ chức vi phạm cũng phải chấp hành đúng pháp luật XPVPHC để cho công
tác xử phạt được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó cũng
góp phần thực hiện mục tiêu mà pháp luật XLVPHC đặt ra đó chính là đẩy lùi VPHC,
thiết lập lại trật tự, ổn định xã hội.
1.2. Các quy định của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Để thực hiện bất kỳ hoạt động nào trong tổng thể hoạt động quản lý nhà nước
thì bắt buộc phải tuân theo những quy định của pháp luật, có như vậy hoạt động quản
lý mới mang lại hiệu quả cao. Hoạt động XPVPHC là một trong những hoạt động quản
lý nhà nước nên nó cũng khơng nằm ngồi quy luật này. Theo đó pháp luật đã quy định
những thủ tục cụ thể để những người có thẩm quyền thuận lợi hơn trong q trình áp
dụng.
“Thủ tục” có thể được hiểu một cách nơm na là trình tự và cách thức khi tiến
hành một hoạt động nhất định. Còn “Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là những
trình tự, cách thức mà chủ thể có thẩm quyền phải thực hiện theo trong q trình xử
phạt vi phạm hành chính mà pháp luật đã quy định từ thời điểm phát hiện hành vi vi
phạm đến khi giải quyết xong vụ vi phạm hành chính”. Thủ tục XPVPHC cũng là một
trong những loại thủ tục hành chính nên nó cũng khơng nằm ngồi phạm vi của thủ tục
hành chính.
Theo Từ điển luật học thì “Thủ tục hành chính là tổng thể các quy phạm bắt

buộc phải tuân theo khi tiến hành thành lập, thay đổi, giải thể, xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn phạm vi hoạt động của các tổ chức khi ban hành các văn bản
hành chính, khi thực hiện các hành vi hành chính…”15. Trong q trình áp dụng thủ
tục XPVPHC thì những người có thẩm quyền xử phạt cũng phải tuân theo những
nguyên tắc của hoạt động áp dụng thủ tục hành chính16 như: ngun tắc cơng khai,
minh bạch; nguyên tắc khách quan; nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tham gia thủ
15
16

Từ điển Luật học (1999), tlđd, tr. 474.
Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành Chính Việt Nam, tlđd, tr.507.


17
tục; nguyên tắc nhanh chóng, kịp thời,… Đây là những nguyên tắc chung, mang tính
nền tảng cho các hoạt động của cơ quan nhà nước, đảm bảo cho các hoạt động đó được
tiến hành đúng pháp luật, làm nền cho các hoạt động khác.
Theo Mục I Chương III Luật Xử lý VPHC thì thủ tục XPVPHC được chia làm
hai loại là thủ tục XPVPHC khơng lập biên bản (cịn gọi là thủ tục xử phạt đơn giản)
và thủ tục XPVPHC có lập biên bản, hồ sơ XPVPHC (cịn gọi là thủ tục xử phạt thông
thường). Việc phân loại này được duy trì từ quy định ở các Pháp lệnh Xử lý VPHC
trước đây.
Trước khi tiến hành các thủ tục xử phạt pháp luật đưa ra quy định “buộc chấm
dứt hành vi vi phạm” (Điều 55 Luật Xử lý VPHC 2012). Ở Pháp lệnh Xử lý VPHC
năm 2002 thì quy định này có tên gọi là “đình chỉ hành vi vi phạm” ghi nhận tại Điều
53. Đình chỉ là “ngừng lại hay làm cho phải ngừng lại trong một thời gian hay vĩnh
viễn17”, tuy nhiên pháp luật Việt Nam sử dụng đình chỉ với nghĩa ngừng lại hồn tồn,
cịn ngừng lại một thời gian thì đã có khái niệm tạm đình chỉ. Buộc chấm dứt hành vi
vi phạm áp dụng đối với vi phạm đang diễn ra nhằm chấm dứt không cho hành vi
VPHC tiếp diễn. Việc buộc chấm dứt hành vi vi phạm có thể được thực hiện bằng lời

nói, cịi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định của pháp luật. Buộc
chấm dứt hành vi vi phạm là hoạt động đầu tiên trong quá trình tiến hành thủ tục
XPVPHC, sau đó người có thẩm quyền xử phạt cũng chỉ được áp dụng một trong hai
loại thủ tục là thủ tục đơn giản hoặc thông thường.
1.2.1. Thủ tục xử phạt đơn giản
Thủ tục xử phạt đơn giản là thủ tục xử phạt tại chỗ, không lập biên bản VPHC
mà chỉ ra quyết định xử phạt trực tiếp.
Sau khi Luật xử lý VPHC 2012 ra đời thì xử phạt hành chính khơng lập biên
bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng
đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức18 (cao hơn so với mức 10.000 đến
200.000 đồng quy định tại Pháp lệnh Xử lý VPHC 2008 và không có sự phân biệt giữa
cá nhân và tổ chức vi phạm) và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định
XPVPHC tại chỗ. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp với hình thức và mức xử phạt
như trên đều được xử phạt tại chỗ mà có một số trường hợp phải tiến hành lập biên
bản. Đó là những trường hợp VPHC được phát hiện nhờ việc sử dụng phương tiện,
17
18

Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Việt – Nam, tlđd, tr.632.
Khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.


18
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được quy định tại Điều 64 của Luật Xử lý VPHC 2012 (sẽ
được nói rõ hơn ở thủ tục xử phạt thông thường). Quyết định xử phạt được thể hiện
bằng văn bản theo mẫu do pháp luật quy định là Mẫu quyết định 01 ban hành kèm theo
Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Xử lý VPHC 2012 (sau đây gọi tắt là Nghị định 81/2013/NĐ-CP).
Nội dung quyết định xử phạt theo thủ tục đơn giản, ngắn gọn hơn so với thủ tục
xử phạt thông thường, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo những thông tin sau đây: họ, tên,

địa chỉ của người vi phạm, hành vi vi phạm, địa điểm xảy ra vi phạm, điều, khoản, tên
văn bản được áp dụng để xử phạt; ngày, tháng, năm ra quyết định, họ, tên, chức vụ
người ra quyết định. Trong trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức
tiền phạt. Người ra quyết định xử phạt phải giao cho nguời bị xử phạt quyết định xử
phạt và biên lai thu tiền phạt.
Những hành vi bị xử phạt theo thủ tục này đa số là những vi phạm nhỏ, lẻ, đơn
giản, không nghiêm trọng nên áp dụng thủ tục xử phạt đơn giản này là tương đối phù
hợp; tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền trong việc xử phạt, đảm bảo trật
tự an toàn xã hội; đồng thời cũng tạo điều kiện cho người bị xử phạt nhanh chóng nộp
phạt, tránh mất thời gian; nhất là trong lĩnh vực trật tự an tồn giao thơng đường bộ,
một lĩnh vực được coi là có nhiều số lượng VPHC xảy ra tương đối nhiều hơn so với
các lĩnh vực khác.
1.2.2. Thủ tục xử phạt thông thường
Thủ tục xử phạt thông thường như tên gọi của nó, là thủ tục xử phạt được thực
hiện theo đúng trình tự pháp luật quy định, đây là thủ tục có lập biên bản và hồ sơ
XPVPHC. Việc áp dụng thủ tục xử phạt thông thường được chia làm 03 giai đoạn:
1.2.2.1. Lập biên bản vi phạm hành chính
Biên bản là văn bản ghi chép lại q trình xảy ra hoặc kết quả điều tra một sự
việc hay diễn biến một hoạt động như buổi họp, hội nghị 19. Kế thừa quy định Điều 55
Pháp lệnh Xử lý VPHC 2008, khoản1 Điều 58 Luật Xử lý VPHC 2012 quy định việc
lập biên bản được áp dụng trong ba trường hợp:
Trường hợp 1: Vi phạm không thuộc trường hợp được áp dụng hình thức xử
phạt theo thủ tục đơn giản
Điều này có nghĩa là những trường hợp vi phạm mà khơng được áp dụng hình
thức xử phạt cảnh cáo, áp dụng hình thức phạt tiền mà mức phạt tiền trên 250.000 đồng
19

Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Việt - Nam, ttđd, tr.138.



19
đối với cá nhân và trên 500.000 đồng đối với tổ chức thì bắt buộc phải tiến hành
XPVPHC theo thủ tục xử phạt thông thường.
Trường hợp 2: Hành vi vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ
Pháp lệnh Xử lý VPHC trước đây quy định về sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật nghiệp vụ để phát hiện VPHC chỉ trong lĩnh vực trật tự an tồn giao thơng. Đến
khi Luật Xử lý VPHC 2012 ra đời đã bổ sung thêm một lĩnh vực nữa được sử dụng
phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm là môi trường. Điều này
xuất phát từ thực tiễn các hành vi VPHC về môi trường đang diễn ra ngày càng phổ
biến và phức tạp. Đối với vi phạm khi được phát hiện thông qua việc sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ yêu cầu người có thẩm quyền xử phạt phải tuân thủ
quy định của pháp luật về việc việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ tại
Điều 64 Luật Xử lý VPHC 2012 và Nghị định 165/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy
định về quản lý, sử dụng và danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ
được sử dụng để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an tồn giao thơng và bảo vệ
môi trường (sau đây gọi là Nghị định 165/2013/NĐ-CP):
- Lĩnh vực quản lý nhà nước được phép sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật
nghiệp vụ để phát hiện vi phạm (khoản1 Điều 64 Luật Xử lý VPHC 2012).
Pháp luật về XPVPHC hiện nay chỉ mới cho phép sử dụng phương tiện, thiết bị
kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm trong hai lĩnh vực: trật tự an tồn giao thơng
và bảo vệ mơi trường. Điều này xuất phát từ đặc thù của VPHC trong hai lĩnh vực này
là vi phạm khó phát hiện thơng qua việc quan sát hay sử dụng những phương pháp
thông thường. Như trong lĩnh vực an tồn giao thơng nếu muốn xử phạt một người khi
điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (xe gắn máy, ơ tơ…) có sử dụng
rượu bia quá nồng độ theo quy định của pháp luật hay không (quy định tại Nghị định
171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao
thơng đường bộ và đường sắt) thì người có thẩm quyền cần sử dụng đến “phương tiện
đo nồng độ cồn trong cơ thể” chứ không thể quan sát dễ dàng như những trường hợp vi
phạm vượt đèn đỏ hay không đội mũ bảo hiểm.

- Danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (ban hành kèm theo
Nghị định 165/2013/NĐ-CP) bao gồm 06 nhóm. Có thể kể đến như: nhóm các phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệpvụ được sử dụng để phát hiện vi phạm hành chính về trật
tự an tồn giao thông đường bộ – đường sắt – đường thủy nội địa…


20
- Tiêu chuẩn của người sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (quy
định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định 165/2013/NĐ-CP): là cán bộ, chiến sĩ Công an
nhân dân, thanh tra viên thanh tra chuyên ngành, công chức quy định tại khoản 1 Điều
5 Nghị định này; nắm vững chế độ quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật
nghiệp vụ; được tập huấn về quy trình, thao tác sử dụng, bảo quản phương tiện, thiết bị
kỹ thuật nghiệp vụ và các quy định của pháp luật về XLVPHC có liên quan.
- Nguyên tắc về việc quản lý, sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ
(khoản2 Điều 64 Luật Xử lý VPHC 2012 và Điều 3 Nghị định 165/2013/NĐ-CP)
- Yêu cầu việc sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện, thiết
bị kỹ thuật nghiệp vụ (Điều 11 Nghị định 165/2013/NĐ-CP).
Việc sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ đã đóng góp một phần
khơng nhỏ vào q trình đấu tranh, phòng chống VPHC trên thực tế.
Trường hợp 3: Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa
Đây là một trường hợp đặc biệt khi vi phạm hành chính được diễn ra trên các
phương tiện vận tải đang trong quá trình vận hành, di chuyển. Do đó, việc xử lý vi
phạm trong những trường hợp này cần hết sức chặt chẽ, bởi khi vi phạm xảy ra khơng
có mặt người có thẩm quyền xử phạt ngay tại thời điểm phát hiện vi phạm, nên việc lập
biên bản vi phạm hành chính là cần thiết nhằm ghi nhận hành vi vi phạm, làm căn cứ
cho việc XPVPHC sau này. Trên thực tế, vi phạm trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa cũng
diễn ra tướng đối nhiều và phức tạp, phổ biến nhất là trong lĩnh vực hàng không dân
dụng.
Trường hợp XPVPHC đối với vụ việc do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
chuyển tới nếu có dấu hiệu VPHC thì việc XPVPHC sẽ căn cứ vào hồ sơ do cơ quan

tiến hành tố tụng chuyển đến để ra quyết định xử phạt mà không cần lập biên bản
VPHC.
Những người có thẩm quyền lập biên bản bao gồm những người có thẩm quyền
xử phạt và những người được giao nhiệm vụ thi hành công vụ để thực hiên chức năng
quản lý nhà nước (khơng có thẩm quyền xử phạt). Tuy nhiên Luật không quy định chi
tiết mà cụ thể những người có thẩm quyền lập biên bản được liệt kê tại khoản 1 Điều 6
Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 gồm: người có thẩm quyền xử phạt, công
chức, viên chức đang thi hành công vụ, nhiệm vụ; người chỉ huy tàu bay, thuyền
trưởng, trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu
giao nhiệm vụ lập biên bản. Những người này chỉ được lập biên bản những vụ vi phạm


21
thuộc phạm vi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao. Việc quy định cụ thể những cá
nhân có thẩm quyền có ý nghĩa tránh sự lạm dụng của các cơ quan chức năng khi tham
gia vào hoạt động XPVPHC.
Ngoài ra, tại các văn bản hướng dẫn cũng có quy định như: tại Điều 40 Nghị
định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng lao động thì thẩm quyền người lập biên bản gồm người có thẩm quyền
xử phạt, cơng chức, viên chức đang thi hành nhiệm vụ. Nghị định 91/2013/NĐ-CP
ngày 27/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh
doanh xăng dầu và khí dầu mở hóa lỏng thì quy định thẩm quyền xử phạt trong lĩnh
vực này gồm có: những người thi hành cơng vụ của các cơ quan là Ủy ban nhân dân
các cấp, Quản lý thị trường, Công an nhân dân, Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát
biển và Thanh tra chuyên ngành.
Nội dung của biên bản được quy định tại khoản 2 Điều 64 Luật Xử lý VPHC
2012 và có mẫu chung tại Nghị định 81/2013/NĐ-CP (Mẫu biên bản 01) gồm: ngày,
tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ,
nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng,

năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm (trường hợp một cá nhân, tổ chức thực
hiện nhiều hành vi VPHC trong cùng một vụ vi phạm thì biên bản phải nêu rõ từng
hành vi vi phạm); biện pháp ngăn chặn VPHC và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang
vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm;
nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải
ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ. Đặc biệt Luật Xử lý VPHC 2012 đã bổ sung
thêm một nội dung quan trọng trong biên bản VPHC đó là ghi nhận quyền giải trình và
thời hạn giải trình về VPHC của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ
quan tiếp nhận giải trình.
Để biên bản có giá trị pháp lý thì u cầu người lập biên bản và người vi phạm
hoặc tổ chức vi phạm cùng ký vào biên bản. Trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm
không đồng ý ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền địa
phương hoặc của hai người làm chứng và phải nêu rõ lý do trong biên bản (khoản 2, 3
Điều 61 Luật Xử lý VPHC 2012). Trường hợp người chưa thành niên VPHC thì biên
bản ngồi được gửi cho người vi phạm còn được gửi cho cha mẹ hoặc người giám hộ
của người đó. Sau khi biên bản lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức VPHC 01 bản;


22
trường hợp VPHC vượt quá thẩm quyền của người lập biên bản thì phải chuyển ngay
cho người có thẩm quyền xử phạt, nếu chưa thể ra quyết định xử phạt ngay được thì
người có thẩm quyền xử phạt tiếp tục tiến hành xác minh vi phạm.
Ví dụ quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông tư 54/2014/TT-BTC ngày 24/4/2014
quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực kho bạc nhà nước theo quy định tại nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng
11 năm 2013 của Chính phủ về báo cáo cấp có thẩm quyền ra quyết định xử phạt khi
người lập biên bản khơng có thẩm quyền xử phạt như sau:
“Trường hợp người lập biên bản là công chức được giao nhiệm vụ kiểm soát
chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước đang thực thi nhiệm vụ phải kịp thời
báo cáo lãnh đạo đơn vị để lập Biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp lãnh

đạo đơn vị khơng có thẩm quyền xử phạt, thì chậm nhất 02 ngày làm việc, kể từ ngày
lập biên bản, đơn vị phải báo cáo Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (đối với các đơn vị Kho bạc Nhà nước thuộc Kho bạc Nhà nước tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương) hoặc báo cáo Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước (đối
với Sở Giao dịch Kho bạc nhà nước) kèm theo biên bản và toàn bộ hồ sơ, chứng từ có
liên quan (bản phơtơ).”
Việc lập biên bản đối với vụ VPHC có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
xử phạt VPHC theo thủ tục thông thường bởi khi khi phát hiện hành vi VPHC việc xử
phạt chưa thể tiến hành ngay có thể do chưa có đủ cơ sở hay người lập biên bản khơng
có thẩm quyền XPVPHC. Biên bản lúc này là văn bản có giá trị chứng minh vi phạm
để người có thẩm quyền XPVPHC lấy làm căn cứ từ đó đưa ra quyết định xử phạt phù
hợp.
1.2.2.2. Quá trình xác minh vi phạm hành chính
Q trình xác minh là q trình xác định các yếu tố liên quan đến vi phạm hành
chính của những người có thẩm quyền hay cả đối tượng bị xử phạt nhằm hướng đến
việc giải quyết đúng đắn nhất vụ việc. Quá trình xác minh được tiến hành theo trình tự
như sau:
Thứ nhất, xác minh tình tiết vụ vi phạm hành chính.
Xác minh tinh tiết vụ VPHC là hoạt động được tiến hành ngay sau khi lập biên
bản VPHC đối với những vụ việc chưa có đủ căn cứ để tiến hành xử phạt, là hoạt động
cụ thể hóa nguyên tắc “người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh
VPHC” như đã phân tích. Tại Điều 59 Luật Xử lý VPHC 2012 thì nghĩa vụ xác minh


23
tình tiết của vụ VPHC thuộc về người có thẩm quyền xử phạt đối với vụ vi phạm đó, là
thủ tục bắt buộc trước khi ra quyết định xử phạt, nhằm thực hiện đúng nguyên tắc
chính xác, minh bạch, khách quan của quá trình giải quyết VPHC. Vấn đề đầu tiên
người có thẩm quyền xử phạt phải chứng minh đó là có hay khơng có hành vi VPHC.
Đây là cơ sở đầu tiên để giải quyết các vấn đề tiếp theo, nếu khơng có hành vi vi phạm

thì việc áp dụng các thủ tục XPVPHC chấm dứt. Việc xác minh tình tiết vụ VPHC là
xác minh những vấn đề như sau:
Xác định đối tượng vi phạm hành chính.
Xác minh đối tượng vi phạm là tình tiết quan trọng nhất trong bất kỳ quá trình
xử lý vi phạm pháp luật nào, VPHC cũng không ngoại lệ. Nếu xác định được đối tượng
thực hiện hành vi VPHC là ai, tổ chức nào thì việc xử phạt có thể tiến hành xử phạt dễ
dàng. Một khi đối tượng thực hiện hành vi vi phạm khơng xác định được thì khơng thể
tiến hành việc xác minh các tình tiết khác như: lỗi, nhân thân người vi phạm,…và cá
nhân, tổ chức đó có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hay khơng, những điều
này cũng phần nào liên quan đến việc ra quyết định XPVPHC. Nếu cá nhân VPHC
chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hành chính (chưa đủ 12 tuổi) hay khơng có năng lực
trách nhiệm hành chính (khoản 5 Điều 11 Luật Xử lý VPHC 2012), cá nhân chết, mất
tích, tổ chức VPHC đã giải thể, phá sản trong thời gian xác minh để ra quyết định xử
phạt thì việc giải quyết vụ VPHC sẽ phải chấm dứt.
Xác định có cịn thời hiệu để xử phạt vi phạm hay không?
Theo khoản1 Điều 6 Luật Xử lý VPHC 2012 thì thời hiệu XPVPHC là 01 năm
từ lúc phát hiện hành vi VPHC, từ khi hành vi hành vi vi phạm hành chính kết thúc hay
là từ khi chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt. Đối với một số trường hợp
thì thời hiệu là 02 năm hoặc thời hiệu được tính theo quy định của pháp luật chuyên
ngành. Theo quy định của pháp luật thì việc XPVPHC chỉ được thực hiện trong khoảng
thời gian này, nếu thời hiệu đã hết thì người có thẩm quyền xử phạt khơng được phép
XPVPHC đối với hành vi VPHC đó nữa.
Có quan điểm cho rằng quy định về thời hiệu trên đây được áp dụng cho cả các
biện pháp khắc phục hậu quả. Bởi theo khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý VPHC 2012 quy
định: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử
phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”. Theo quy
định này thì các biện pháp khắc phục hậu quả cũng là một biện pháp xử phạt vi phạm



24
hành chính, do vậy quy định về thời hiệu được áp dụng là như nhau. Tuy nhiên, cũng
có ý kiến cho rằng mặc dù Luật Xử lý VPHC 2012 không có điều khoản nào quy định
cụ thể các biện pháp khắc phục hậu quả nên được hiểu việc áp dụng các biện pháp này
là vô thời hạn. Quan điểm này căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 65 của Luật này.
Nên cho dù có hết thời hạn hay thời hiệu đi chăng nữa thì các biện pháp khắc phục hậu
quả vẫn được áp dụng để xử lý vi phạm.
Theo người viết ý kiến thứ hai là hợp lý hơn cả bởi xuất phát từ thực tiễn hay
chính quy định khác của pháp luật XLVPHC, ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả đó chính là hạn chế, khắc phục hậu quả do VPHC gây ra. Trong rất
nhiều trường hợp, mặc dù VPHC không thể bị xử lý nhưng nó vẫn mang lại hậu quả rất
lớn cho xã hội nên việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả là cần thiết.Tuy
nhiên, để đạt được hiệu quả hoạt động cao thì pháp luật cũng cần quy định cụ thể về
vấn đề này để đạt được hiệu quả tốt nhất, cũng như tránh tùy tiện trong việc áp dụng
pháp luật. Thực tế có những trường hợp vi phạm có thể xác định được thời hiệu nhưng
cũng có trường hợp khó xác định. Đối với những vi phạm được phát hiện thì thời hiệu
được tính từ thời điểm phát hiện vi phạm (điểm b Khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý VPHC
2012) thì dễ dàng. Nhưng những vi phạm thời hiệu được xác định từ thời điểm chấm
dứt vi phạm mà vi phạm được thực hiện lén lút, khơng cơng khai thì khó biết được
hành vi vi phạm chấm dứt khi nào để tính thời hiệu.
Trường hợp đã xác định được cá nhân hay tổ chức thực hiện hành vi VPHC,
thời hiệu xử lý vẫn còn thì tiếp theo phải xác định hành vi hành chính đó đã thực hiện
trong hồn cảnh như thế nào. Nếu khi thực hiện hành vi mà họ rơi vào một trong
những trường hợp: thực hiện VPHC trong tình thế cấp thiết, do phịng vệ chính đáng,
do sự kiện bất ngờ, do sự kiện bất khả kháng được quy định các khoản 1, 2, 3, 4 Điều
11 Luật Xử lý VPHC 2012 thì quá trình xác minh tình tiết vụ vi phạm hành chính chấm
dứt bởi đây là những trường hợp khơng bị xử phạt vi phạm hành chính.
Cụ thể như trong lĩnh vực hải quan20, pháp luật cũng quy định cụ thể các trường
hợp khơng tiến hành XPVPHC: Hàng hóa, phương tiện vận tải được đưa vào lãnh thổ
Việt Nam do sự kiện bất ngờ, sự kiện bất khả kháng thì phải thơng báo với cơ quan hải

quan hoặc cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật; hàng hóa, phương

Nghị định 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan.
20


25
tiện vận tải đó phải được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau khi các yếu tố nêu trên
được khắc phục…
Xác định tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi hành chính gây ra, tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ.
Đây là một trong những cơ sở cho việc quyết định hình thức xử phạt (cảnh cáo
hoặc phạt tiền) và mức xử phạt (hình phạt tiền), có áp dụng thêm biện pháp khắc phục
hậu quả hay không đối với hành vi VPHC. Đối với những hànhvi nhỏ, không nghiêm
trọng (như có cử chỉ, lời nói thơ bạo, khiêu khích, trêu ghẹo) thì có thể áp dụng hình
thức xử phạt là cảnh cáo. Những vi phạm hành chính mang tính chất nghiêm trọng hơn
(trốn thuế, bn lậu) sẽ có thể áp dụng hình thức xử phạt tiền, số tiền phạt tùy theo
mức độ thiệt hại có thể áp dụng một cách linh hoạt. Ví dụ: Cùng là hành vi vi phạm
quy định về quản lý hóa chất nhưng nếu là hóa chất thuộc Bảng 2 thì có mức xử phạt
thấp hơn so với hóa chất thuộc Bảng 121. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy
định tại Điều 9 (người vi phạm hành chính đã có hành vi ngăn chặn, làm giảm bớt hậu
quả của vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; người vi
phạm hành chính đã tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi; tích cực giúp đỡ cơ quan
chức năng phát hiện VPHC, XLVPHC…) và Điều 10 (vi phạm hành chính có tổ chức;
vi phạm hành chính nhiều lần; tái phạm; xúi giục, lôi kéo, sử dụng người chưa thành
niên vi phạm; ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về vật chất, tinh thần thực hiện hành
vi VPHC…) Luật Xử lý VPHC 2012. Việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong
XPVPHC là nhằm giúp giảm bớt hậu quả pháp lý cho đối tượng vi phạm hoặc cũng có
thể gây khó khăn, bất lợi cho chính đối tượng vi phạm.

Việc xác minh những vấn đề này cịn có ý nghĩa trong việc người có thẩm
quyền xử phạt sẽ ra quyết định XPVPHC hay quyết định chuyển hồ sơ cho cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự xử lý nếu hành vi vi phạm đó vượt quá thẩm quyền giải quyết
của người xử phạt và hành vi vi phạm có dấu hiệu của tội phạm (khoản 1 Điều 62 Luật
Xử lý VPHC). Đây là quy định kế thừa từ Pháp lệnh Xử lý VPHC trước đây nhưng
Luật Xử lý VPHC 2012 đã có những sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục
chuyển hồ sơ theo hướng minh bạch. Trong quá trình thi hành thi hành quyết định
XPVPHC, nếu hành vi vi phạm phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định XPVPHC phải ra quyết định
Điều 17, 18 Nghị định 163/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hóa chất, phân bón và vật liệu nổ cơng nghiệp.
21


×