Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Tìm hiểu về thái hóa đất và đề xuất giải pháp bảo vệ tài nguyên môi trường đất theo hướng phát triển bền vững ở huyện đồng phú tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.17 MB, 138 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NG UYỄN SINH HƯƠNG

VAI TRỊ CỦA HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XIX (1802 - 1858)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KHOA HỌC LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NG UYỄN SINH HƯƠNG

VAI TRỊ CỦA HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở
ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XIX (1802 - 1858)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54


Cán bộ hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN THỊ MAI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2010


LỜI CẢM ƠN.
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Mai. Trong suốt thời gian thực hiện luận
văn, cô là người đã luôn theo sát, nhắc nhở, động viên tôi. Những lúc gặp khó khăn
về mặt khoa học, cơ đã nhiệt tình, hết lịng giảng giải, giúp đỡ tơi tìm ra được
hướng giải quyết để hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tơi có thể dành trọn thời gian và tâm huyết để thực hiện
luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến phịng Sau Đại học - Quản lí
khoa học - nơi đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hồn thành trọn vẹn khóa Cao
học và hỗ trợ tơi hồn tất thủ tục bảo vệ luận văn thạc sỹ.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến gia đình tơi, bạn bè
tơi - những người ln u thương và dành trọn những gì tốt đẹp nhất cho tơi. Đó là
nguồn động viên lớn để tơi có thể hồn thành luận văn thạc sỹ này.

Trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 3

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 3
5. Đóng góp của đề tài ............................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 9
7. Kết cấu nội dung đề tài .......................................................................... 9
Chương 1. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế
kỉ XIX.
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu
Long ...................................................................................................................... 11
1.2. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long trước 1802
1.2.1. Kênh Bảo Định ................................................................................. 16
1.2.2. Kênh mới Rạch Chanh ...................................................................... 19
1.3. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX.
1.3.1. Kênh Thoại Hà ................................................................................. 21
1.3.2. Kênh Vĩnh Tế ................................................................................... 23
1.3.3. Kênh Lợi Tế...................................................................................... 36
1.3.4. Kênh Thoại Sơn ................................................................................ 36
1.3.5. Kênh Long An .................................................................................. 39
Chương 2. Vai trị của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sơng Cửu Long
nửa đầu thế kỉ XIX.
2.1. Kênh đào với vai trò bảo vệ an ninh quốc phòng, xác lập chủ quyền lãnh
thổ ......................................................................................................................... 43
2.2. Kênh đào với vai trò ổn định trật tự xã hội trên vùng đất mới............... 52
2.3. Kênh đào với vai trò phát triển kinh tế ................................................. 59
2.4. Kênh đào với vai trị hình thành nền văn minh sông nước .................... 65


Chương 3. Một vài nhận xét về hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông
Cửu Long nửa đầu thế kỉ XIX.
3.1. So sánh lợi ích của kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế
kỷ XIX với kênh đào Đông Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ. ...................................... 72

3.2. Đặc điểm của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu
thế kỷ XIX............................................................................................................. 80
3.3. Giá trị của kênh đào trong giai đoạn hiện tại ........................................ 84
Kết luận ........................................................................................................ 90
Phụ lục
Tài liệu tham khảo


2

1. Lí do chọn đề tài.
Thứ nhất:
Kênh đào tự bản thân nó trước hết là một biện pháp để “quản lí nguồn nước”
phục vụ cho sản xuất nơng nghiệp. Tuy nhiên, kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu
Long nửa đầu thế kỷ XIX cịn mang nhiều vai trị tích cực khác. Việc hình thành
mạng lưới kênh đào ở đây liên quan trực tiếp đến chủ trương, chính sách, biện pháp
của nhà Nguyễn trong vấn đề khai mở, xác lập chủ quyền, bảo vệ biên giới, ổn định
dân cư, phát triển kinh tế ở mảnh đất phía Nam đất nước.
Do vậy, nghiên cứu “Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu
Long nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)” là một đề tài có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn. Tác giả đặt nó trong tổng thể những yếu tố lịch sử, xã hội, văn hóa của vùng
đất mới.
Thứ hai:
Cho đến đầu thế kỷ XIX, việc khai hoang càng được đẩy mạnh trên cơ sở đã
đạt được trong hai thế kỉ trước cả về tốc độ, quy mô và hiệu quả. Tuy nhiên, so với
khu vực tả ngạn sông Tiền và vùng giữa hai sông Tiền và sơng Hậu thì khu vực hữu
ngạn sơng Hậu cịn khá thưa thớt. Đây là vùng đất có đường biên giới liền kề với
Campuchia - nơi mà phong kiếm Xiêm thường sử dụng để đem quân xâm lược.
Cũng từ địa bàn này, nhiều lực lượng đã lợi dụng để xây dựng căn cứ chống lại triều
đình. Do vậy, vấn đề bảo vệ biên giới, an ninh lãnh thổ được đặt ra cấp bách, trở

thành mối bận tâm lớn nhất của nhà Nguyễn trong quá trình khai mở vùng đất
phương Nam. Quân sự, vũ trang không phải là giải pháp tối ưu, vĩnh viễn. Vấn đề
cốt yếu mà nhà Nguyễn đã thực hiện đó là đưa dân đến định cư khai phá, sinh cơ
lập nghiệp, hình thành thơn ấp. Dân cư cùng với hệ thống làng xóm sẽ là “biên giới
mềm” kiên cố và hữu hiệu. Để tạo điều kiện, Nhà nước đã cho xây dựng hệ thống
kênh đào nhằm phủ dụ, lôi kéo nhân dân đến đây khai khẩn.
Do vậy, nghiên cứu “Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu
Long nửa đầu thế kỷ XIX (1802 – 1858)” để tìm hiểu về quá trình xác lập đường


3

biên giới Việt - Miên và quá trình nhà Nguyễn từng bước khẳng định chủ quyền của
mình trên vùng đất mới.
Thứ ba:
Đối với cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long có vị trí cực kỳ quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế nơng nghiệp. Để duy trì sự phát triển bền vững
đó, việc khai thác và sử dụng hợp lí hệ thống thủy nơng tự nhiên và nhân tạo là yếu
tố tối quan trọng. Điều may mắn cho hậu thế chúng ta là được thừa hưởng những
cơng trình thủy nông vĩ đại của ông cha để lại. Tuy nhiên, hiện nay, Đồng bằng
sông Cửu Long đang phải đối mặt với những thách thức, những nhu cầu mới nảy
sinh như sự thay đổi dịng chảy của một số con sơng nhỏ, nhu cầu hình thành vườn
chuyên canh cây ăn trái chất lượng cao, nhu cầu giao thông thủy phát triển phục vụ
nhu cầu đi lại và thương mại, đòi hỏi phải không ngừng cải tạo hệ thống kênh đào
cũ và phát triển hệ thống kênh đào mới. Muốn làm tốt cơng việc này, nhất thiết phải
hiểu được những gì mà lớp tiền nhân đã làm để kế thừa, phát huy.
Nghiên cứu “Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long
nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)” là cách “ôn cố tri tân”, lớp người hậu thế rút
ra được những bài học quý giá từ trong quá khứ để áp dụng cho giai đoạn hiện tại.
Thứ tư:

Nhà Nguyễn với vùng đất Nam Bộ hiện nay đang là hướng nghiên cứu được
các nhà khoa học chú ý. Lịch sử của người Việt trên vùng đất Nam Bộ mới chỉ hơn
300 năm nên những hiểu biết về vùng đất này cịn q ít ỏi. Những vấn đề của Nam
Bộ nói chung và Đồng bằng sơng Cửu Long nói riêng từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội cịn nhiều khoảng trống khoa học.
Khi chọn đề tài “Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long
nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)”, tác giả mong muốn được đóng góp những hiểu
biết của mình về tất cả những gì liên quan đến kênh đào nơi đây, từ đó hiểu thêm về
lịch sử vùng đất Nam Bộ vào thế kỷ XIX.
Từ những lí do trên, tác giả đã chọn “Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng
bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)” để làm luận văn thạc sỹ.


4

2. Mục đích nghiên cứu.
Khi thực hiện đề tài, tác giả hướng đến những mục đích nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Làm rõ diện mạo hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long
nửa đầu thế kỷ XIX.
Thứ hai: Làm sáng tỏ vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu
Long nửa đầu thế kỷ XIX trong bốn vấn đề: xác định đường biên giới, bảo vệ an
ninh quốc phòng, khẳng định chủ quyền lãnh thổ; ổn định trật tự xã hội trên vùng
đất mới; thúc đẩy phát triển kinh tế và góp phần hình thành nền “văn minh sơng
nước”.
Thứ ba: Từ việc nghiên cứu vai trị của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng
sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX, tác giả đưa ra những so sánh đối chiếu với vai
trò của hệ thống kênh đào ở Đông Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài đi sâu nghiên cứu kênh đào Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó chú
trọng làm sáng tỏ vai trị của hệ thống kênh đào ở nửa đầu thế kỷ XIX. Vai trò được

thể hiện trên bốn khía cạnh đã được nêu ở mục tiêu thứ hai trong phần mục đích
nghiên cứu, vì thế đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vai trị của kênh đào thể
hiện ở bốn khía cạnh trên.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn về mặt không gian ở Đồng bằng
sông Cửu Long, nhất là khu vực hữu ngạn sơng Hậu vì đây là khu vực tập trung
nhiều hệ thống kênh đào quan trọng nhất. Về mặt thời gian, phạm vi đề tài nghiên
cứu là nửa đầu thế kỷ XIX, tương ứng với giai đoạn của các đời vua Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, trong đó hệ thống kênh được khơi đào tập trung
nhất vào giai đoạn vua Gia Long và Minh Mạng.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Nguồn tư liệu thành văn sớm nhất đề cập đến kênh đào Đồng bằng sông Cửu
Long là các bộ chính sử triều Nguyễn.
Thứ nhất: Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam thực lục do Viện Sử
học dịch, Nhà xuất bản giáo dục. Đây là bộ chính sử đồ sộ nhất của triều Nguyễn


5

trong vòng 88 năm (1821 - 1909) bao gồm 10 tập. Nội dung mà luận văn tìm hiểu
nằm trong 7 tập (từ tập 1 đến tập 7). Đây được xem là nguồn tài liệu gốc phản ánh
đầy đủ nhất về hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm những nội
dung như: chiếu chỉ, tấu trình của vua quan về việc đào kênh, mục đích, thời gian,
quá trình, phương thức và lực lượng đào kênh. Đặc biệt, bộ sử này dày đặc những tư
liệu về tình hình chiến sự diễn ra dọc bờ kênh Vĩnh Tế. Đây là phần nội dung rất
quan trọng tác giả kế thừa để chứng minh cho vai trò của kênh đào trong vấn đề
quân sự, bảo vệ an ninh quốc phòng. Đây cũng là nguồn tài liệu chính tác giả sử
dụng làm chuẩn để so sánh với các bộ sử khác khi đề cập đến ở cùng một nội dung.
Ngoài ra, tác giả cũng thu thập thêm tư liệu về kênh đào ở Trung Bộ và Bắc Bộ để
có điều kiện so sánh với kênh đào Đồng bằng sông Cửu Long trong nội dung luận
văn.

Thứ hai, Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thơng chí (2005) do Hậu học Lý
Việt Dũng dịch và chú giải, tiến sĩ Huỳnh Văn Tới hiệu đính và giới thiệu, Nhà xuất
bản Đồng Nai. Đây là bộ sách địa lí đầu tiên ghi chép về núi sơng, con người,
phong tục tập quán của vùng đất Nam Bộ. Bộ sử bao gồm sáu nội dung lớn đó là
Tinh dã chí, Sơn xuyên chí, Cương vực chí, Phong tục chí, Vật sản chí, Thành trì
chí. Nội dung được tác giả khai thác đó là Sơn xun chí, tập trung ở trấn Vĩnh
Thanh và trấn Hà Tiên. Mô tả của Trịnh Hoài Đức về các con kênh đào này cung
cấp các thơng tin về thời gian đào, lí do đào, người chỉ huy, lực lượng dân phu, hiệu
quả của những con kênh đối với lịch sử xã hội thời bấy giờ. Trong tài liệu này, tác
giả còn khai thác những tư liệu gián tiếp như những tư liệu chép về sông, núi để từ
đó xác định được vị trí và dịng chảy của những con kênh đào nơi đây.
Thứ 3, Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (2004),
Viện sử học dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là bộ sách biên soạn dưới triều
Nguyễn theo dạng Hội điển nhằm ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ
kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của một triều đại. Đây được xem là bộ Hội
điển có quy mơ vào loại đồ sộ nhất trong kho tàng thư tịch viết bằng chữ Hán của
Việt Nam. Bộ sử bao gồm 7 tập, tác giả sử dụng tư liệu của tập thứ 7 là tập nói về


6

hoạt động của Bộ Cơng, trong đó tập trung vào mục “Việc phịng sơng ngịi”. Đây
được xem là tài liệu tập hợp đầy đủ toàn bộ những chỉ dụ, chiếu chỉ của các vua nhà
Nguyễn tới quần thần và dân chúng về việc khai đào kênh.
Thứ 4, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (2006) do Viện
Sử học dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa. Bộ sử này gồm 5 tập, tác giả tập trung khai
thác tư liệu trong tập thứ 5 là tập nói về Lục tỉnh Nam Kỳ. Nhìn chung, mục ghi
chép về núi sơng có phản ánh về các kênh đào nhưng nội dung khá ngắn gọn, hầu
như trích dẫn lại thơng tin của Gia Định thành thơng chí và Đại Nam thực lục. Tuy
nhiên, trong bộ sử này có thể tìm thấy và chắt lọc những thông tin về nhân khẩu

cũng như các giang trạm, chợ quán, cầu đò, thổ sản... của các tỉnh An Giang, Hà
Tiên làm tài liệu bổ sung thêm cho luận văn.
Những bộ sử liệu này viết đầy đủ những nội dung liên quan đến kênh đào
Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, vì là những ghi chép đương thời nên ngay
cả bộ phận biên soạn cũng không thể đánh giá hết được vai trò, giá trị và ý nghĩa
của hệ thống kênh đào đối với vùng đất này. Cách ghi chép dừng ở việc miêu tả chi
tiết quá trình đào kênh, nếu có đánh giá vai trị thì cũng chỉ gói gọn trong những câu
từ rất súc tích “thực công tư đều lợi”. Kế thừa nguồn sử liệu đáng tin cậy bậc nhất
này kết hợp với những nghiên cứu của lớp người hậu thế, tác giả muốn tập hợp, hệ
thống tư liệu để đưa ra những đánh giá, nhận xét xác đáng về vai trò của hệ thống
kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX.
- Kênh đào cũng được đề cập khá nhiều trong các nghiên cứu, chuyên khảo
về quá trình khẩn hoang vùng đất Nam Bộ. Tựu trung nhất là tác phẩm: Sơn Nam
(1997), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Tp.HCM. Đọc những phần như
“Nhu cầu xác định vùng biên giới Việt - Miên”, “Nhu cầu chỉnh đốn về nội trị:
Những đồn điền chiến lược ở Hậu Giang”, “Làng xóm, điền đất và người dân thời
đàng cựu”, tác giả rút tỉa ra được những nhận xét liên quan đến nội dung chính của
luận văn. Ngồi ra, tác giả cịn tiếp cận thêm một số tác phẩm khác như Phan
Khoang (1967), Việt sử xứ Đàng trong, Nhà sách Khai Trí, Sài Gịn; Huỳnh Lứa
(1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp.HCM, Tp.HCM; Huỳnh Lứa


7

(2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, Nxb
KHXH, Hà Nội. Tuy nhiên, các nghiên cứu này không xây dựng chủ đề riêng về
kênh đào mà lồng ghép vào những nội dung khác. Vì thế, nội dung về kênh đào
cũng chỉ xoay quanh chủ trương, biện pháp, quá trình đào kênh và một vài phân tích
về vai trị của kênh đào. Tuy nhiên mức độ còn rời rạc, lẻ tẻ, thường chỉ là vai trò
của một con kênh trong một lĩnh vực nào đó, nhiều nhất là kênh Vĩnh Tế với vai trị

đảm bảo an ninh quốc phòng, xác lập chủ quyền lãnh thổ .
- Trong một số tài liệu viết về những nhân vật lịch sử như Lê Văn Duyệt,
Thoại Ngọc Hầu cũng đề cập đến vấn đề trên. Nguyễn Văn Hầu (2000), Thoại Ngọc
Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, Nxb Trẻ, Tp.HCM; Như Hiên
Nguyễn Ngọc Hiền (1997), Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Nxb Văn Học; Tạp
chí Xưa và Nay (2008), Lê Văn Duyệt với vùng đất Nam Bộ, Văn hóa Sài Gịn,
Tp.HCM. Các tác phẩm này làm sáng rõ công trạng của những bậc khai quốc công
thần của nhà Nguyễn trên mảnh đất Nam Bộ, trong đó có cơng lớn trong việc đốc
suất đào các con kênh lớn ở miền Tây Nam Bộ.
- Tác giả cũng tiếp thu khá nhiều nghiên cứu của Phan Khánh trong hai tài
liệu “Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi” xuất bản năm 2004 và “Đồng bằng sông Cửu
Long - Lịch sử và lũ lụt” xuất bản năm 2001. Với tư cách là một nhà khoa học thủy
lợi nghiên cứu hệ thống kênh đào dưới góc độ lịch sử, Phan Khánh đã cung cấp cho
tác giả một cái nhìn tổng quan hết sức khoa học về điều kiện tự nhiên, sơng ngịi,
chế độ lũ lụt, thủy triều của đồng bằng sông Cửu Long, trên nền đó để làm cơ sở
cho việc nghiên cứu hệ thống kênh đào ở đây.
- Những cơng trình của các nhà nghiên cứu Nguyễn Cơng Bình, Mạc Đường,
Lê Xuân Diệm về những vấn đề dân tộc, tôn giáo, kinh tế, xã hội của Đồng bằng
sông Cửu Long từ quá khứ đến hiện tại cũng ít nhiều cung cấp nội dung liên quan
đến luận văn của tác giả. Nguyễn Cơng Bình (1995), Đồng bằng sơng Cửu Long
nghiên cứu và phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội; Nguyễn Cơng Bình, Lê Xuân Diệm,
Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb KHXH,
Hà Nội...


8

- Ngày nay, nhiều Hội thảo khoa học đã được tổ chức để đánh giá đúng đắn
hơn về vai trò của hệ thống kênh đào cũng như những giá trị tích cực của nó trong
giai đoạn hiện tại. Đáng lưu ý nhất là Hội thảo “Lịch sử hình thành và phát triển

kênh Vĩnh Tế” do Viện KHXH tại TP.HCM phối hợp với tỉnh ủy, UBND tỉnh An
Giang tổ chức vào năm 1999, Hội thảo “Lịch sử hình thành vùng đất An Giang” tổ
chức tại An Giang năm 2000. Những Hội thảo này cung cấp nhiều thông tin về hệ
thống kênh đào, đặc biệt giúp tác giả tìm được những thơng tin về giá trị của hệ
thống kênh đào đối với giai đoạn hiện tại ở hai vùng đất An Giang và Hà Tiên.
- Mảng đề tài này cũng đã được nghiên cứu trong luận văn của học viên
Phạm Đức Hảnh (2009), Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII
đến giữa thế kỷ XIX. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn này rộng hơn so
với đề tài luận văn của tác giả về cả mặt thời gian và không gian. Luận văn của học
viên Phạm Đức Hảnh đi sâu trình bày về lịch sử hình thành hệ thống kênh đào trong
khi luận văn của tác giả lại đi sâu nghiên cứu một vấn đề: đó là vai trị của hệ thống
kênh đào. Trong nội dung về lịch sử hình thành các con kênh, tác giả đã kế thừa và
tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tài liệu, trong đó có luận văn này để hệ thống hóa
tư liệu, sắp xếp theo từng mảng vấn đề một cách đầy đủ và chi tiết. Riêng đối với
nội dung: vai trị của hệ thống kênh đào, vì khơng phải là đối tượng nghiên cứu
chính nên đề tài Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa
thế kỷ XIX của Phạm Đức Hảnh trình bày khá sơ lược. Cịn trong đề tài Vai trị của
hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sơng Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX, tác giả đi sâu
phân tích bối cảnh, tiền đề dẫn đến việc định hình những vai trị trên của kênh đào
và chứng minh những vai trị đó qua nhiều cứ liệu lịch sử cụ thể. Tác giả cũng bước
đầu đưa ra những so sánh về lợi ích của kênh đào Đồng bằng sơng Cửu Long với
kênh đào Đông Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ, đồng thời rút ra những đặc điểm về
hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là những
nội dung mà trong luận văn của học viên Phạm Đức Hảnh chưa đề cập tới.
- Thêm vào đó, các bài viết trên các tạp chí, tập san chuyên ngành như tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Xưa và Nay cũng chứa đựng nhiều nghiên cứu về


9


hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long. Những bài viết ngắn này cung cấp
cho tác giả cái nhìn tổng quan về quá trình khẩn hoang vùng đất Nam Bộ và những
chính sách, biện pháp của nhà Nguyễn trong việc xây dựng hệ thống kênh đào ở đây
vào nửa đầu thế kỷ XIX.
Tổng hợp và hệ thống nguồn tư liệu trên, tác giả nhận thấy, những nội dung
chính xoay quanh hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long đã được đề cập
khá đầy đủ bao gồm:
+ Chủ trương, chính sách của nhà Nguyễn trong việc đào kênh.
+ Biện pháp, lực lượng, cách thức và quá trình đào kênh.
Kênh đào với bốn vai trị của nó chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng.
Những nội dung trên cịn rời rạc, tản mạn trong những cơng trình nghiên cứu.
Hướng triển khai của đề tài là tổng hợp, hệ thống lại toàn bộ tư liệu, đưa ra
những đánh giá, nhận xét của riêng mình nhằm làm sáng tỏ vai trị của hệ thống
kênh đào ở Đồng bằng sơng Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX với tất cả khía cạnh.
5. Đóng góp của đề tài.
Đề tài “Vai trị của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng Sông Cửu Long nửa
đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)” khi nghiên cứu xong có những đóng góp cụ thể sau
đây:
- Luận văn là nguồn tài liệu tập hợp đầy đủ về tất cả những nội dung liên
quan đến kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX một cách hệ
thống nhất. Do đó, nó sẽ trở thành cơng cụ tra cứu hữu hiệu cho những ai quan tâm
đến mảng đề tài này.
- Kênh đào thể hiện tầm nhìn chiến lược của nhà Nguyễn đối với vùng đất
Nam Bộ. Do đó, nghiên cứu đề tài này cũng góp thêm vào những đánh giá về vai trị,
cơng lao của vương triều Nguyễn - vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử
Việt Nam.
- Bước đầu đưa ra những so sánh giữa lợi ích của hệ thống kênh đào Đồng
bằng sơng Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX với kênh đào Đông Nam Bộ, Trung Bộ và



10

Bắc Bộ. Qua đó khẳng định được vai trị ưu việt của hệ thống kênh đào đối với
vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử là
phương pháp lịch sử và phương pháp logic, phương pháp nghiên cứu lịch sử địa
phương, phương pháp định lượng, phương pháp định tính....
7. Kết cấu nội dung của đề tài:
Đề tài ngoài phần dẫn luận, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo được kết
cấu thành ba chương:
Chương 1. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế
kỷ XIX.
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu
Long.
1.2. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long trước 1802.
1.3. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương 2. Vai trò của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long
nửa đầu thế kỉ XIX.
2.1. Kênh đào với vai trò bảo vệ an ninh quốc phòng, xác lập chủ quyền lãnh
thổ.
2.2. Kênh đào với vai trò ổn định trật tự xã hội trên vùng đất mới.
2.3. Kênh đào với vai trò phát triển kinh tế.
2.4. Kênh đào với vai trị hình thành nền văn minh sơng nước.
Chương 3. Một vài nhận xét về hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông
Cửu Long nửa đầu thế kỷ XIX.
3.1. So sánh lợi ích của kênh đào ở Đồng bằng sơng Cửu Long nửa đầu thế
kỷ XIX với kênh đào Đông Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ.
3.2. Đặc điểm của hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long nửa đầu
thế kỷ XIX.

3.3. Giá trị của kênh đào trong giai đoạn hiện tại.


11

KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO.


12

CHƯƠNG 1. HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX.
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội Đồng bằng sông Cửu
Long.
Đồng bằng sông Cửu Long ôm trọn phần đất của mười hai tỉnh và một thành
phố: Long An, Đồng Tháp, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang,
Tiền Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Tổng
diện tích khoảng 39.000 km vng, chiếm 12% diện tích cả nước [31, tr.22].
Đồng bằng sơng Cửu Long có nhiều điều kiện thiên nhiên ưu đãi, đặc biệt là
chế độ thủy văn cực kì thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông
nghiệp.
Hệ thống sông lớn nhất của vùng là sông Mê Kông, bắt nguồn từ cao nguyên
Tây Tạng chảy qua Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia và cuối cùng
là Việt Nam. Phần chảy qua Nam Bộ dài 250 km theo hai dòng Tiền Giang và Hậu
Giang rồi đổ ra biển qua chín cửa, có chỗ rộng đến 2, 3 ngàn mét [65, tr.57]. Lượng
nước trung bình hàng năm của sơng Cửu Long khoảng 4.000 tỷ mét khối nước và
cung cấp khoảng 100 triệu tấn phù sa cho đồng bằng [65, tr.65]. Diện tích đất phù
sa này trải rộng đến 39.950 km vuông [65, tr.64]. Vựa lúa Đồng bằng sông Cửu

Long giàu nhất nước chính là nhờ khối lượng phù sa tập trung rất cao dọc các sông
chứ không phân rải như trong hệ thống sơng Hồng.
Ngồi sơng chính này, nơi đây cịn có một hệ thống sơng nữa đó là các sơng
nhỏ ở phía Nam miền Tây Nam Bộ, đổ ra Vịnh Thái Lan. Đó là các sơng Giang
Thành (cũng gọi là Kiên Giang), sông Cái Lớn, sông Cái Bé, sơng Mỹ Thanh, sơng
Ơng Đốc, sơng Cửa Lớn, sơng Gành Hào, sông Bảy Háp, sông Trèm Trẹm, sông
Cái Tàu…
Đồng bằng sơng Cửu Long cịn có một đặc điểm thủy văn rất đặc biệt có lợi
cho phát triển nơng nghiệp nữa là lũ. Lũ vào đến Đồng bằng sông Cửu Long khá
hiền, tránh được yếu tố bất ngờ nguy hiểm. Lũ về mang một lượng phù sa màu mỡ


13

bồi đắp cho đồng bằng, giúp thau chua rửa mặn, dẫn ngọt để phục vụ sản xuất. Lũ
về đồng thời cũng mang lại nhiều nguồn lợi thủy hải sản cho cư dân nơi đây.
Bên cạnh chế độ thủy văn ưu đãi, Đồng bằng sơng Cửu Long cịn có khí hậu
tương đối ổn định và luôn ở mức cao. Đây cũng là nơi ít xảy ra thiên tai như bão,
hạn hán.
Như vậy, phù sa màu mỡ, lượng nước khổng lồ, nền nhiệt độ cao, mưa lũ
điều hòa là những điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt và phát triển kinh tế. Tuy nhiên,
thiên nhiên Đồng bằng sông Cửu Long cũng mang nhiều hiểm họa khơn lường. Đó
là tình trạng nhiễm phèn, nhiễm mặn trên một diện tích lớn, ngập nước kéo dài
trong mùa lũ và thiếu nước trầm trọng trong mùa khô. Tất cả đều là những thách
thức cho những ai muốn khai phá và chinh phục vùng đất này vào buổi đầu.
Khảo cổ học đã chứng minh rằng, cho đến đầu Công nguyên, con người đã
bắt đầu xuất hiện và cư trú ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Với trình độ kĩ
thuật khá phát triển, những lớp cư dân đã dần dà xây dựng nên vương quốc Phù
Nam hùng mạnh với đơ thị cảng Ĩc Eo - Ba Thê sầm uất. Tuy nhiên, cho đến cuối
thế kỷ VII, vương quốc Phù Nam sụp đổ. Từ đó cho tới thế kỷ XVI, vùng đất này

về cơ bản là vùng đất hoang dã, chưa được mở mang khai phá.
Từ khoảng thế kỷ XIV, nơi đây tiếp nhận lớp cư dân mới, đó là người Khmer
từ Chân Lạp xuống. Lớp cư dân này chưa đủ sức tạo ra những thay đổi cho diện
mạo của vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long cho đến khi người Việt tìm đến khai
mở và sinh sống.
Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, một bộ phận cư dân người Việt phiêu tán
từ miền Bắc, miền Trung lần lượt tìm đến Đồng bằng sơng Cửu Long. Bộ phận này
có mặt ngày càng đơng góp phần thay đổi dần khung cảnh hoang vu của vùng đồng
bằng trũng thấp, đầy rẫy thú dữ, muỗi mịng. Sự có mặt của cư dân người Việt được
hợp thức hóa từng bước qua việc khẳng định chủ quyền của các chúa Nguyễn đối
với vùng đất mới từ các mối quan hệ chính trị - ngoại giao giữa chính quyền phong
kiến họ Nguyễn và chính quyền phong kiến Chân Lạp. Điều này đến lượt nó lại trở
thành một đảm bảo chắc chắn cho quá trình khai phá, tạo dựng cuộc sống của các


14

tầng lớp cư dân Việt trên vùng đất mới. Bên cạnh lớp cư dân người Việt là chủ đạo
cịn có một vài thành phần dân tộc khác như Hoa, Chăm, Khơme và một số người
thuộc quốc tịch khác như Pháp, Anh, Macao, Giava, Ấn Độ.
Khi đặt chân lên vùng đất mới, lớp lưu dân thường cư trú trước tiên ở những
giồng đất cao ven sơng, là những nơi có điều kiện khai phá tương đối thuận lợi, có
nước ngọt dùng cho sinh hoạt và trồng trọt. Bên cạnh các giồng đất cao ven sông,
vùng đất ven núi và vùng cao ven biển nơi có những cửa sơng tốt cũng được khai
phá sớm.
Có thể phác họa bước chân khai phá của lớp cư dân người Việt trên vùng
Đồng bằng sông Cửu Long như sau: trong các thế kỷ XVIII - XIX, lưu dân người
Việt lần lượt đến định cư và khai khẩn ở bờ sông Vàm Cỏ Tây, bờ bắc sông Tiền và
các cù lao nơi cửa sông Tiền. Ở ven Đồng Tháp Mười, ven Tứ giác Long Xuyên nơi
có những giồng cao, lưu dân cũng đã tới đây và trụ lại. Khu vực bờ nam sông Tiền,

đầu thế kỷ XVII, một bộ phận lưu dân người Việt trong đó phần lớn là tín đồ Đạo
Thiên Chúa ở miền ngồi lánh nạn cấm đạo đến khai khẩn và sinh sống ở đây. Ở
khu vực ven biển phía Tây Nam (Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau), từ cuối thế kỷ XVII
trở đi, lưu dân người Việt và người Hoa cũng đến sinh tụ. Ở vùng hữu ngạn sông
Tiền qua đến sông Hậu, lưu dân đến ở và khai khẩn chưa nhiều do điều kiện thiên
nhiên ở đây không thuận lợi. Họ chỉ sống rải rác ở một số nơi như Châu Đốc, Sa
Đéc, Tân Châu.
Sang thế kỷ XIX, áp lực của việc gia tăng dân số liên tục đã khiến cho những
vùng đất trước đây cịn hoang vắng thì nay lần lượt có người đến ở và khai phá. Đặc
biệt trong nửa đầu thế kỷ XIX, lưu dân người Việt xâm nhập càng lúc càng mạnh
vào vùng đất nằm về phía Nam sông Hậu như vùng Long Xuyên, Rạch Giá sau khi
một số con kênh lớn như Thoại Hà, Vĩnh Tế được khai đào.
cạn, lênh đênh lơ lửng, thuyền to đến đây phải đợi nước triều lên mới đi lại
được. Tình trạng xuống cấp này của con kênh được phản ánh rất rõ qua sách Gia
Định Đến với vùng đất mới, những lớp cư dân Việt - Hoa - Khmer đã sớm thích
ứng với điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng, chung lưng đấu cật khai phá vùng đất


15

mới, biến vùng đất hoang sơ, sình lầy, thú dữ trở thành vùng kinh tế phát triển và
chứa đựng nhiều tiềm năng.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên Đồng bằng sơng Cửu Long cơ bản thuận lợi
cho phát triển kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp trồng lúa
nước. Tuy nhiên, khu vực này cũng tồn tại nhiều yếu tố khó khăn như nhiều vùng
cịn ngập mặn, nhiễm phèn, ngập úng vào mùa mưa, thiếu nước vào mùa khơ. Đây
cịn là nơi sinh sống của thú dữ, gây nguy hiểm cho con người và nông nghiệp như
sâu bọ, rắn rết, hổ, cá sấu…Đó là tất cả những thuận lợi và khó khăn mà những lớp
tiền nhân người Việt đã đón nhận và gặp phải trong quá trình khai phá vùng đất mới.
1.2. Hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long trước 1802.

Cư dân Nam bộ cách nay trên dưới hai ngàn năm đã khai đào hàng trăm cây số
đường nước ở Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Các cuộc khai quật từ thời
L.Malleret (1944) đã tìm thấy dấu tích khoảng 30 “đường nước cổ” với chiều dài
trên 200 km là các kênh đào ngang dọc ở vùng thấp trũng Tứ giác Long Xuyên
[107, tr.9]. Đây vừa là hệ thống đường giao thông lợi dụng thủy triều ra vào cảng
thị Óc Eo, vừa là hệ thống thủy lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở Đồng bằng
sơng Cửu Long. Nhìn chung các đoạn kênh đào cổ đều rất thẳng. Con kênh đào dài
nhất gần 90 km chạy theo hướng nam - bắc, từ thương cảng Ĩc Eo qua vùng Lị Mo
gần núi Sam đến Angkor Borei, nối với những trung tâm thành thị lớn Angkor
Borei (Campuchia) ở phía Bắc với di chỉ Ĩc Eo ở phía Nam [107, tr.9]. Con kênh
rộng nhất gần 28 km nối giữa kênh đào Ba Thê ở phía đơng đến kênh thành cổ
Sdachao giữa vùng Thất Sơn phía tây [107, tr.9]. Dấu tích các đường nước này đã
hình thành một mạng lưới đan xen, lan tỏa, nối liền khu vực này với biển, với khu
vực núi, giữa các khu vực cư trú với nhau. Những thành thị như: Óc Eo, Nền Chùa,
Nền Vua được nối với nhau bằng những con kênh và cùng nối với kênh chính, chạy
dọc miền tây sông Hậu theo hướng đông - tây.
Chức năng của những kênh đào này chắc chắn là phức tạp nhưng đó quả là
thành tựu vượt bậc của cư dân Nam bộ. Hệ thống đường nước nhân tạo ở Đồng
bằng sông Cửu Long nói lên trình độ cao trong tổ chức và quản lý cộng đồng lúc


16

bấy giờ, nó là chìa khóa cho việc hình thành, phát triển và bảo tồn nền văn minh
sông nước cho tới ngày nay.
Như vậy, trước khi các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn cho xúc tiến
đào những con kênh chiến lược ở Đồng bằng sơng Cửu Long thì nơi đây đã từng
tồn tại một hệ thống kênh đào cổ. Chính hệ thống kênh đào này là một trong những
nhân tố chủ đạo thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, giao thương buôn bán, đưa đế
chế Phù Nam phát triển đến mức cực thịnh. Từ sau thế kỷ VII khi đế chế Phù Nam

sụp đổ, hệ thống kênh đào này theo thời gian không được tu bổ nạo vét nên bị vùi
lấp và mất dần vai trò. Chỉ đến khi những lưu dân người Việt đặt chân đến đây vào
thế kỷ XVI - XVII, công cuộc khơi đào kênh mới được tái khởi động.
Vào thời các chúa Nguyễn, những con kênh nhỏ đã được di dân người Việt
tự đào hoặc do gia đình Mạc Cửu (1652 - 1735) chỉ huy dân điền thực hiện. Cũng
trong quá trình di dân lập ấp ở Nam Bộ, các vị quan phụ trách công việc này đã huy
động sức người sức của để nạo vét sông, đào những kênh rạch nhỏ bước đầu phục
vụ cuộc sống của người dân trên vùng đất mới.
Theo nhiều sử liệu và truyền thuyết, chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, lễ Thành
Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã cho quân lính khơi đào rất nhiều kênh rạch để lấy nước
(vì đang giữa mùa khô) và cũng là để hành quân, đưa chiến thuyền vào sông Hậu
đến đất Miên. Những tên sơng, tên đất như Rạch Ơng Chưởng, sơng Vàm Nao, sơng
Mân Thít gợi ta nhớ đến giai đoạn lịch sử này. Sơng Vàm Nao tuy sử sách khơng
nói tới việc khơi đào, nhưng tuyến đi khá thẳng của nó khiến nhiều kĩ thuật gia thủy
lợi nghi ngờ bởi tính chất trái ngược với tính chất uốn khúc lượn vịng quanh co của
những sông rạch tự nhiên chằng chịt chảy trong bãi bồi châu thổ. Có thể khi khơi
đào chỉ là một con kênh nhỏ, đủ rộng để thuyền đi qua hàng một nhưng tiếp đó là
mùa lũ, thế nước sơng Tiền q lớn so với sơng Hậu đã tìm lối thốt, xói sâu mở
rộng như ngày nay [30, tr.65].
Nhiều tác giả cũng cho rằng, vào thời điểm đó, Nguyễn Hữu Cảnh đã cho
khơi vét, mở rộng nhiều kênh rạch rẽ ngang từ sơng Tiền sang sơng Hậu, từ đó trổ
thêm mương phụ, đưa nước vào ruộng. Khi lợi ích kinh tế ở khu vực Nam Bộ ngày


17

càng được tăng lên, việc khai thác vùng đất này ngày càng được chú trọng thì
những con kênh đào mang tính chiến lược đầu tiên cũng đã ra đời.
1.2.1. Kênh Bảo Định.
Con kênh chiến lược quan trọng đầu tiên vào thời ấy có thể kể là con kênh

Bảo Định. Thoạt đầu, kênh được lấy tên là kênh Vũng Gù. Đây là cơng trình nhân
tạo nối liền rạch Vũng Gù và sơng Mỹ Tho. Trước khi có con kênh này, tại đây đã
có rạch Vũng Gù ở về phía đơng bắc, chảy từ sông Vàm Cỏ Tây đến quán Thị Cai;
và rạch Mỹ Tho ở về phía nam, chảy từ chợ Lương Phú (nay thuộc xã Lương Hòa
Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) ra sông Tiền. Khoảng giữa Bắc - Nam, tức là
từ quán Thị Cai đến chợ Lương Phú là ruộng vườn liên tiếp. Tận dụng địa hình
thiên nhiên, con kênh được đào theo cách thức “đắp lũy dài từ quán Thị Cai đến chợ
Phú Lương ở chỗ tận cùng hai đầu nguồn giáp Vũng Gù và Mĩ Tho” [62, tr.111].
Bối cảnh đào con kênh này gắn liền với tình hình an ninh cịn nhiều bất ổn ở
vùng đất mới. Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân vâng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu
đem quân sang Chân Lạp để bảo hộ cho phe hoàng thân Chân Lạp là Nặc Yêm. Khi
thắng trận trở về, Nguyễn Cửu Vân cho đóng quân ở Cù Áo (thuộc trấn Định Tường
sau này). Tại đây, ông cho quân lính khai khẩn ruộng hoang lập đồn điền sản xuất
lúa gạo. Tuy nhiên quân giặc thường hay ra quấy rối sau lưng nên Nguyễn Cửu Vân
cho tổ chức đắp lũy dài để phòng ngự.
Như vậy, việc đào kênh trước hết nhằm mục đích qn sự “lấy nước làm hào
vịng quanh lũy, để việc phòng thủ được vững vàng” [62, tr.111]. Chính từ việc đào
đất đắp lũy dài để phịng ngự mà lịch sử con kênh ra đời.
Con đường thủy này rất dài, khi đào, quân lính phải dựng thang trên cao để
đo đạc, hoạch định đường kênh. Vì thế, tại đây có một địa danh vẫn cịn lưu truyền
đến ngày nay như Vọng Thê (tục gọi là Thang Trông). Sở dĩ gọi là “Vọng Thê” vì
lúc bắt đầu đào sơng, người ta phải trèo lên thang, nhìn nhận những chỗ cần phải đo
đạc kinh dinh. Từ khi con kênh được đào, việc phòng thủ chắc chắn được đảm bảo
tốt hơn.


18

Con kênh được đào trước tiên với mục đích quân sự nhưng sau đó có vai trị
to lớn trong việc giao thông. Điều này đã được sử sách ghi chép lại rằng “nhân

đường nước lưu thông đào sâu mãi xuống thành ra đường kênh thuận tiện cho
thuyền bè” [62, tr.111]
Vì là con kênh nối liền hai dòng chảy nên trên đoạn kênh xuất hiện giáp
nước, nước chảy không thông. Qua một thời gian dài sử dụng mà không được tu bổ,
nạo vét, bùn cỏ chất chứa làm cho lòng kênh cạn, gây khó khăn cho việc đi lại.
Thêm vào đó, do chế độ nhật triều của sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây là như nhau
nên có tác động đến dòng chảy của kênh Vũng Gù. Tại đây khi triều xuống nước
thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức: “… đường sông từ Đông đến Tây xa cách, nên
đến chỗ Vọng Thê (tục gọi là Thang Trông) nước thủy triều giao hội làm chỗ giáp
nước, thế nước lênh đênh, khi lên, khi xuống, chảy mạnh, lại nhiều chỗ quanh queo
hẹp nhỏ, vậy nên bùn cỏ tích tụ, càng ngày càng bị cạn lấp” [11, tr.60]. Bia Phụng
khai tân cảng ký lập năm 1819 ghi: “Đường sơng này vốn có lúc nhiều khúc quanh
co, nhiều chỗ sâu cạn, nên ghe thuyền các loại khó đi” [102, 66]; sách Đại Nam
nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: “sông này nhiều chỗ quanh
co nhỏ hẹp, mỗi ngày một nông cạn dần” [62, tr.67].
Năm Kỉ Mão niên hiệu Gia Long thứ 18, vua Gia Long có chỉ dụ cho đào vét
lại con kênh. Người chỉ huy đốc suất lần này là Nguyễn Văn Phong - trấn thủ trấn
Định Tường. Ông huy động 9000 dân phu “đào từ Vọng Thê đến Húc Động dài 14
dặm, rộng 7 trượng 5 thước sâu 9 thước, cũng có chỗ đào kênh mới cho liên lạc với
sông” [62, tr.111].
Về con số dân phu được huy động đào thì có sự khác biệt đơi chút giữa các
tài liệu. Đại Nam nhất thống chí chép là 9000 dân phu [62, tr.111], sách Gia Định
thành thơng chí chép là 9.679 người [11, tr.60] trong khi bia Phụng khai tân cảng ký
ghi chỉ có 3.225 người [102, tr.67]. Thực ra, ghi chép của sách Gia Định thành
thơng chí và bia Phụng Khai không mâu thuẫn nhau. Sách Gia Định thành thơng chí
cho biết: “… đem 9.679 dân phu chia làm 3 phiên, thay nhau đào mở” [11, tr.60].
Như vậy con số 3.225 dân phu được ghi trong bia Phụng khai tân cảng ký là số


19


lượng dân phu của một phiên trong ba phiên đào mở. Vì thế con số chênh lệch chỉ là
4 người. Con số này chỉ chênh lệch khá lớn với ghi chép của Đại nam nhất thống
chí là 9000 người. Căn cứ vào những dữ liệu thu thập được, tác giả cho rằng lực
lượng dân phu lúc đó được huy động xê dịch khoảng trên dưới 9700 người là hợp lí.
Mỗi nhân lực lĩnh được mỗi tháng 1 quan tiền và một phương gạo. Cơng việc chính
của dân phu là nạo vét, mở rộng tuyến kênh đã có và đào nắn thẳng những đoạn
kênh khúc khuỷu. Về việc này, sách Gia Định thành thơng chí cho biết: “hoặc nhân
theo đường sơng cũ uốn nặn mà đào sâu rộng thêm; hoặc mở kênh mới để liên lạc”
[11, tr.60].
Kênh đào trong vòng 3 tháng thì hồn thành, bắt đầu từ tháng giêng đến
tháng 4 và từ đây vua Gia Long chính thức “ban cho tên là sông Bảo Định” [62,
tr.111]. Đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1841 - 1847), sông được đổi tên là Trí Tường
nhưng dân gian vẫn quen gọi là kênh Bảo Định hay kênh Trạm (vì có trạm sơng để
chuyển cơng văn của triều đình), vì thế sau này người Pháp gọi là kênh Bưu Điện Arroyo de la Poste.
Công trình đào xong “nhân dân lấy làm tiện lợi”, điều đó chứng tỏ con kênh
phát huy vai trị của nó trong việc phục vụ sản xuất, tưới tiêu, sinh hoạt, giao thông
đi lại của nhân dân mặc dù lúc ban đầu được đào vì mục đích qn sự. Kênh Bảo
Định ngồi việc nối với sơng Vàm Cỏ Tây ở phía Bắc và sơng Mỹ Tho ở phía Nam
cịn thơng lưu với 19 con sơng rạch tự nhiên ở phía Tây và phía Đơng, tạo nên hệ
thống kênh rạch tương đối dày đặc [102, tr.67]. Để khắc ghi cơng trình này vào lịch
sử, vua Gia Long đã cho dựng bia đá ở bờ sông nơi rừng Cát Phú, bia chép rằng
“Công sức ngày tháng đã bỏ ra để ngàn vạn năm tiện lợi, mưa nắng thuận hịa, cơng
sức của mn dân đã thành đạt, con đường giao thông được sửa chữa” [13, tr.31].
Từ khi hình thành, nhất là sau lần đào thứ hai, kênh Bảo Định là con đường
thủy quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa, văn thư, lúa gạo từ Đồng bằng
sơng Cửu Long về Sài Gịn để từ đó có thể đi các nơi khác.


20


1.2.2. Kênh mới Rạch Chanh
Kênh này cịn có tên là kênh mới Đặng Giang, theo Trương Vĩnh Ký trong
Tiểu giáo trình địa lí Nam Kỳ cịn gọi là kênh Bà Bèo.
Kênh đào năm 1785 thuộc trấn Định Tường. Vị trí kênh Rạch Chanh ngày
nay ở khu vực hai huyện Cai Lậy và Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Người tổ chức
đào là đô đốc Nguyễn Trấn của Tây Sơn. Đây là điểm khác biệt, khác với các kênh
đào được mô tả trong đề tài này đều do quan quân nhà Nguyễn đốc suất đào [13,
tr.35].
Việc đào kênh Rạch Chanh gắn liền với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ ở vùng
đất Nam Bộ khi mà quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh tranh chấp nhau quyết liệt ở đây.
Vị trí của kênh đào nằm giữa hai đầu con rạch tự nhiên là rạch Bà Rài (Ba
Lai Bắc) ở phía Nam chảy ra sơng Tiền và Rạch Chanh ở phía Bắc chảy ra sơng
Vàm Cỏ Tây. Sách Gia định thành thơng chí có ghi: “Ngày trước con kênh nhỏ
Sơng Chanh ở phía đơng, nguồn cùng Ba Lai ở phía Tây, khoảng giữa ấy bùn lầy
đất nhão, cỏ lác rậm rạp đến 57 dặm rưỡi. Đất ấy về phía nam có nhiều giồng gị
ruộng vườn. Về phía bắc có nhiều rừng sâu chằm lớn lan tràn tới năm sáu trăm
dặm…”[11, tr.58]. Địa bàn này là nơi hoạt động của đảng cướp do Đỗ Thành Nhân
cầm đầu. Vào thời điểm ấy, đây là lực lượng phò tá Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn.
Khi bị Tây Sơn truy đuổi, bọn chúng chạy vào khu vực chằm phá mênh mơng để
lẩn trốn.
Trước tình hình đó, năm Ất Tỵ (1785), sau khi đại phá quân Xiêm, đô đốc
Tây Sơn là Nguyễn Trấn đã huy động binh lính đào kênh nối liền hai đầu rạch Bà
Rài và Rạch Chanh, gọi là kênh mới Rạch Chanh. Mục đích của việc đào kênh là để
tiêu nước vùng sâu trũng làm mất đi hiểm địa của đảng cướp Đông Sơn. Sau này,
con kênh trở thành tuyến giao thông quan trọng thông từ sông Vàm Cỏ Tây sang
Tiền Giang.
Đến thời nhà Nguyễn, kênh Rạch Chanh được nạo vét cải tạo. Con kênh giáp
với Đồng Tháp Mười, nên dưới thời vua Minh Mạng, nó được nạo vét và mở rộng



21

thêm. Kênh Mới Rạch Chanh thông lưu với 7 con rạch tự nhiên ở phía Bắc và phía
Nam [102, tr.67].
Như vậy, các kênh đào lớn mang tính chiến lược của các chúa Nguyễn thực
hiện chủ yếu là để bảo vệ an ninh vùng đất mới được khai phá, từ Gia Định xuống
Tiền Giang và xuống thẳng vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên.
Bên cạnh các con kênh đào chiến lược do chúa Nguyễn và tướng lĩnh Tây
Sơn đốc suất thực hiện, nông dân các địa phương cũng chủ động thực hiện các con
kênh đào nhỏ. Nổi bật là các con kênh đào của tỉnh Tiền Giang.
Nông dân Tiền Giang đã tự mình lập ra những cơng trình thủy lợi nhỏ, phù
hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình ở đây và nhu cầu canh tác. Đây là hình thức
thủy lợi phổ biến thời bấy giờ. Để dẫn nước từ sông, rạch, kênh vào đồng ruộng,
người ta xẻ thêm nhiều con rạch ngắn, gọi là “cựa gà” và những con rạch dài hơn;
gọi là “xẻo”. Cơng việc này khơng địi hỏi phải có nguồn nhân lực đơng đảo mà chỉ
cần vài ba gia đình ở gần nhau hợp sức là đủ. Ở một số nơi, người ta thiết lập cống,
như cống Ơng Lánh ở thơn Tân Phước; cống Bà Chài ở thơn Tân Niên, cống Ơng
Điếu ở thơn Vĩnh Trị… Ngồi ra, người dân cịn xây dựng đập để giữ nước ngọt
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như đập Ông Chưởng, kéo dài từ thôn Yên
Luông Đông đến thôn Bình Lng Trung. Đập này, ngồi tác dụng giữ nước ngọt,
cịn nhằm ngăn nước mặn từ phía biển xâm nhập vào và phịng ngập lụt vì vào mùa
mưa nước lũ ở rạch tràn lên rất mạnh [102, tr.68].
Thời kì cuối các chúa Nguyễn do chiến tranh liên miên, khởi nghĩa nông dân
nổ ra khắp nơi, việc xây dựng các con kênh đào bị đình lại. Thêm vào đó, chiến
tranh giữa triều Tây Sơn và lực lượng của Nguyễn Ánh tiếp tục làm gián đoạn quá
trình khai thác Nam Bộ cũng như việc xây dựng các con kênh đào chiến lược ở
Đồng bằng Sông Cửu Long. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến với triều Tây
Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là Gia Long, việc thực hiện các con kênh đào
chiến lược ở khu vực này được nối lại.



×