Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

DŨNG THỊ MỸ THẨM

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỘM CẮP ĐIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỘM CẮP ĐIỆN
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. CAO VŨ MINH
Học viên: DŨNG THỊ MỸ THẨM
Lớp: Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Khóa: 27

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi trộm cắp điện” là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Cao Vũ Minh. Luận văn có sử dụng, trích dẫn
một số ý kiến, quan điểm khoa học của các tác giả. Các thông tin này đều được trích
dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thơng tin được sử dụng trong Luận văn là
hồn toàn khách quan và trung thực.
Tác giả

Dũng Thị Mỹ Thẩm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỘM CẮP ĐIỆN .................................................... 5
1.1. Vi phạm hành chính về trộm cắp điện ............................................................... 5
1.1.1. Khái niệm trộm cắp điện............................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về trộm cắp điện........................... 6
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về trộm cắp điện .............................. 6
1.1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính về trộm cắp điện ......................... 9
1.1.3. Vi phạm hành chính về trộm cắp điện - một loại vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực ................................................................................................... 13
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện .......................... 16
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp
điện…………………………………………………………………………………… ........ 16
1.2.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp
điện..... ........................................................................................................ 16
1.2.1.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp
điện.. ........................................................................................................... 17
1.2.2. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện .......... 19

1.2.3. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ....... 21
1.2.4. Hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi trộm cắp điện...................................................................... 26
1.2.5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ..... 29
1.2.6. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ......... 32
1.2.7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ............ 34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 41
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỘM CẮP ĐIỆN VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................................................................... 42


2.1. Tình hình vi phạm hành chính về trộm cắp điện và nguyên nhân ................. 42
2.1.1. Tình hình vi phạm hành chính về trộm cắp điện .......................................... 42
2.1.2. Nguyên nhân của vi phạm hành chính về trộm cắp điện.............................. 47
2.2. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm
cắp điện và giải pháp hồn thiện............................................................................. 51
2.2.1. Những mặt tích cực..................................................................................... 51
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện ................................... 53
2.3. Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện và giải
pháp hoàn thiện ....................................................................................................... 64
2.3.1. Những mặt tích cực..................................................................................... 64
2.3.2. Những hạn chế và giải pháp hoàn thiện ...................................................... 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 78
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì chất lượng cuộc
sống của người dân cũng được nâng cao và kéo theo đó là nhu cầu sử dụng điện cũng
tăng lên. Điện năng là nguồn năng lượng không thể thiếu trong xã hội hiện đại và là
nguồn năng lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống. Cũng chính vì thế mà chi phí
cho việc sử dụng điện ngày càng lớn và chiếm một phần không nhỏ trong chi phí sản
xuất, sinh hoạt của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Song, để giảm chi phí sản xuất, kinh
doanh và giảm chi phí sinh hoạt thì nhiều khách hàng đã sử dụng biện pháp tiêu cực là
trộm cắp điện.
Tình trạng trộm cắp điện có diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng hàng năm
không chỉ về số lượng mà tăng cả về quy mô. Hành vi trộm cắp điện khơng chỉ làm thất
thốt tài sản ngành điện mà còn dẫn đến nhiều rủi ro khác như làm hư hỏng lưới điện,
gây mất an toàn lưới điện, đe dọa tính mạng con người… Xuất phát từ tính nguy hiểm
của hành vi trộm cắp điện nên cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi trộm cắp điện có thể
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý hình sự tùy vào tính chất, mức độ vi phạm.
Trong đó, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống vi phạm hành chính về trộm cắp
điện. Công tác xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện được thực
hiện nghiêm minh sẽ bảo đảm ý nghĩa giáo dục, răn đe, trừng trị và khôi phục lại trật tự
quản lý hành chính nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 134/2013/NĐ-CP ngày
17/10/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện. Mặc
dù Nghị định số 134/2013/NĐ-CP vừa có sự kế thừa những điểm tích cực của các nghị
định trước, vừa có những đổi mới tiến bộ hơn nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập.
Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi trộm cắp điện là một vấn đề hết sức cần thiết, bảo đảm phát

triển hệ thống điện bền vững, an toàn, ổn định, hiệu quả. Chính vì lẽ đó, tác giả đã chọn
đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện” để làm Luận văn
thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Xử phạt vi phạm hành chính là vấn đề ln có tính thời sự và được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Do đó, khá nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này
cả về lý luận lẫn thực tiễn.


2

Xét ở góc độ nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận chung thì có các cơng
trình khoa học như: “Chế tài hành chính: Lý luận và thực tiễn”, Luận án phó tiến sĩ
Luật học của tác giả Vũ Thư, năm 1995; bài viết “Bàn về xử lý vi phạm hành chính”
của tác giả Trần Minh Hương, đăng trên Tạp chí Luật học, số 04, năm 1999; “Một số
vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Lê Vương
Long, đăng trên Tạp chí Luật học, số 09, năm 2003; “Thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính” của tác giả Bùi Thị Đào, đăng trên Tạp chí Luật học, số 09, năm 2003... Nhìn
chung, các cơng trình nghiên cứu nói trên đều xem xét vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính dưới các góc độ và mức độ khác nhau. Các cơng trình khoa học này đã đem lại
những giá trị khoa học quý giá ở góc độ lý luận cũng như thực tiễn, là tài liệu tham khảo
hữu ích về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
Sách chuyên khảo “Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012” do tác giả Nguyễn Cảnh Hợp làm chủ biên, xuất bản năm 2017 là cơng trình
nghiên cứu, bình luận chun sâu các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012. Do đó, sách chun khảo này chưa phân tích, đánh giá, bình luận một cách tồn
diện các quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
Bài viết “Bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực” của tác giả Cao Vũ Minh trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 07, năm 2018.
Bài viết này mặc dù phân tích khá chuyên sâu các bất cập về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực điện lực nhưng chỉ mới dừng lại ở các vấn đề cụ thể chứ chưa đánh
giá một cách toàn diện, tổng thể các vấn đề về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn
xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu này, tác giả sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển, mở rộng để nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
Thơng qua q trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy chưa có cơng trình nghiên
cứu nào liên quan trực tiếp, tồn diện, đầy đủ, có hệ thống về xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi trộm cắp điện để chỉ ra những hạn chế, vướng mắc của pháp luật
và đề xuất các giải pháp hồn thiện. Do đó, đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi trộm cắp điện” là một đề tài mới và phù hợp với thực tiễn quản lý.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích đề tài là tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện, đồng thời phân tích, đánh giá các
quy định của pháp luật và thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm
cắp điện. Trên cơ sở đó, đề tài chỉ ra những bất cập, hạn chế, những vấn đề còn tồn
đọng và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện việc xử phạt vi phạm hành chính đối


3

với hành vi trộm cắp điện, góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật, từng bước
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi
trộm cắp điện.
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung và đi sâu nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi trộm cắp điện. Chính vì vậy, đề tài bắt đầu bằng việc nghiên cứu các nội dung
khái quát như khái niệm, đặc điểm của vi phạm hành chính về trộm cắp điện; khái niệm,
đặc điểm, mục đích, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi trộm cắp điện đến việc phân tích, đánh giá các quy định cụ thể của pháp

luật, thực tiễn thực hiện cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp
điện. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện việc xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
Phạm vi nghiên cứu:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực bao gồm nhiều hành vi như: vi phạm
quy định về giấy phép hoạt động điện lực; vi phạm quy định về xây dựng, lắp đặt cơng
trình điện; vi phạm quy định về hoạt động phát điện, truyền tải điện, phân phối điện; vi
phạm quy định về bán buôn điện, bán lẻ điện; vi phạm quy định về sử dụng điện; vi
phạm quy định về an toàn điện; vi phạm quy định về điều độ hệ thống điện; vi phạm
quy định về thị trường điện lực. Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này, tác giả giới hạn
phạm vi nghiên cứu là xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện. Các
hành vi khác, tác giả chỉ mang tính nghiên cứu so sánh (nếu có) chứ khơng phân tích
sâu. Trên cơ sở đó, đề tài chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện. Từ đó, đề tài đưa
ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao chất lượng công tác xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống
kê; phương pháp phỏng vấn chuyên gia, phương pháp điều tra xã hội học. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để phân tích các vấn đề lý
luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến trách nhiệm hành chính, các vi
phạm hành chính liên quan đến hành vi trộm cắp điện.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng trong đánh giá các quy định của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện qua các thời kỳ để thấy
được sự thay đổi của pháp luật về vấn đề này.


4


- Phương pháp thống kê: được sử dụng để tập hợp các quy định pháp luật có liên
quan cũng như các số liệu, báo cáo, vụ việc từ thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi trộm cắp điện.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để thu thập ý kiến của các chuyên gia
xoay quanh những khó khăn, vướng mắc khi xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi trộm cắp điện.
- Phương pháp điều tra xã hội học: được sử dụng để thu thập ý kiến của những
cá nhân có liên quan trong việc phát hiện, xử lý hành vi trộm cắp điện.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi trộm cắp điện có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết trong bối cảnh
đất nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Do đó,
kết quả nghiên cứu của đề tài có nhiều tính mới cũng như có khả năng ứng dụng cao.
Những kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần hồn thiện các quy định pháp luật, bảo đảm
cơng tác xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện nói riêng và đối với
các vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực nói chung. Đề tài còn là tài liệu tham
khảo, tài liệu bổ ích cho những ai nghiên cứu các quy định pháp luật trong lĩnh vực này
cũng như những người làm công việc thực tiễn như lực lượng công an, thuế vụ, quản lý
thị trường...
6. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có hai
chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi trộm cắp điện.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật, thực trạng hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi trộm cắp điện và một số giải pháp hoàn thiện.


5


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI HÀNH VI TRỘM CẮP ĐIỆN
1.1. Vi phạm hành chính về trộm cắp điện
1.1.1. Khái niệm trộm cắp điện
Trải qua quá trình xây dựng, phát triển cùng với sự nỗ lực, phấn đấu, cho đến
nay ngành điện lực đã khai thác tối ưu mọi nguồn lực, đáp ứng nhu cầu điện năng phục
vụ đời sống nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng ổn định, an tồn và
kinh tế, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và an ninh năng lượng quốc gia 1. Tuy
nhiên, thời gian qua, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật thì cũng tồn tại rất nhiều vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực điện lực, nhất là tình trạng trộm cắp điện đang có chiều hướng
gia tăng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây ảnh hưởng an toàn vận hành lưới điện và
ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng, đời sống của người dân. Điều này cũng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển hệ thống điện bền vững, yêu cầu cung cấp điện an tồn,
ổn định, hiệu quả2. Chính vì vậy, việc tìm hiểu khái niệm trộm cắp điện có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng nhằm phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật về trộm cắp điện, giúp
công tác xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện nghiêm minh và đúng pháp luật.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “trộm cắp” là “lấy của người khác một cách lén
lút”3. Theo Từ điển Luật học thì “trộm cắp tài sản” là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản đang có người khác quản lý”4. Với tinh thần đó, tác giả Nguyễn Ngọc Điệp cũng
cho rằng “trộm cắp tài sản” là “hành vi lén lút, bí mật chuyển dịch một cách trái pháp
luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt được
thực hiện (hành động) một cách lén lút, bí mật. Việc lén lút, bí mật là nhằm để che giấu
hành vi để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó”5.
Các khái niệm này phản ánh được đặc trưng của “trộm cắp” là hành vi lén lút, bí
mật “chiếm đoạt tài sản người khác” nhằm che giấu hành vi để chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó.
Từ các khái niệm và đặc trưng trên, tác giả Nguyễn Ngọc Điệp cho rằng “trộm
cắp điện” được hiểu là hành vi lấy điện trái phép không qua công tơ, tác động nhằm

làm sai lệch chỉ số đo đếm của công tơ và các thiết bị điện khác có liên quan đến đo
1

Khoản 1 Điều 4 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2018).
Khoản 3 Điều 17 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2018).
3
Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2013), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh, tr. 1661.
4
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
tr. 815.
5
Nguyễn Ngọc Điệp (2009), 3450 thuật ngữ pháp lý phổ thông, Nxb. Giao thông vận tải, Tp. Hồ Chí Minh, tr.
170.
2


6

đếm điện. Nói cách khác, đó là việc cố ý hoặc thông đồng ghi sai chỉ số công tơ và các
hành vi lấy điện gian lận khác6.
Cách hiểu này cho thấy, trộm cắp điện là hành vi có tính chất và mức độ rất nguy
hiểm, có thể gây ra tổn thất rất lớn cho xã hội. Bên cạnh đó, để tạo căn cứ pháp lý vững
chắc, Luật Điện lực năm 2004 cũng đưa ra khái niệm trộm cắp điện. Theo đó, khoản 15
Điều 3 Luật Điện lực năm 2004 quy định: “trộm cắp điện” là “hành vi lấy điện trái
phép không qua công tơ, tác động nhằm làm sai lệch chỉ số đo đếm của công tơ và các
thiết bị điện khác có liên quan đến đo đếm điện, cố ý hoặc thông đồng ghi sai chỉ số
công tơ và các hành vi lấy điện gian lận khác”.
Trải qua hai lần sửa đổi vào năm 2012 và 2018 thì Luật Điện lực năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2012, 2018) vẫn giữ nguyên khái niệm trộm cắp điện. Các khái niệm

trên đã chỉ ra các đặc trưng của hành vi trộm cắp điện, trong đó mục đích của việc trộm
cắp điện là lấy điện trái phép. Từ đó, các khái niệm trên giúp phân biệt hành vi trộm cắp
điện với các vi phạm pháp luật khác. Khái niệm trộm cắp điện của Luật Điện lực năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2018) là cơ sở pháp lý nhằm xác định các vi phạm
pháp luật về trộm cắp điện, đồng thời giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất,
từ đó xử lý kịp thời, nhanh chóng, tránh bỏ sót các vi phạm pháp luật về trộm cắp điện.
Từ các phân tích trên, theo tác giả, khái niệm trộm cắp điện cần được hiểu như
sau: “trộm cắp điện là hành vi cố ý chiếm đoạt điện năng bất hợp pháp không qua công
tơ hoặc các thiết bị khác nhằm làm sai lệch chỉ số đo đếm của công tơ”.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính về trộm cắp điện
1.1.2.1. Khái niệm vi phạm hành chính về trộm cắp điện
Việc xác định vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính về trộm cắp
điện nói riêng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Qua việc
xác định này sẽ giúp phân biệt vi phạm hành chính với vi phạm hình sự, cũng như giúp
phân biệt vi phạm hành chính về trộm cắp điện và vi phạm hình sự về trộm cắp điện. Về
mặt lý luận, vi phạm hành chính và tội phạm trong cùng một lĩnh vực có nhiều nội dung
tương đồng về mặt bản chất, chỉ khác nhau về tính chất, mức độ, hậu quả gây ra trên
thực tế. Chính vì vậy, một hành vi trái pháp luật, tùy vào mức độ chỉ gánh chịu trách
nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự chứ khơng thể truy cứu đồng thời hai loại
trách nhiệm này. Đồng thời, việc đưa ra định nghĩa về vi phạm hành chính nói chung và
vi phạm hành chính về trộm cắp điện nói riêng sẽ tạo ra cách hiểu thống nhất, chính xác
về vi phạm hành chính và cũng là cơ sở để dự liệu đúng các loại vi phạm hành chính

6

Nguyễn Ngọc Điệp (2009), 3450 thuật ngữ pháp lý phổ thông, Nxb. Giao thơng vận tải, Tp. Hồ Chí Minh, tr.
616.


7


trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước7. Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra khái niệm vi
phạm hành chính về trộm cắp điện. Do đó, khái niệm vi phạm hành chính về trộm cắp
điện cần phải được nghiên cứu và tìm hiểu dưới góc độ pháp lý.
Dưới góc độ pháp lý, vi phạm là “làm trái những quy định của nhà nước gây
ảnh hưởng đến công việc chung, trật tự chung. Có vi phạm chỉ là lỗi hành chính, có vi
phạm là tội phạm hình sự”8. Khái niệm này chỉ mới đề cập vi phạm pháp luật, tuy nhiên
cũng chưa bao quát hết các vi phạm pháp luật (vi phạm hình sự, vi phạm hành chính, vi
phạm dân sự, vi phạm kỷ luật).
Theo Từ điển Luật học, vi phạm hành chính là “hành vi của tổ chức, cá nhân có
lỗi cố ý hoặc vơ ý khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”9. Tuy nhiên, khái niệm này không chỉ rõ chủ
thể thực hiện hành vi phải là chủ thể có “năng lực chịu trách nhiệm pháp lý”10.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Cửu Việt cũng đưa ra khái niệm vi phạm hành
chính. Theo đó, vi phạm hành chính là “hành vi (hành động hoặc khơng hành động)
trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành
chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật tự nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở
hữu của nhà nước, tổ chức và cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp
của con người, của công dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm
hành chính”11. Khái niệm này đã bao gồm các dấu hiệu cần thiết của vi phạm hành
chính.
Trước đây, Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 quy định:
“vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Khái niệm này tuy cho thấy được các
dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính là hành vi, tính trái pháp luật của hành
vi, tính có lỗi và bị xử phạt hành chính nhưng cơng thức “mà khơng phải là tội phạm
hình sự” rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền hiểu lầm để tự cho mình có quyền đánh
giá hành vi nào là vi phạm hành chính, do đó xem nhẹ việc tuân thủ những căn cứ của

7

Nguyễn Cảnh Hợp - Cao Vũ Minh (2011), “Hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính từ kinh nghiệm của
Liên Bang Nga”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18.
8
Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 468.
9
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 851.
10
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 557.
11
Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.
535, 536.


8

pháp luật12. Bên cạnh đó, cũng có quan điểm cho rằng, việc xác định khách thể của vi
phạm hành chính là các quy tắc quản lý nhà nước dễ gây ra sự nhầm lẫn với khách thể
của vi phạm kỷ luật nhưng không bao gồm được các quan hệ xã hội liên quan đến sở
hữu nhà nước, các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của cơng dân13.
Khi thay thế Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 1995 lại khơng đưa ra khái niệm vi phạm hành chính mà chỉ
định nghĩa về xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, xử lý vi phạm hành chính bao gồm
“xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”14. Tương tự như Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 1995, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi,

bổ sung năm 2007, 2008) cũng không định nghĩa vi phạm hành chính mà chỉ đưa ra
định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính. Theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) thì “xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng
đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà
nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật
phải bị xử phạt hành chính”15. Tuy Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008)
khơng đưa ra khái niệm vi phạm hành chính một cách trực tiếp nhưng khái niệm vi
phạm hành chính có thể được hiểu gián tiếp thông qua khái niệm xử phạt vi phạm hành
chính.
Trải qua q trình triển khai thi hành, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập cần được
nghiên cứu, khắc phục. Trước tình hình đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
đã được soạn thảo, ban hành và triển khai thi hành. Khắc phục hạn chế của các văn bản
pháp luật trước đây, khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã chính
thức đưa ra khái niệm vi phạm hành chính là “hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực
hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Định nghĩa này đã
bao gồm các dấu hiệu cần thiết của vi phạm hành chính, đủ căn cứ để phân biệt vi phạm
12

Nguyễn Cửu Việt (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.
496.
13
Ngô Tử Liễn (1994), “Cơ sở của trách nhiệm hành chính và vấn đề sửa đổi Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm
hành chính”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01.
14
Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
15
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).



9

hành chính với các vi phạm pháp luật khác như là hành vi, tính trái pháp luật, tính có
lỗi.
Đối với hành vi trộm cắp điện, trước đây Nghị định số 68/2010/NĐ-CP ngày
15/06/2010 và sau này là Nghị định số 134/2013/NĐ-CP ngày 17/10/2013 đã quy định
về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện16. Tuy nhiên, cả hai
nghị định trên đều không đưa ra khái niệm vi phạm hành chính về trộm cắp điện. Đến
nay, cũng chưa một văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm vi phạm hành chính về trộm
cắp điện. Điều này dễ dẫn đến những cách hiểu khác nhau khi bàn đến “vi phạm hành
chính về trộm cắp điện”, khó xác định vi phạm pháp luật nào là vi phạm hành chính về
trộm cắp điện, vi phạm pháp luật nào là vi phạm hình sự về trộm cắp điện.
Trên cơ sở các khái niệm vi phạm hành chính và khái niệm trộm cắp điện được
phân tích ở trên, theo tác giả, vi phạm hành chính về trộm cắp điện cần được hiểu như
sau: “vi phạm hành chính về trộm cắp điện là hành vi cố ý chiếm đoạt điện năng bất
hợp pháp không qua công tơ hoặc các thiết bị khác nhằm làm sai lệch chỉ số đo đếm
của công tơ mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
vi phạm hành chính”.
1.1.2.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính về trộm cắp điện
Vi phạm hành chính về trộm cắp điện có các đặc điểm riêng giúp phân biệt với
các vi phạm hành chính khác, cụ thể là:
Thứ nhất, vi phạm hành chính về trộm cắp điện ln thể hiện dưới hình thức lỗi
cố ý, thể hiện dưới dạng hành động.
Cấu thành của vi phạm hành chính gồm bốn yếu tố là mặt khách quan của vi
phạm hành chính, mặt chủ quan của vi phạm hành chính, chủ thể của vi phạm hành
chính, khách thể của vi phạm hành chính. Trong đó, mặt chủ quan của vi phạm hành
chính là “những dấu hiệu bên trong thể hiện thái độ, trạng thái tâm lý của người vi
phạm đối với hành vi trái pháp luật cũng như là đối với hậu quả do hành vi đó gây

ra”17. Mặt chủ quan của vi phạm hành chính gồm lỗi, động cơ vi phạm hành chính, mục
đích vi phạm hành chính.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì vi phạm hành
chính là “hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, lỗi là yếu tố bắt buộc trong vi phạm hành chính.
16

Khi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 134/2013/NĐCP để thay thế Nghị định số 68/2010/NĐ-CP.
17
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 564.


10

Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình và đối với hậu
quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức là cố ý hoặc vơ ý.
Lỗi là thuộc tính đặc trưng, dấu hiệu bắt buộc đối với việc xác định trách nhiệm hành
chính. Trên tinh thần đó, vi phạm hành chính về trộm cắp điện cũng phải là “hành vi có
lỗi”, cụ thể là vi phạm hành chính về trộm cắp điện ln thể hiện dưới hình thức lỗi cố
ý18.
Ví dụ: ngày 10/05/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Nam (tỉnh
Bình Thuận) ban hành Quyết định số 06/QĐ-XPVPHC xử phạt ơng N.Q.C về hành vi
trộm cắp điện vì ơng N.Q.C đã dùng hai sợi dây điện tiết diện 30/10 dài 15m câu móc từ
lưới điện hạ thế điện lực để sử dụng khơng qua cơng tơ19.
Qua phân tích trên có thể thấy, chủ thể thực hiện trộm cắp điện nhận thức được
hành vi của mình và nhận thức được hậu quả của hành vi trộm cắp điện gây ra cho xã
hội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà các chủ thể này đã cố ý, “bất chấp nguy
hiểm” để thực hiện hành vi vi phạm nhằm “chiếm đoạt tài sản”, cụ thể là chiếm đoạt
lượng điện năng nhất định.

Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật nên có đủ các dấu hiệu chung
của vi phạm pháp luật. Cụ thể, là hành vi (dưới dạng hành động hoặc khơng hành động),
tính trái pháp luật, tính có lỗi, tính nguy hiểm cho xã hội, do chủ thể có năng lực chịu
trách nhiệm pháp lý thực hiện, được pháp luật quy định trách nhiệm pháp lý cụ thể20. Vi
phạm hành chính về trộm cắp điện cũng là một vi phạm hành chính nên cũng phải có đủ
các dấu hiệu chung như trên. Tuy nhiên, vi phạm hành chính về trộm cắp điện có điểm
riêng là được thể hiện dưới dạng hành động.
Theo khoản 15 Điều 3 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012,
2018), trộm cắp điện là “hành vi lấy điện trái phép không qua công tơ, tác động nhằm
làm sai lệch chỉ số đo đếm của công tơ và các thiết bị điện khác có liên quan đến đo
đếm điện, cố ý hoặc thông đồng ghi sai chỉ số công tơ và các hành vi lấy điện gian lận
khác”. Các hành vi thuộc loại trộm cắp điện bao gồm: tự tiện nối dây lấy điện trên hệ
thống điện, dùng điện không qua công tơ, cố ý làm hỏng công tơ để dùng điện, dùng
phương thức thay đổi dây nối dẫn đến công tơ ghi không chuẩn hoặc không ghi để dùng
điện, tác động nhằm làm sai lệch chỉ số đo đếm của cơng tơ và các thiết bị điện khác có
liên quan đến đo đếm điện, áp dụng các phương thức, phương pháp khác để lấy cắp

18

Xem thêm Phụ lục 1.
Quyết định số 06/QĐ-XPVPHC ngày 10/05/2014 của Ủy ban nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình
Thuận.
20
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 557.
19


11

điện21. Như vậy, vi phạm hành chính về trộm cắp điện luôn được thể hiện dưới dạng

hành động.
Thứ hai, vi phạm hành chính về trộm cắp điện là hoạt động mang tính ẩn và tính
cơng nghệ cao.
Hành vi trộm cắp điện bao gồm: tự tiện nối dây lấy điện trên hệ thống điện, dùng
điện không qua công tơ, cố ý làm hỏng công tơ để dùng điện, dùng phương thức thay
đổi dây nối dẫn đến công tơ ghi không chuẩn hoặc không ghi để dùng điện, tác động
nhằm làm sai lệch chỉ số đo đếm của công tơ và các thiết bị điện khác có liên quan đến
đo đếm điện, áp dụng các phương thức, phương pháp khác để lấy cắp điện22… Đây là
các hoạt động thường mang tính cơng nghệ cao, áp dụng khoa học công nghệ cao để
điều khiển, can thiệp vào các thiết bị đo đếm điện23.
Khi phỏng vấn ông Hồng Tuấn Cường (Kiểm tra viên điện lực thuộc Điện lực
Thành phố Hồ Chí Minh) thì ơng cho biết: “trên thực tế, tình hình trộm cắp điện vẫn
diễn ra phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi như câu móc trực tiếp, trích cáp ngầm, đảo
cực tính nguồn và sử dụng nguội ngồi, làm nghiêng cơng tơ, phá hỏng công tơ, sử
dụng nam châm, khoan nắp điện kế và dùng vật nhọn xuyên qua lỗ khoan làm đĩa điện
kế khơng quay được hoặc phá chì niêm tại điện kế rồi gắn nam châm cho tác động đến
đồng hồ điện, khoan công tơ, thổi bột sắt vào để cản trở một phần tốc độ công tơ. Đối
với một số vụ trộm cắp điện quy mô lớn, đối tượng lại là những người có kiến thức về kỹ
thuật điện, nắm rõ các quy định xử phạt khi tiến hành trộm cắp điện. Chẳng hạn,
trường hợp trộm cắp điện bằng hình thức hàn đấu tắt mạch điện cơng tơ bằng một sợi
dây kim loại nhỏ, làm công tơ chạy chậm. Việc can thiệp vào cơng tơ khá tinh vi, địi
hỏi người thực hiện phải có kỹ năng, trình độ nhất định”24.
Bên cạnh đó, vi phạm hành chính về trộm cắp điện mang tính ẩn cao, khó phát
hiện, có những trường hợp khơng có “tai mắt” người dân sẽ khơng phát hiện được. Hình
thức tưởng chừng thơ sơ nhất của việc trộm cắp điện đó là câu móc, nhưng thực tế rất
nhiều vụ câu móc được ngụy trang một cách kín kẽ, câu móc cả vào đường dây vặn
xoắn, dùng vít khoan vào cáp muller. Nếu kiểm tra sơ sài sẽ khó phát hiện25. Hiện có rất
nhiều trường hợp trộm cắp điện được thực hiện qua máy tạo dòng bằng cách là người lấy
cắp điện làm đảo pha điện kế (dây nguội đi vào cuộn cường độ của điện kế, dây pha đi vào
điện kế và trực tiếp đi ra pha tải của thiết bị sử dụng điện). Người vi phạm sử dụng điện

21

truy cập ngày 04/07/2019.
truy cập ngày 04/07/2019.
23
Xem thêm Phụ lục 1, Phụ lục 2 và Tờ trình số 561/TTr-ĐTĐL về Dự thảo Thơng tư hướng dẫn xử lý đối với vụ
trộm cắp điện thuộc trường hợp chuyển hồ sơ để truy cứu trách nhiệm hình sự ngày 25/08/2014.
24
Xem thêm Phụ lục 2.
25
Xem thêm Phụ lục 1 và Phụ lục 2.
22


12

thường giấu kín máy tạo dịng trong gầm bếp ăn, tủ bếp, gầm cầu thang, thậm chí có máy
đặt cả trong tủ phịng ngủ nên rất khó phát hiện. Cũng có những trường hợp, họ sử dụng
máy tạo dịng kèm thêm thiết bị điều khiển từ xa nhằm xóa dấu vết khi có đồn đến kiểm
tra. Chun nghiệp hơn, có hộ cịn đấu nối đường dẫn máy tạo dịng thơng qua một thiết bị
viễn thông như điện thoại. Khi úp ống nghe thì máy tạo dịng hoạt động, cịn nhấc ống
nghe ra khỏi điện thoại thì khơng ai kiểm tra được vì máy tạo dịng sẽ tự động ngắt hoạt
động. Đối với những trường hợp này, công ty điện lực phải mất rất nhiều thời gian, công
sức để bắt quả tang hành vi vi phạm26.
Thứ ba, vi phạm hành chính về trộm cắp điện thường mang tính chất kéo dài.
Trộm cắp điện thường được thực hiện trong một khoảng thời gian dài. Trên thực
tế, các thủ đoạn trộm cắp điện thường thấy là tác động câu trực tiếp trước công tơ không
qua hệ thống đo đếm; can thiệp trực tiếp vào bên trong công tơ làm sai lệch hệ thống đo
đếm; dùng thiết bị bên ngoài: đảo sơ đồ đấu dây, dùng máy tạo dòng, dùng nam châm
cực mạnh để tác động gây ảnh hưởng không đo đủ sản lượng điện năng qua hệ thống đo

đếm27. Với các thủ đoạn tinh vi như vậy rất khó phát hiện, khó xử lý nếu “chỉ quan sát
bằng mắt thường”. Chính điều này đã dẫn đến trường hợp sau một thời gian rất dài mới
bị phát hiện hoặc không thể phát hiện hành vi vi phạm, từ đó làm cho hành vi trộm cắp
điện thường mang tính chất kéo dài. Hơn nữa, điện năng có vai trị rất quan trọng trong
đời sống và sản xuất nên nhu cầu sử dụng điện tăng lên, dẫn đến nhiều vụ trộm cắp điện
để đáp ứng nhu cầu và giảm chi phí trong việc sử dụng điện, tăng thu nhập từ lượng
điện trộm cắp. Đây cũng là một trong các nguyên nhân khiến cho vi phạm hành chính
về trộm cắp điện khơng giống so với các loại vi phạm hành chính khác, chẳng hạn trong
lĩnh vực giao thông. Đơn cử, hành vi chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc
khơng có tín hiệu báo trước; quay đầu xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua
đường, nơi có biển báo “Cấm quay đầu xe”; sử dụng điện thoại di động khi đang điều
khiển xe chạy trên đường là những vi phạm có thể diễn ra và chấm dứt ngay 28.
Thứ tư, vi phạm hành chính về trộm cắp điện thường gây hậu quả lớn.
Trộm cắp điện là hành vi rất nguy hiểm, xâm phạm đến hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực điện lực, gây mất an toàn lưới điện, đe dọa đến sự phát triển hệ
thống điện bền vững, đe dọa tính mạng con người, đe dọa an ninh - trật tự, ảnh hưởng
đến sự phát triển chung của xã hội… Như đã đề cập ở trên, điện năng có vai trị rất quan
trọng trong đời sống và sản xuất, đặc biệt là trong xã hội phát triển. Điện giúp cải thiện
26

truy cập ngày 05/07/2019.
truy cập ngày 05/07/2019.
28
Điều 5 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016.
27


13

cuộc sống, cải thiện môi trường làm việc, hiệu quả cơng việc, tiết kiệm sức lao động…

Chính vì lẽ đó, vi phạm hành chính về trộm cắp điện thường gây hậu quả lớn29. Trên
thực tế, các vụ vi phạm được phát hiện thường gây nhiều tổn thất, thiệt hại cho ngành
điện lực nói riêng và xã hội nói chung như làm thất thoát một số lượng lớn điện30, gây
ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn điện ở khu vực nguồn điện bị trộm cắp. Bởi
lẽ, khi lượng điện dùng quá mức cho phép sẽ khiến công suất điện bị quá tải, dẫn đến
chất lượng điện cung cấp yếu. Nguy hiểm hơn, trộm cắp điện cịn gây mất an tồn điện
lưới, chập điện, nổ đường dây bất cứ lúc nào, ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng, đời
sống của người dân31. “Liều mạng hơn”, có trường hợp câu móc trực tiếp trên lưới hạ
thế, điều này rất nguy hiểm vì khả năng dẫn đến tai nạn rất cao32.
Khi phỏng vấn bà Nguyễn Thị Bảo Trinh (Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 13,
Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh) thì bà cho biết: “hành vi trộm cắp điện gây ra hậu
quả rất lớn cho ngành điện và cho toàn xã hội. Trộm cắp điện gây thất thoát điện năng,
hư hỏng các thiết bị điện và tiềm ẩn nguy cơ chạm chập, gây cháy nổ. Từ đó, ngành
điện phải tốn thời gian, kinh phí để kiểm tra và khắc phục các thiết bị, cơng trình điện
bị hư hỏng”33.
1.1.3. Vi phạm hành chính về trộm cắp điện - một loại vi phạm hành chính trong
lĩnh vực điện lực
Điều 7 Luật Điện lực năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2018) quy định:
“trộm cắp điện là một trong các hành vi bị cấm trong hoạt động điện lực và sử dụng
điện”. Trên tinh thần đó, khoản 9 Điều 12 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định chế
tài đối với hành vi trộm cắp điện.
Trước đây, Điều 14 Nghị định số 68/2010/NĐ-CP quy định: “căn cứ vào mục
đích trộm cắp điện mà có mức phạt tiền khác nhau như sau: (1) đối với hành vi trộm
cắp điện dưới mọi hình thức để phục vụ mục đích sinh hoạt thì mức phạt tiền thấp nhất
là 1.000.000 đồng và mức phạt tiền cao nhất là 30.000.000 đồng, tương ứng với số
lượng điện bị trộm cắp là dưới 100 kWh và dưới 3000 kWh; (2) đối với hành vi trộm
cắp điện dưới mọi hình thức để phục vụ các mục đích khác (ngồi các mục đích nêu
trên) thì mức phạt tiền thấp nhất là 5.000.000 đồng và mức phạt tiền cao nhất là
40.000.000 đồng, tương ứng với số lượng điện bị trộm cắp là dưới 200 kWh và dưới
29


Xem thêm Phụ lục 1.
truy cập ngày 05/07/2019.
31
/>truy cập ngày 04/07/2019.
32
truy cập ngày 05/07/2019.
33
Xem thêm Phụ lục 2.
30


14

3000 kWh”34.
Ngồi hình thức xử phạt chính, cá nhân, tổ chức vi phạm cịn bị áp dụng hình
thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và cịn bị áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc bồi thường toàn bộ số tiền tổn thất 35. Nếu cá
nhân, tổ chức có hành vi trộm cắp điện không thuộc các trường hợp nêu trên thì người
có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 29 Nghị định số 68/2010/NĐCP). So với Nghị định số 74/2003/NĐ-CP ngày 26/06/2003 thì Nghị định số
68/2010/NĐ-CP36 đã thay thế biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khơi phục tình trạng
ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm” bằng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc bồi
thường toàn bộ số tiền tổn thất”. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là việc áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả “buộc khơi phục tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi
phạm” trong vi phạm hành chính về trộm cắp điện cho thấy không khả thi, không thể
nào khôi phục lại ngun vẹn tình trạng ban đầu 37. Chính vì vậy, Nghị định số
68/2010/NĐ-CP đã theo hướng khơng khơi phục lại được tình trạng ban đầu của tài sản
thì phải trả lại bằng tiền và biện pháp khắc phục hậu quả “buộc bồi thường toàn bộ số
tiền tổn thất là phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước”38.

Thế nhưng, trải qua quá trình triển khai thi hành thì các nghị định trên cũng đã
bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định vì trên thực tế việc xác định mục đích trộm cắp
điện trong từng trường hợp là điều khơng dễ dàng. Do đó, Nghị định số 134/2013/NĐCP đã khơng căn cứ vào mục đích trộm cắp điện như trước đây mà căn cứ vào số lượng
điện bị trộm cắp. Cụ thể, Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định: “phạt tiền đối với
hành vi trộm cắp điện dưới mọi hình thức như sau:
a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp điện
với số lượng dưới 1.000kWh;
b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 1.000kWh đến dưới 2.000kWh;
c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 2.000kWh đến dưới 4.500kWh;
d) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 4.500kWh đến dưới 6.000kWh;
34

Khoản 8, khoản 9 Điều 14 Nghị định số 68/2010/NĐ-CP.
Khoản 10, khoản 11 Điều 14 Nghị định số 68/2010/NĐ-CP.
36
Nghị định số 68/2010/NĐ-CP được ban hành nhằm thay thế Nghị định số 74/2003/NĐ-CP.
37
Báo cáo số 318/BC-BTP ngày 24/12/2006 của Bộ Tư pháp.
38
Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 - Tập 1,
Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 225.
35


15

đ) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp

điện với số lượng từ 6.000kWh đến dưới 8.500kWh;
e) Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 8.500kWh đến dưới 11.000kWh;
g) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 11.000kWh đến dưới 13.500kWh;
h) Phạt tiền từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 13.500kWh đến dưới 16.000kWh;
i) Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 16.000kWh đến dưới 18.000kWh;
k) Phạt tiền từ 45.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi trộm cắp
điện với số lượng từ 18.000kWh đến dưới 20.000kWh” 39.
Cũng theo Nghị định số 134/2013/NĐ-CP, đối với trường hợp trộm cắp điện từ
20.000 kWh trở lên được chuyển hồ sơ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngồi hình
thức xử phạt chính, cá nhân, tổ chức vi phạm cịn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, cịn bị áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả buộc bồi thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại40 nhằm bảo đảm mọi hậu quả do vi
phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, so với Nghị định số 68/2010/NĐ-CP thì Nghị định số 134/2013/NĐCP đã nâng mức phạt tiền đối với hành vi trộm cắp điện, đồng thời có sự điều chỉnh lại
mức phạt tiền tương ứng với số lượng điện bị trộm cắp. Cụ thể, mức phạt tiền thấp nhất
của Nghị định số 68/2010/NĐ-CP là 1.000.000 đồng, mức phạt tiền thấp nhất của Nghị
định số 134/2013/NĐ-CP là 2.000.000 đồng. Mức phạt tiền cao nhất của Nghị định số
68/2010/NĐ-CP là 40.000.000 đồng, còn mức phạt tiền cao nhất của Nghị định số
134/2013/NĐ-CP là 50.000.000 đồng. Điều này là hợp lý, bởi lẽ trước tình hình kinh tế
- xã hội phát triển thì việc nâng mức phạt tiền là phù hợp với sự trượt giá của đồng tiền,
phù hợp với mục đích giáo dục, răn đe, trừng trị mà pháp luật hướng đến.
Bên cạnh đó, ranh giới giữa xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm
cắp điện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp điện cũng có sự thay
đổi. Theo Nghị định số 68/2010/NĐ-CP thì số lượng điện bị trộm cắp dưới 3000 kWh
sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu số lượng điện bị trộm cắp từ 3000 kWh trở lên
sẽ chuyển hồ sơ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, theo Nghị định số

134/2013/NĐ-CP thì số lượng điện bị trộm cắp dưới 20.000 kWh sẽ bị xử phạt vi phạm
hành chính. Nếu số lượng điện bị trộm cắp từ 20.000 kWh trở lên sẽ chuyển hồ sơ để
39
40

Khoản 9 Điều 12 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.
Khoản 10, khoản 11, khoản 12 Điều 12 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.


16

truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp
điện
1.2.1.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện
Trước tình hình trộm cắp điện đang diễn ra phức tạp với thủ đoạn ngày càng tinh
vi thì việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện càng có ý nghĩa
sâu sắc trong việc đấu tranh phịng, chống vi phạm hành chính về trộm cắp điện, giảm
tổn thất cho xã hội do hành vi này gây ra. Vì lẽ đó, việc tìm hiểu khái niệm xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện là cần thiết, có ý nghĩa rất quan trọng,
giúp cho việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện đạt hiệu quả
tốt. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật hành chính chưa đưa ra khái niệm xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi trộm cắp điện, do đó khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi trộm cắp điện phải được tìm hiểu thơng qua khái niệm xử phạt vi phạm
hành chính.
Theo Từ điển Luật học thì “xử phạt vi phạm hành chính” là “hoạt động cưỡng
chế hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành
chính, biểu hiện ở việc áp dụng các chế tài hành chính do các chủ thể có thẩm quyền
thực hiện theo quy định của pháp luật”41. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ mới trình bày

các vấn đề khái quát, chưa thể hiện rõ đặc trưng của xử phạt vi phạm hành chính.
Theo giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì
“xử phạt vi phạm hành chính” là “hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ
vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành
chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết theo
quy định của pháp luật) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính”42. Tương tự
như vậy, theo khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì xử phạt vi
phạm hành chính là “việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”.
Khái niệm này thể hiện được đặc trưng, bản chất của xử phạt vi phạm hành
chính, bởi lẽ khái niệm này cho thấy yếu tố quan trọng nhất, không thể thiếu trong nội
hàm của khái niệm này là việc áp dụng các chế tài hành chính đối với chủ thể vi phạm
41

Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 875.
42
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.
349.


17

hành chính (gồm hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả) mà không bao
gồm việc áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế khác (chẳng hạn biện pháp phòng
ngừa hay ngăn chặn vi phạm). Các chế tài này thể hiện sự đánh giá cuối cùng của nhà
nước đối với hành vi và chủ thể vi phạm hành chính, là “hậu quả” của vi phạm và là sự
giải quyết thực chất vụ việc vi phạm43.
Trên cơ sở các quy định hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và

các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện, các biện pháp
khắc phục hậu quả đối với hành vi trộm cắp điện, tác giả đề xuất khái niệm xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện như sau: “xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi trộm cắp điện là việc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các hình thức
xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi trộm
cắp điện theo quy định của pháp luật”.
1.2.1.2. Đặc điểm xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện
Thứ nhất, nhiều chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi trộm cắp điện nhưng đa phần là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện.
Theo Điều 33 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp
(cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh) đều có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với
các vi phạm về sử dụng điện xảy ra tại địa phương. Tuy nhiên, đối với vi phạm hành
chính về trộm cắp điện thì chỉ có Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh mới
có thẩm quyền xử phạt44.
Theo Điều 34 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP, Thanh tra chuyên ngành về lĩnh
vực điện lực thuộc Bộ Công Thương có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực điện lực trong phạm vi cả nước. Thanh tra chuyên ngành về lĩnh
vực điện lực thuộc Sở Công Thương tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm
quyền xử phạt vi phạm đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực điện lực xảy ra trong
địa phương thuộc phạm vi quản lý. Trong Thanh tra, những người có thẩm quyền
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện bao gồm Chánh Thanh tra
Cơng Thương, Trưởng đồn thanh tra chun ngành cấp sở; Trưởng đoàn thanh
chuyên ngành của cơ quan quản lý nhà nước được giao thực hiện chức năng thanh

xử
Sở
tra
tra


chuyên ngành; Chánh Thanh tra Bộ Cơng Thương; Trưởng đồn thanh tra chun
ngành cấp bộ.
Như vậy, đối với vi phạm hành chính về trộm cắp điện thì có rất nhiều chủ thể có
thẩm quyền xử phạt, điều này đã tránh được tình trạng “dồn việc” vào một vài chủ thể,
43
44

Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 21.
Khoản 2, khoản 3 Điều 33 Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.


18

từ đó giúp cho việc phát hiện, ngăn chặn vi phạm hành chính về trộm cắp điện được kịp
thời, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, hiệu quả. Tuy
nhiên, thực tiễn vừa qua cho thấy, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm
cắp điện lại đa phần do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh tiến hành. Tình trạng này xuất phát từ lý do rằng, Ủy ban nhân dân cấp
huyện và cấp tỉnh là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quản lý chung nên
nắm rõ tình hình địa phương cũng như nơi cư trú, nơi có trụ sở của các cá nhân, tổ chức
vi phạm. Từ đó, sẽ thuận lợi hơn trong việc phát hiện, xử phạt vi phạm hành chính đối
với hành vi trộm cắp điện45, nhất là trong bối cảnh hành vi trộm cắp điện rất đa dạng,
phức tạp và là trường hợp vi phạm hành chính đặc biệt46.
Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện được các chủ
thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định tại Nghị định số 134/2013/NĐ-CP.
Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính do các văn bản luật và văn
bản dưới luật (chủ yếu là các nghị định của Chính phủ) quy định. Trong khi đó, điện lực
là một ngành đặc thù, có vai trị đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Chính vì thế, các vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực phải được quy định riêng
nhằm bảo đảm xử lý kịp thời, hạn chế những tổn thất, những thiệt hại to lớn mà các vi

phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực mang lại, bảo đảm sự phát triển hệ thống điện
bền vững, đáp ứng yêu cầu cung cấp điện an toàn, ổn định, hiệu quả. Xuất phát từ nhu
cầu đó, ngày 17/10/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực, an toàn đập thủy điện, sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Trong đó, hành vi trộm cắp điện cũng là một
trong những vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực nên cũng được điều chỉnh bởi
Nghị định số 134/2013/NĐ-CP. Cụ thể là, Nghị định số 134/2013/NĐ-CP quy định về
các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện và các biện
pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi trộm cắp điện. Khi ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện thì các chủ thể có thẩm quyền phải căn
cứ vào các quy định tại khoản 9, khoản 10, khoản 11, khoản 12 Điều 12 Nghị định số
134/2013/NĐ-CP. Điều này sẽ tránh được việc tùy tiện, lạm quyền của chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính, giúp áp dụng thống nhất pháp luật. Đồng thời, giúp
cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội nắm vững các quy định pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện để tránh việc vi phạm, cũng như bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
45

Xem thêm Phụ lục 1.
Cơng văn số 2797/BCT-ĐTĐL ngày 31/03/2016 về việc hướng dẫn một số vấn đề vướng mắc trong quá trình
phát hiện, xử lý hành vi trộm cắp điện.
46


19

Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ngồi việc áp
dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền thì cịn có thể áp dụng hình thức xử phạt bổ
sung là “tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” và áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả là “buộc bồi thường tồn bộ số tiền bị thiệt hại”.

Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được chia thành hình thức xử phạt
chính và hình thức xử phạt bổ sung. Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập.
Điều này có nghĩa là, đối với mỗi vi phạm hành chính thì có thể áp dụng một hình thức
xử phạt chính mà khơng nhất thiết phải áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung kèm
theo. Đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chỉ bị áp
dụng một hình thức xử phạt chính; có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt
bổ sung; hình thức xử phạt bổ sung khơng được áp dụng độc lập mà chỉ được áp dụng
kèm theo hình thức xử phạt chính. Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính cịn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Bản chất của biện pháp
khắc phục hậu quả có thể được hiểu là việc sử dụng các biện pháp theo quy định của
pháp luật nhằm hạn chế hoặc khôi phục lại tình trạng ban đầu do hành vi vi phạm của
mình gây ra.
Theo quy định tại Nghị định số 134/2013/NĐ-CP thì hành vi trộm cắp điện chỉ bị
áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền. Cũng theo khoản 9 Điều 12 Nghị định
này, mức phạt tiền thấp nhất của hành vi trộm cắp điện là 2.000.000 đồng, mức phạt
tiền cao nhất của hành vi trộm cắp điện là 50.000.000 đồng. Việc áp dụng hình thức xử
phạt chính là phạt tiền nhằm răn đe, trừng phạt, buộc người vi phạm phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi về vật chất, từ đó giúp hạn chế, loại trừ các hành vi trộm cắp
điện.
Ngồi việc bị áp dụng hình thức phạt chính là phạt tiền thì các cá nhân, tổ chức
vi phạm cịn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính và có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc bồi
thường toàn bộ số tiền bị thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất do việc trộm cắp điện
gây ra.
1.2.2. Mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện
* Mục đích răn đe, giáo dục
Trước tiên, mục đích của việc xử phạt vi phạm hành chính là nhằm răn đe, giáo
dục. Do đó, mục đích xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện cũng
không phải là một ngoại lệ. Nhằm bảo đảm công khai, minh bạch, bảo đảm phát triển hệ
thống điện bền vững, đáp ứng yêu cầu cung cấp điện an toàn, ổn định, hiệu quả thì nhà

nước đã ban hành các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
điện lực nói chung, cũng như các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối


20

với hành vi trộm cắp điện nói riêng. Hành vi trộm cắp điện mang tính nguy hiểm, tiềm
ẩn nhiều rủi ro đối với ngành điện lực nói riêng và đối với tồn xã hội nói chung. Chính
vì vậy, hành vi trộm cắp điện phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý
nghiêm minh. Trên cơ sở đó, các cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi trộm cắp điện sẽ bị
áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền, ngồi ra cịn có thể bị áp dụng hình thức
xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và có thể bị áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc bồi thường tồn bộ số tiền bị thiệt hại.
Thơng qua đó, các cá nhân, tổ chức này sẽ nhận ra lỗi lầm, sự sai trái do hành vi của
mình gây ra, đồng thời giúp cho họ và các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội hiểu biết
pháp luật, tuân thủ pháp luật, tránh đi vào “vết xe đổ”. Nói cách khác, việc xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện có tính răn đe, có ý nghĩa giáo dục đối
với các cá nhân, tổ chức trong xã hội, bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, từ đó giúp
cho xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững.
* Mục đích trừng trị
Một trong các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là mọi vi phạm hành chính
phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do
vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật 47.
Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện ngồi mục đích răn đe,
giáo dục thì cịn có mục đích trừng trị. Mục đích trừng trị thể hiện rằng các cá nhân, tổ
chức vi phạm phải bị xử lý nghiêm minh, thích đáng với những gì mà họ đã gây ra cho
xã hội. Mục đích trừng trị ở một khía cạnh nào đó có mối liên hệ với mục đích răn đe,
giáo dục. Bởi lẽ, thông qua việc trừng trị các cá nhân, tổ chức vi phạm cũng là một cách
để răn đe, giáo dục các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội, giúp họ nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật và hiểu biết pháp luật. Để đạt được mục đích trừng phạt, pháp luật quy

định việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp điện phải căn cứ vào
tính chất và mức độ của hành vi vi phạm để đưa ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đúng đắn, thuyết phục. Điều này cũng nhằm bảo đảm các cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm đều bị xử lý bình đẳng, bảo đảm cơng bằng, đúng quy định của pháp
luật.
* Mục đích khơi phục lại trật tự pháp luật
Theo Từ điển Luật học, “trật tự pháp luật” là “trạng thái được chỉnh đốn của các
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, nhờ đó mà nét đặc trưng là các quyền cơ bản
của con người được bảo đảm thực hiện”48. Trật tự pháp luật còn có thể được hiểu là
47

Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, tr. 809.
48


×