ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MƠN HỌC: BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
ĐỀ TÀI: NHỮNG QUAN NIỆM NGỘ NHẬN
VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
GVHD: TS. ĐỖ THỊ NGA
HV
: CHU THỊ BIÊN
MSSV :19876010108
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng tiểu luận môn Bình đẳng giới và bạo lực gia đình với đề tài:
“Những quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân
tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ. Đỗ Thị Nga.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong bài tiểu luận là trung thực,
được trích nguồn và trích dẫn đầy đủ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Chu Thị Biên
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập bộ mơn Bình đẳng giới và bạo lực gia đình, em cũng
như các bạn trong lớp đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của cơ để có thể hồn
thành mơn học này. Em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cô – người đã chia sẻ, truyền
đạt cho chúng em những kiến thức sâu rộng, bổ ích về bộ mơn Bình đẳng giới và bạo lực
gia đình. Thơng qua mơn học, chúng em được tìm hiểu, thảo luận về vấn đề giới, bình đẳng
giới và bạo lực gia đình, đây là những vấn đề mà xã hội đang quan tâm hiện nay. Trong
cuộc sống hàng ngày hay trong quá trình làm việc với thân chủ là nạn nhân của bạo lực
gia đình, những kiến thức cơ dạy và chia sẻ giúp chúng em có thể nhìn nhận, tìm hiểu cũng
như phân tích thực trạng, ngun nhân của vấn đề để từ đó có thể đưa ra giải pháp giúp
họ giải quyết khó khăn của mình, hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tuy đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu song bài tiểu luận của em vẫn còn nhiều thiếu
sót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp của cơ để bài làm của em được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ………………………………………………………………….i
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………….…..ii
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN………………………………..iii
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Nội dung ............................................................................................................ 2
2.1. Các khái niệm liên quan ................................................................................ 2
2.1.1. Các khái niệm cơ bản .............................................................................. 2
2.1.1.1. Khái niệm “quan niệm” .................................................................... 2
2.1.1.2. Khái niệm “ngộ nhận” ...................................................................... 2
2.1.1.3. Khái niệm “gia đình” ........................................................................ 2
2.1.1.4. Khái niệm “bạo lực giới” .................................................................. 2
2.1.1.5. Khái niệm “bạo lực gia đình” ........................................................... 4
2.1.2. Khái niệm công cụ ................................................................................... 7
2.2. Thực trạng bạo lực gia đình hiện nay........................................................... 7
2.2.1. Trên thế giới ............................................................................................. 7
2.2.2. Tại Việt Nam .......................................................................................... 10
2.3. Những quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình ....................................... 14
2.3.1. Những quan niệm ngộ nhận của xã hội ................................................ 14
2.3.1.1. Bạo lực trong gia đình rất ít khi xảy ra ........................................... 14
2.3.1.2. Bạo lực chỉ là đánh đập đơn thuần ................................................. 15
2.3.1.3. Bạo lực trong gia đình là vấn đề riêng tư của các cặp vợ chồng .... 16
2.3.1.4. Bạo lực trong gia đình thường do rượu gây ra ............................... 17
2.3.2. Những quan niệm ngộ nhận của chồng khi bạo hành vợ ..................... 19
2.3.2.1. Vợ là sở hữu của chồng và anh ta có thể làm bất cứ điều gì đối với
vợ .................................................................................................................. 19
2.3.2.2. Quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình xuất phát từ vị thế của
người gây ra bạo lực .................................................................................... 20
2.3.2.3. Phụ nữ bị bạo lực là lỗi của họ ....................................................... 21
2.3.3. Những quan niệm ngộ nhận của phụ nữ về bạo lực gia đình............... 22
2.3.3.1. Quan niệm “xấu chàng hổ ai”, “vạch áo cho người xem lưng” .... 22
2.3.3.2. Quan niệm về đức hy sinh ............................................................... 23
2.3.3.3. Quan niệm sống vì con .................................................................... 24
2.3.4. Những quan niệm ngộ nhận của cha mẹ khi bạo hành trẻ em ............. 25
2.3.4.1. Quan niệm “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” ......... 25
2.3.4.2. Quan niệm “dạy con từ thuở còn thơ” ............................................ 26
2.3.4.3. Quan niệm “Con nhà người ta” ...................................................... 27
2.3.5. Những quan niệm ngộ nhận của cha mẹ khi bạo hành con là người
LGBT ............................................................................................................... 29
2.4. Giải pháp phịng, chống bạo lực gia đình ................................................... 31
2.4.1. Đẩy mạnh truyền thơng giáo dục trong phịng chống bạo lực gia đình 31
2.4.1.1. Nâng cao nhận thức cho người dân ................................................ 31
2.4.1.2. Giáo dục tư tưởng............................................................................ 31
2.4.1.3. Tổ chức, cổ vũ hành động vì quyền phụ nữ .................................... 31
2.4.1.4. Phê phán, đấu tranh chống bạo lực trong gia đình ........................ 32
2.4.2. Xây dựng kế hoạch truyền thơng phịng, chống bạo lực gia đình ......... 32
2.4.2.1. Kế hoạch truyền thơng phịng, chống bạo lực gia đình .................. 32
2.4.2.2. Huy động nguồn lực trong việc thực hiện kế hoạch truyền thông tại
địa phương ................................................................................................... 33
2.4.2.2.1. Tổ chức các sự kiện xã hội, tạo động lực trong việc huy động tiềm
năng cộng đồng để truyền thông giáo dục ..................................................... 33
2.4.2.2.2. Lồng ghép nội dung truyền thông giáo dục vào các quy ước, hương
ước làng xã ................................................................................................... 33
2.4.2.2.3. Đẩy mạnh huy động nguồn lực hợp tác quốc tế ............................. 34
2.4.3. Tăng cường sự tham gia của nam giới trong phịng chống bạo lực gia
đình .................................................................................................................. 34
2.4.3.1. Vì sao phải thu hút sự tham gia của nam giới trong phòng, chống
bạo lực gia đình............................................................................................ 34
2.4.3.2. Các phương pháp nhằm tăng cường sự tham gia của nam giới trong
phòng, chống bạo lực gia đình..................................................................... 35
2.4.3.2.1. Các chương trình ngăn ngừa bạo lực dành cho trẻ em và thanh
thiếu niên tại trường học ............................................................................... 35
2.4.3.2.2. Các chương trình can thiệp dành cho nhóm nam thanh niên trong
cộng đồng ..................................................................................................... 36
2.4.3.2.3. Chương trình can thiệp dành cho nhóm nam giới gây ra bạo lực .. 36
2.4.4. Hướng dẫn người phụ nữ những kỹ năng phịng, chống bạo lực gia
đình..........................................................................................................................37
3. Kết luận ........................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 39
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn và nhân
cách của mỗi người, là nơi con người tìm thấy sự bình n và an tồn khi ở đó. Tuy
nhiên trong thực tế đối với khơng ít người thì gia đình lại là “địa ngục”, là nỗi đau
bởi các cuộc bạo lực đang diễn ra. Bạo lực trong gia đình khơng những làm tổn hại
đến sức khỏe, thể xác cho nạn nhân mà còn làm tổn thương về mặt tinh thần, ảnh
hưởng đến cuộc sống của tất cả những người xung quanh, đồng thời gây ra nhiều
hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và xã hội.
Bạo lực gia đình là một hiện tượng phổ biến mang tính tồn cầu, vượt qua ranh
giới về khu vực, văn hóa, thu nhập, mức sống, tuổi tác, địa vị xã hội… nó diễn ra ở
cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bạo lực gia đình xảy ra dưới
nhiều hình thức khác nhau như: Bạo lực thể chất (hành hạ, đánh đập, hoặc hành vi
cố ý xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác, cưỡng ép thành viên gia đình
lao động quá sớm,…). Bạo lực tinh thần (lăng mạ, chửi mắng các thành viên trong
gia đình; cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hơn nhân tự nguyện, tiến
bộ; có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở). Bạo lực tình
dục (cưỡng ép quan hệ tình dục). Bạo lực kinh tế (chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá
hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia
đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; cưỡng ép thành viên đóng góp
tài chính q khả năng của họ; kiểm sốt thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo
ra tình trạng phụ thuộc về tài chính). Dù có tồn tại dưới hình thức nào thì bạo lực gia
đình đều để lại những hậu quả hết sức nặng nề, đã, đang và sẽ là nỗi đau, nỗi lo ngại
của khơng ít gia đình, của mỗi quốc gia, của cộng đồng quốc tế. Hiện nay bạo lực
gia đình ngày càng gia tăng với mức độ phức tạp, dưới nhiều hình thức khác nhau,
với nhiều đối tượng trong đó điển hình phải kể đến tình trạng bạo lực đối với phụ
nữ. Bạo lực gia đình đã kéo theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống đạo
đức, đây cũng là một thực tế đáng lo ngại cần có sự quan tâm sâu sắc của toàn xã
hội. Vậy nguyên nhân do đâu dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình ngày càng gia tăng?
Đó là do những ngộ nhận, quan điểm sai lầm của chính người gây ra bạo lực và
1
người bị bạo lực. Trước thực trạng nêu trên, người viết chọn đề tài: “Những quan
niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình” với mong muốn tìm hiểu nguyên nhân, căn
nguyên gốc rễ của thực trạng bạo lực gia đình hiện nay. Vì chỉ khi biết được nguyên
nhân thì chúng ta mới có thể đề xuất chính sách cũng như giải pháp nhằm làm giảm
thiểu bạo lực gia đình.
2. Nội dung
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm “quan niệm”
Theo từ điển mở Wiktionary, quan niệm là cách hiểu riêng của mình về một sự
vật, một vấn đề.
2.1.1.2. Khái niệm “ngộ nhận”
Theo từ điển Tiếng Việt, ngộ nhận là hiểu sai, nhận thức sai.
2.1.1.3. Khái niệm “gia đình”
Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 định nghĩa “Gia đình là tập
hợp những người gắn bó với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan
hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo qui
định của Luật này”. (Theo Chương I, Điều 8, Khoản 10 - Những quy định chung)
2.1.1.4. Khái niệm “bạo lực giới”
Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ Bạo lực đối với Phụ nữ do Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 đã định nghĩa Bạo lực trên cơ sở Giới
như sau:
“Bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả
năng dẫn đến, những tổn hại về thân thể, tình dục, tâm lý hay những đau khổ của
phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước
đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra nơi cơng cộng hay trong cuộc sống
riêng tư” (United Nations, 1995).
Trong cuộc đời mình, phụ nữ và trẻ em gái có thể trải qua nhiều hình thức bạo
lực giới khác nhau từ trước khi sinh ra và trong giai đoạn sơ sinh. Ví dụ như việc
2
nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính hoặc tục giết trẻ sơ sinh gái trong thời
thơ ấu hoặc thời kỳ vị thành niên và những năm tháng của độ tuổi sinh sản, cũng
như khi về già. Lori Heise đã nghiên cứu các dữ liệu về các loại bạo lực khác nhau
đối với phụ nữ và đưa ra tổng quan về bạo lực xảy ra trong cuộc đời của người phụ
nữ (1).
Bạo lực đối với phụ nữ theo lứa tuổi
Giai đoạn
Loại bạo lực hiện có
Nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính (Trung Quốc, Ấn
Độ, Hàn Quốc); đánh đập trong quá trình mang thai với các ảnh
Trước khi sinh
hưởng về tình cảm và thể chất đối với phụ nữ, ảnh hưởng lên
kết quả sinh đẻ; mang thai ép buộc (ví dụ hiếp dâm hàng loạt
trong chiến tranh)...
Tục giết trẻ sơ sinh gái, lạm dụng tình cảm và thể chất; sự
Sơ sinh
phân biệt trong chế độ dinh dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ sơ
sinh gái...
Tảo hơn; cắt bỏ bộ phận kích dục; lạm dụng tình cảm bởi các
Thời thơ ấu
thành viên gia đình và người lạ; sự phân biệt trong chế độ dinh
dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ em gái; mại dâm trẻ em...
Bạo lực trong q trình hị hẹn và tán tỉnh (tạt a-xít, hiếp dâm
trong thời gian hị hẹn ở Mỹ; tình dục ép buộc vì lý do kinh tế
Thời thiếu niên
ở Châu Phi: Phải kết giao với “lão già bao gái” (sugar dadies)
để có tiền chi trả học phí); lạm dụng tình dục ở nơi làm việc;
hiếp dâm; quấy rối tình dục; mại dâm ép buộc; bn bán phụ
nữ...
Ngược đãi phụ nữ bởi chồng hay bạn tình là nam giới; hiếp
Tuổi sinh sản
dâm trong hôn nhân; lạm dụng và giết người vì của hồi mơn;
giết bạn tình; lạm dụng về tâm lý; lạm dụng tình dục tại nơi làm
việc; quấy rối tình dục; hiếp dâm; lạm dụng phụ nữ tàn tật...
3
Lạm dụng phụ nữ góa; lạm dụng người già (ở Mỹ - quốc gia
Tuổi già
duy nhất có các dữ liệu này, chủ yếu việc lạm dụng người già
phần lớn xảy ra với phụ nữ cao tuổi)...
2.1.1.5. Khái niệm “bạo lực gia đình”
Có nhiều khái niệm khác nhau về bạo lực gia đình, trong bài tiểu luận này,
người viết xin đưa ra 2 khái niệm về “bạo lực gia đình” dưới quan điểm Quốc tế và
Việt Nam:
• The John.Macionis, 2004, bạo lực gia đình là ngược đãi bằng tình cảm, thể
xác hay tình dục của thành viên gia đình bằng một thành viên khác.
• Theo Luật Phịng, chống bạo lực gia đình Việt Nam, 2007, bạo lực gia đình
là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về
thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Phân loại: chúng ta phân loại theo lát cắt dọc và ngang để khái quát được tất
cả các loại bạo lực gia đình:
+) Bạo lực theo chiều dọc: Bạo lực thế hệ giữa cha mẹ với con cái, anh chị
em trong gia đình, ơng bà với cháu,… Bạo lực theo chiều dọc/bạo lực thế hệ khá đa
dạng, không phân biệt giới tính và chiều hướng. Bạo lực thế hệ khơng chỉ là bạo lực
giữa cha mẹ với con cái, ông bà với cháu, anh/chị với em,… mà cịn có thể theo
hướng ngược lại. Bạo lực giữa con cái với cha mẹ, cháu với ơng bà,… cũng thuộc
nhóm này. Ví dụ: Trong khoảng thời gian vừa qua, dư luận xôn xao vụ cháu gái 3
tuổi (tên Nguyễn Ngọc Minh Minh, sinh năm 2017) bị chính mẹ đẻ (Nguyễn Thị
Lan Anh, sinh năm 1991) và cha dượng (Nguyễn Minh Tuấn, sinh năm 1989) phạt
quỳ trong chậu nhựa, bỏ đói, tát nhiều lần vào đầu, lấy cán chổi bằng kim loại vụt,
dùng kim khâu chọc vào người cháu bé. Từ 8 giờ ngày 29/3/2020 đến 2 giờ sáng
ngày 30/3/2020, Tuấn đánh đập bé Minh Minh tổng cộng 6 lần dẫn đến cháu Minh
bị khó thở, buồn nơn, sốt cao, tay lạnh, ngất lịm và cháu bé chết trước khi được đưa
đến bệnh viện.
4
(Hình ảnh Nguyễn Minh Tuấn và Nguyễn Thị Lan Anh tại tòa)
Thật đáng buồn, bên cạnh việc cha mẹ bạo hành con cái thì cũng có những câu
chuyện con cái bạo hành cha mẹ của mình. Mới đây, trên mạng xã hội lan truyền đoạn
clip ghi lại cảnh hai mẹ con trói chân tay người cha rồi đánh đập, chửi bới. Sự việc xảy
ra ở nhà ông T. (47 tuổi, thôn Đồi Ngai, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, Hà
Nội). Tối ngày 26/8/2020, vợ ông T. đi làm về, thấy chồng trong tình trạng say xỉn, chửi
đổng nên đã u cầu ơng ra ngồi hiên. Ơng T. liền quay sang chửi bới vợ. Do quá bức
xúc trước cảnh xấu xí của người cha, L.Đ.P (con trai ơng T, 16 tuổi, học lớp 11) đã
dùng dây thừng trói bố ở giữa sân dùng tay, dép đánh liên tiếp vào đầu và mặt bố.
Người vợ cũng chưa hết bức xúc, liên tục chửi bới bên cạnh.
5
Mặc dù dư luận có nhiều ý kiến trái chiều về hành động của con trai ông T,
thế nhưng vụ việc trên đã để lại trong lòng người viết một nỗi buồn và xót xa trước
cảnh con đánh cha.
+) Bạo lực theo chiều ngang: Bạo lực giới (giữa vợ và chồng, sự phân biệt
con trai – con gái,…). Như đã trình bày ở trên, bạo lực giới có thể xảy ra ở cả hai
giới nhưng thường phổ biến ở nữ giới với tư cách nạn nhân. Tại nhiều xã hội, trong
cuộc đời mình, phụ nữ và trẻ em gái có thể trải qua nhiều hình thức bạo lực giới khác
nhau. Bạo lực giới hiện nay thường được nhìn nhận phổ biến thông qua bạo lực giữa
chồng – vợ (về thể chất, tâm lý, tình dục, lao động). Ví dụ: Chị L bị chồng là võ sư
Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1987, trú tại phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà
Nội) đánh đập dã man khi đang bế con 2 tháng tuổi trên tay vào ngày 26/8/2019 đã
gây xôn xao cộng đồng mạng.
(“Võ sư” hành hung vợ gây bức xúc trong dư luận - Ảnh cắt từ clip)
→ Như vậy, thông qua việc phân loại bạo lực gia đình và qua 2 ví dụ điển hình nêu
trên, chúng ta có thể thấy đặc trưng của một hành vi bạo lực gia đình gồm 4 yếu tố
sau:
6
2.1.2. Khái niệm công cụ
Dựa vào những khái niệm cơ bản nêu trên, người viết đưa ra khái niệm công cụ
được sử dụng trong đề tài tiểu luận này như sau:
Những quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình là: cách hiểu, nhận thức chưa
đúng về Luật hôn nhân, gia đình; Luật phịng, chống bạo lực gia đình và Luật trẻ
em,… của người gây ra bạo lực và người bị bạo lực gia đình.
2.2. Thực trạng bạo lực gia đình hiện nay
2.2.1. Trên thế giới
Theo Báo cáo của văn phịng Liên hợp quốc năm 2017 cho biết, có hơn một
nửa trong số phụ nữ trên thế giới là nạn nhân của tội giết người là do người bạn đời
hoặc người thân trong gia đình sát hại. Sau khi phân tích những dữ liệu có được, báo
cáo nêu rõ, cứ năm vụ giết người thì có khoảng một vụ do người bạn đời hoặc thành
viên trong gia đình thực hiện. Trong số gần 87.000 phụ nữ là nạn nhân của tội phạm
giết người trong năm 2017 trên toàn thế giới, khoảng 34% bị sát hại bởi người bạn
đời và 24% bởi người thân. Tỷ lệ phụ nữ bị sát hại bởi người bạn đời hoặc người
7
thân cao nhất là ở các nước châu Phi, tiếp theo là châu Mỹ và tỷ lệ thấp nhất là ở
châu Âu.
(Ảnh minh họa)
Hiện nay, Khi đại dịch Covid-19 buộc các quốc gia phải thực hiện các biện pháp
mạnh để hạn chế sự di chuyển của công dân, nạn bạo lực gia đình đã bất ngờ tăng nhanh.
(Ảnh minh họa)
Khi các biện pháp cách ly xã hội trên khắp châu Âu trở nên nghiêm ngặt hơn,
các tổ chức từ thiện và cảnh sát đang gióng lên hồi chng cảnh báo về sự gia tăng
8
bạo lực gia đình. Bị giam cầm tại nhà với kẻ ngược đãi khiến nạn nhân dễ bị tổn
thương hơn, vì khơng có lối thốt.
(Ảnh minh họa)
Phát biểu trên đài truyền hình France2 hơm 26/3/2020, bộ trưởng Nội Vụ Pháp,
Christophe Castaner cho biết kể từ khi Chính phủ ban hành lệnh phong tỏa do Covid19, trong một tuần lễ, số lần cảnh sát phải can thiệp về bạo lực gia đình tăng 32%.
Tỷ lệ này là 36 % tại khu vực thủ đơ Paris.
Vấn đề bạo lực gia đình khơng chỉ giới hạn ở Châu Âu. Tại Úc, Chính phủ cho
biết Google đã đăng ký nhiều tìm kiếm nhất về trợ giúp bạo lực gia đình trong 5 năm
qua và trong đợt bùng phát đại dịch Covid - 19 với mức tăng là 75%. Chính phủ đã
giới thiệu gói 150 triệu đô la Úc (92 triệu đô la) để hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực
gia đình do ảnh hưởng từ Covid - 19.
Trong những năm gần đây, sự nhận biết về tình trạng bạo lực với phụ nữ được
nhiều nước trên thế giới quan tâm, nhất là ở khu vực Mỹ latinh. Năm 2017, Chính
phủ Mexico đã yêu cầu loại bỏ triệt để “văn hóa cao ngạo của đàn ông” tồn tại lâu
nay ở nước này. Trong khi đó, Brazil đã sử dụng phương tiện thơng tin đại chúng xã
hội để kêu gọi mọi người can thiệp ngăn chặn bạo lực gia đình. Tháng 9 năm 2017,
Liên minh châu Âu (EU) và Liên hợp quốc đã phát động một chương trình với nhiều
9
đạo luật chống giết hại phụ nữ ở Mỹ latinh. Chương trình này đã thành cơng trong
việc nâng cao nhận thức của người dân về tình trạng bạo lực gia đình. Và gần đây
nhất, ngày 5/4/2020, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Manuel de Oliveira
Guterres đã viết trên Twitter kêu gọi các quốc gia cần có hành động khẩn cấp để
chống lại sự gia tăng bạo lực gia đình. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy bạo lực gia
đình đã trở thành vấn đề tồn cầu.
2.2.2. Tại Việt Nam
Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 cho
thấy:
•
Cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (62,9%) phải chịu ít nhất một hoặc nhiều
hình thức bạo lực do chồng gây ra trong đời.
•
Trừ bạo lực tình dục, tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ do chồng gây ra năm 2019
thấp hơn so với năm 2010. Ví dụ, phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác trong đời năm
2019 (26,1%) ít hơn so với năm 2010 (31,5%). Điều này rõ ràng hơn với nhóm phụ
nữ trẻ.
•
Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ bị chồng bạo lực tình dục trong đời năm 2019
(13,3%) cao hơn so với năm 2010 (9,9%). Điều này đặc biệt đúng ở nhóm phụ nữ
trẻ trong độ tuổi từ 18 - 24 (13,9% năm 2019 so với 5,3% năm 2010). Mặc dù điều
này phản ánh sự gia tăng của tình trạng bạo lực nhưng cũng có thể là kết quả của sự
thay đổi xã hội mà ở đó phụ nữ cởi mở hơn khi nói về chủ đề tình dục và bạo lực
tình dục.
•
Phụ nữ khuyết tật bị các hình thức bạo lực do chồng gây ra cao hơn so với
phụ nữ khơng bị khuyết tật.
•
4,4% phụ nữ cho biết họ đã bị lạm dụng tình dục trước 15 tuổi.
•
Ở Việt Nam, phụ nữ bị chồng bạo lực nhiều hơn so với việc bị người khác
bạo lực. Cứ 10 phụ nữ thì có 1 người (11,4%) trải qua bạo lực thể xác từ khi 15 tuổi
do người khác gây ra. Khi phụ nữ bị bạo lực thể xác do người khác không phải là
chồng gây ra, người gây bạo lực chủ yếu là thành viên nam trong gia đình (60,6%).
•
Cứ 10 phụ nữ thì có 1 phụ nữ (9%) bị bạo lực tình dục do người khác gây ra
từ năm 15 tuổi. Phần lớn kẻ gây ra bạo lực là nam giới không phải thành viên trong
10
gia đình (ví dụ: nam giới là người khơng quen biết, bạn bè hoặc người quen; người
mới quen gần đây; hoặc người làm cùng cơ quan).
•
Bạo lực đối với phụ nữ vẫn bị che giấu. Một nửa phụ nữ bị chồng bạo lực
chưa bao giờ kể với bất kỳ ai. Hầu hết phụ nữ (90,4%) bị bạo lực thể xác và/hoặc
tình dục do chồng gây ra khơng tìm kiếm bất kỳ sự hỗ trợ nào từ các cơ quan chính
quyền.
•
Trẻ em cũng là nạn nhân khi sống trong môi trường bạo lực. Trong số phụ nữ
bị chồng bạo lực thể xác, 61,4% cho biết con cái họ đã từng chứng kiến hoặc nghe
thấy bạo lực. Phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục nói rằng con cái họ
(5 - 12 tuổi) thường có các vấn đề về hành vi.
•
Bạo lực đối với phụ nữ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho phát triển kinh
tế và sức khỏe thể chất, tinh thần phụ nữ. Ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gây
ra cho nền kinh tế Việt Nam tương đương với 1,8% GDP.
•
Bạo lực là hành vi có tính tiếp thu. Hành vi này có thể được ngăn chặn và
chúng ta cần hành động ngay. Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực do chồng gây ra thì
nhiều khả năng mẹ của người chồng đã từng bị đánh hoặc bản thân người chồng đã
bị đánh đập khi cịn nhỏ.
Chúng ta có thể tóm tắt những chỉ số chính của hai cuộc Điều tra quốc gia về bạo
lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2010 và 2019 thông qua bảng sau:
11
Ghi chú: * Chỉ số không đo lường được năm 2010
→ Từ những bảng số liệu tóm tắt về 2 cuộc Điều tra quốc gia về bạo lực đối
với phụ nữ ở Việt Nam năm 2010 và 2019, chúng ta có thể nhận thấy bạo lực gia
đình có xu hướng gia tăng trong 10 năm qua. Tuy nhiên số lượng phụ nữ tìm đến sự
trợ giúp của cơng an và lãnh đạo địa phương và sự giúp đỡ từ bệnh viện hoặc nhân
viên y tế có xu hướng giảm. Điều đó nói lên sự khó khăn trong cơng tác hỗ trợ người
phụ nữ giải quyết vấn đề bạo lực gia đình.
Đặc biệt trong khoảng 4 tháng đầu năm 2020, khi Nhà nước ta thực hiện lệnh
giãn cách xã hội thì tỷ lệ bạo lực gia đình tăng, thực tế này giống với các nước trên
thế giới. Trong thời gian giãn cách xã hội, số lượng các cuộc gọi đến Ngôi nhà bình
yên (thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) tăng hàng ngày, hầu như ngày nào cũng
có cuộc gọi đề nghị can thiệp. Số ca tiếp nhận vào Ngôi nhà bình yên trong tháng 4
12
đầu năm 2020 tăng 50% so với cùng kỳ năm 2019. Khơng chỉ riêng Ngơi nhà bình
n, mà các đường dây tư vấn khác về bạo lực giới, bạo lực gia đình thời gian qua
cũng “nóng” lên mỗi ngày vì các cuộc gọi đến.
Chị V.T.L (Kiến Thụy, Hải Phòng) chia sẻ, nếu trước đây thỉnh thoảng chị mới
bị chồng đánh thì trong những ngày ở nhà vì bị mất việc làm chị bị địn như cơm
bữa. “Chồng tơi là thợ xây, do dịch Covid - 19, anh ở nhà dài ngày nên tâm trạng
ln cáu bẳn. Vợ con làm gì khơng vừa ý là qt tháo. Các con nhìn thấy bố là nơm
nớp lo sợ, muốn tránh bố cũng không được vì các con cũng phải nghỉ học ở nhà.
Cịn tơi cứ làm gì khơng vừa ý là bị chồng đánh. Điều làm tôi lo lắng là trước đây
khi thấy nhà tôi phát ra tiếng chửi bới, tiếng ném đồ đạc là hàng xóm chạy sang can
thiệp. Tuy nhiên hiện nay do lo ngại dịch bệnh, khi tôi bị chồng đuổi đánh, dù đã
kêu cứu rất to nhưng không ai dám chạy sang” - chị L bày tỏ.
(Ảnh minh họa)
Bà Tuyết Anh - chuyên viên của Tổng đài tư vấn về bạo lực gia đình của Trung
tâm Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên
(CSAGA) cho biết, so với trước thời điểm dịch thì số lượng cuộc gọi điện thoại liên
hệ tới tổng đài xin tư vấn về vấn đề bạo lực gia đình tăng tới 87%. Bên cạnh đó, bà
13
Tuyết Anh cho biết thêm, “so với trước đây, nạn nhân bị bạo lực gia đình gặp khó
khăn trong việc kêu cứu hơn vì khơng thể chạy ra ngồi, hàng xóm cũng khơng thể
ứng cứu, chính quyền địa phương cũng bận vì chống dịch và thực hiện cách ly xã
hội nên khó có thể can thiệp, hỗ trợ. Bản thân người phụ nữ bị bạo lực không dám
chạy đến người thân vì sợ chẳng may mình lại là nguồn lây nhiễm bệnh cho người
thân. Thậm chí, một số nam giới còn sử dụng việc cách ly xã hội như một biện pháp
quản lý chặt hơn vợ mình với lời dọa nếu chạy ra ngồi kêu cứu sẽ bị bắt vì vi phạm
cách ly”.
→ Như vây, từ những số liệu và thực tế trong xã hội, chúng ta có thể nhận thấy
bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng đáng báo động và trái ngược với truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh đó, bạo lực gia đình khơng chỉ phát sinh ở các
gia đình có trình độ học vấn thấp mà cịn ở các gia đình học vấn cao; khơng chỉ xảy
ra trong những gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, mà cịn xảy ra trong những
gia đình khá giả; khơng chỉ xảy ra ở các cặp vợ chồng mới kết hơn, mà cịn xảy ra ở
các cặp vợ chồng đã sống với nhau nhiều năm. Và chúng ta phải đối mặt với một
thực tế là bạo lực gia đình đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề cho chính người
gây ra bạo lực, người bị bạo lực; cho gia đình và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Vậy nguyên nhân do đâu bạo lực gia đình vẫn ngày càng
gia tăng gây nhức nhối cho xã hội? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cùng đi tìm
hiểu những quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình.
2.3. Những quan niệm ngộ nhận về bạo lực gia đình
2.3.1. Những quan niệm ngộ nhận của xã hội
2.3.1.1. Bạo lực trong gia đình rất ít khi xảy ra
Trên thế giới, tại Hoa Kỳ cứ 9 giây có 1 phụ nữ bị bạo hành. Ít nhất 1/5 số phụ
nữ trên thế giới đã từng một lần trong đời bị đánh đập hoặc cưỡng hiếp. Ở Việt Nam,
nghiên cứu quốc gia về vấn đề bạo lực đối với phụ nữ năm 2010 đã cho thấy hơn
nửa phụ nữ (58%) từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực trong cuộc đời. Tỷ lệ này
trong 12 tháng trước thời gian nghiên cứu là 27%. Có sự liên quan chặt chẽ giữa ba
14
loại bạo lực và đánh giá sự đan xen chỉ ra rằng phụ nữ thường vừa bị bạo lực tình
dục hoặc thể xác, vừa bị bạo lực tinh thần.
(Kết quả điều tra quốc gia trên 4838 phụ nữ về bạo lực gia đình năm 2010)
Với những thành tích gia đình văn hóa, thơn văn hóa, làng văn hóa, ấp văn hóa
đã dẫn đến “bệnh thành tích” khiến những gia đình, các địa phương chạy đua với
những danh hiệu để rồi khơng nhìn nhận và khơng phản ánh đúng thực tế về bạo lực
gia đình. Phó Chủ tịch Quốc hội ng Chu Lưu – Trưởng đoàn Giám sát của Quốc
hội trong buổi làm việc với Chính phủ ngày 16/1/2020 đã nhận đinh: các con số
trong báo cáo chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, đồng thời Phó Chủ tịch Quốc hội
cho biết khi đi giám sát thì bạo lực diễn ra trong gia đình rất nhiều. Do vậy, từ ngộ
nhận bạo lực gia đình rất ít khi xảy ra, một vấn đề đặt ra cho chúng ta và cho các cấp
chính quyền đó chính là cần nghiêm túc xem xét lại việc trao danh hiệu gia đình văn
hóa để mỗi cá nhân, mỗi gia đình và mỗi địa phương tự nhìn nhận lại những vấn đề
xảy ra trong gia đình hay chính địa phương mình.
2.3.1.2. Bạo lực chỉ là đánh đập đơn thuần
Do sự thiếu nhận thức về các hình thức bạo lực gia đình nên một bộ phận người
dân ngộ nhận bạo lực chỉ là đánh đập đơn thuần. Trên thực tế, bạo lực gia đình gồm
có 4 loại: bạo lực thể xác, tinh thần, kinh tế và bạo lực tình dục.
15
Trong đó, bạo lực thể xác dễ phát hiện vì nó thể hiện qua những vết thương trên
cơ thể của nạn nhân, do đó mọi người xung quanh dễ nhận biết. Cịn bạo lực tinh
thần và kinh tế khó phát hiện và xử lý vì khơng để lại “tang chứng, vật chứng” trên
cơ thể nạn nhân. Đồng thời bạo lực tình dục cũng khó phát hiện vì thiếu tiêu chí
đánh giá mức độ tổn thương và người bị hại không chịu lên tiếng phản ánh với các
cấp chính quyền cũng như cơ sở y tế.
Trên thực tế nhiều nạn nhân của các vụ việc bạo lực gia đình chia sẻ rằng bạo
lực tinh thần gây đau đớn hơn cả bạo lực thể xác. Một điều dễ nhận thấy là bạo lực
thể xác thường diễn ra với những gia đình có trình độ học vấn thấp, kinh tế khó khăn,
vợ hoặc chồng vướng phải rượu chè, cờ bạc. Ngược lại, bạo lực tinh thần thường
nảy sinh trong gia đình viên chức, trí thức như một “mặt trái của nền kinh tế thị
trường”. Do vậy bạo lực gia đình khơng chỉ là đánh đập đơn thuần như ngộ nhận của
một số người dân mà bạo lực gia đình cịn xảy ra với nhiều hình thức khác nhau và
là hành vi phạm tội nghiêm trọng trong xã hội.
2.3.1.3. Bạo lực trong gia đình là vấn đề riêng tư của các cặp vợ chồng
Xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về Luật phòng, chống Bạo lực gia đình và mức
độ nghiêm trọng của các hành vi bạo lực dẫn đến cộng đồng, xã hội ngộ nhận bạo
lực gia đình là vấn đề riêng tư của các cặp vợ chồng, là chuyện thông thường, “đèn
nhà ai nhà nấy rạng”, sự can thiệp, lên án của cộng đồng, làng xóm, chính quyền
địa phương chỉ mang tính chất nhất thời, mờ nhạt. Do đó, bạo lực gia đình vẫn có
điều kiện tồn tại và phát triển.
Trên thực tế, tại Việt Nam bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em là vi phạm đạo đức
xã hội và pháp luật. Bạo lực gia đình ảnh hưởng tới cộng đồng, xã hội về y tế và an
ninh trật tự,…
16
Từ thực tế trên, vấn đề đặt ra là chúng ta cần có giải pháp để nâng cao nhận
thức của cộng đồng về bạo lực gia đình.
2.3.1.4. Bạo lực trong gia đình thường do rượu gây ra
Rất nhiều người có suy nghĩ rằng, bạo lực gia đình do người chồng say rượu
gây ra đối với người vợ. Trên thực tế rất nhiều nam giới đã ngược đãi vợ khi họ
không say rượu. Họ bạo hành vợ trong trạng thái hoàn tồn tỉnh táo, thậm chí có
trình độ học vấn cao. Trong những gia đinh trí thức người phụ nữ thường phải hứng
chịu bạo lực một cách rất tinh vi từ chính người chồng của mình. Ví dụ: Câu chuyện
của chị P.T.T - sinh năm 1980, ở Nam Định. Chị T là Tiến sĩ, giảng viên Đại học.
Chồng chị cũng là người học rộng tài cao. Người ngồi nhìn vào thấy gia đình chị
thật hạnh phúc. Thầy trưởng khoa nơi chị giảng dạy thậm chí cịn mang gia đình chị
ra để “nêu gương” về gia đình mẫu mực, hạnh phúc. Khơng ai ngờ bao năm qua,
nữ Tiến sĩ ấy bị người chồng học rộng biết nhiều thượng cẳng chân, hạ cẳng tay,
thậm chí cả bạo lực tình dục. Cịn chị cứ luẩn quẩn trong vịng hào quang của gia
đình hạnh phúc mà khơng thể thốt ra. Chị T kể mỗi lần đánh chị, chồng thường
khóa trái cửa trong phịng để đánh. Những khi vợ chồng vui vẻ, chị có hỏi vì sao anh
đánh chị, anh nói: “Em làm theo anh thì chả có vấn đề gì”. Chồng chị khơng chấp
nhận được vợ làm trái ý mình, dù là điều nhỏ nhất. Chị T kể ví dụ anh bảo chị đi
17