Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn huyện kim động tỉnh hưng yên (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.31 KB, 7 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Tác giả thực hiện đề tài :“ Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý
chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên”. Bởi rác thải sinh
hoạt tại huyện Kim Động đang gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng tới đời sống, sản
xuất của người dân. Trong một vài năm trở lại đây, khi điều kiện kinh tế phát triển, nhiều
nhà máy xây dựng mới tại huyện Kim Động thu hút người ở địa phương khác tới làm
việc và sinh sống, khiến lượng rác thải sinh hoạt tăng mạnh, nhất là sự gia tăng mạnh mẽ
rác thải khơng có nguồn gốc hữu cơ, khơng phân hủy hay tái chế được, khiến tình hình ơ
nhiễm do rác thải sinh hoạt trở thành vấn đề nghiêm trọng. Kinh phí sự nghiệp môi
trường dành cho huyện không đáp ứng đủ nhu cầu của địa phương về công tác xử lý rác
thải. Theo “ Kế hoạch dự toán ngân sách sự nghiệp môi trường tỉnh Hưng Yên năm
2015” số 07/KH/STNMT ngày 15 tháng 7 năm 2014 thì ngân sách sự nghiệp môi
trường của tỉnh hiện nay chỉ đáp ứng chưa đến 20% nhu cầu của địa phương về công tác
xử lý rác thải sinh hoạt. Tồn huyện hiện có 41 điểm chôn lấp, 4 bãi tập kết rác thải sinh
hoạt rải rác trên địa bàn, gây khó khăn cho việc thu gom và xử lý tập trung, có hiệu
quả.Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt là một hướng giải
quyết thích hợp với địa phương. Trước thực trạng kinh phí sự nghiệp mơi trường dành
cho huyện Kim Động chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu, để giải quyết một cách có hiệu quả
và nhanh nhất việc ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt tại huyện Kim Động, việc
huy động sự quan tâm tham gia và đóng góp nhiều hơn từ phía người dân là yêu cầu cấp
bách. Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt là một hướng giải
quyết vấn đề thích hợp cho người dân và cơ quan chức năng huyện Kim Động.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu, đánh giá thực trạng, đề xuất định hướng và các giải pháp
nhằm khuyến khích, nâng cao ý thức, trách nhiệm và hiệu quả tham gia của cộng đồng
dân cư trong QLCTRSH tại huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Luận văn gồm những nội


dung chính sau: Chương 1, cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Chương 2, thực trạng tham gia của cộng đồng trong quản


lý chất thải rắn sinh hoạt ở huyện Kim Động. Chương 3, định hướng và giải pháp tăng
cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
3. Kết cấu luận văn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT
Trong chương 1 về cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của cộng đồng trong
quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Cộng đồng là khái niệm đã có từ lâu đời và được sử dụng
ngày càng rộng rãi. Theo FAO (1996), “cộng đồng” được hiểu là “những người sống tại
một chỗ trong một tổng thể”, hoặc là “một nhóm người sinh sống tại cùng một nơi theo
những luật lệ chung” . “Sự tham gia của cộng đồng” theo Clanrence Shubert là “quá trình
trong đó các nhóm dân cư của cộng đồng tác động vào quá trình quy hoạch, thực hiện,
quản lý sử dụng hoặc duy trì một dịch vụ, trang thiết bị hay phạm vi hoạt động. Các hoạt
động cá nhân khơng có tổ chức sẽ không được coi là sự tham gia của cộng đồng” . Như
vậy, “Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt” là “Việc người
dân được tham gia tư vấn ý kiến, tỏ thái độ và mối quan tâm của họ về vấn đề thu gom,
vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt tại chính địa bàn họ sinh sống” . Sự tham gia của
cộng đồng có thể thực hiện từ cấp độ 1 tới cấp độ 8, thơng qua các hình thức: cung cấp
thông tin, tham gia lãnh đạo, cung cấp các nguồn lực, quản lý và bảo dưỡng, kiểm tra và
đánh giá. Sự tham gia của người dân trong hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải
sinh hoạt là rất cần thiết vì khi người dân làm việc cùng nhau sẽ tăng tính hiệu quả, tăng
sự gắn kết, cơng khai, minh bạch cũng như giảm gánh nặng Ngân sách cho Nhà nước.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt
bao gồm các yếu tố thuộc về người dân, sự tham gia của các bên liên quan, các yếu tố xã
hội,.
Nhà nước ta đã bước đầu luật hóa sự tham gia của người dân trong công tác
QLCTRSH. Cụ thể: Hiến pháp 2013, luật BVMT 2014, Chiến lược BVMT quốc gia đến


năm 2010 và định hướng đến năm 2020,… đã quy rõ trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân
phát sinh chất thải rắn sinh hoạt, bước đầu cơng nhận vai trị của người dân trong quản lý

CTRSH. Nhà nước đã có chính sách khuyến khích người dân góp cơng sức, tiền bạc
trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH,…cụ thể trong Nghị định 04/2009/NĐCP, Quyết định 249/QĐ-TTg, Chỉ thị 29-CT/TW,…
Tại các nước phát triển như Nhật Bản, Philippines…thành công của công tác quản lý
chất thải rắn sinh hoạt là kết quả của sự kết hợp khăng khít giữa hộ dân cho tới các cơng
ty tư nhân và cơ quan chính phủ. Các cơ quan chính phủ và cơng ty tư nhân có sự lắng
nghe, tiếp thu ý kiến từ người dân để khắc phục các tồn tại. Ý thức của người dân có vai
trị quyết định trong sự thành cơng của công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Ở nước ta
hiện nay, sự tham gia của người dân trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt mới
chỉ ở khâu thu gom.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN
LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT Ở HUYỆN KIM ĐỘNG
CTRSH phát sinh từ các hoạt động hàng ngày của con người, được thu gom từ nhà
dân, các cơ quan đơn vị, trường học, chợ và các điểm bn bán, các nhà hàng kinh doanh
ăn uống,…Tồn huyện có 33.086 hộ với dân số khoảng: 113.858 người, trong đó dân số
nơng thơn là 103.000 người; ước tính lượng rác thải sinh hoạt phát sinh 0,4
kg/người/ngày; lượng CTRSH phát sinh khoảng: 42 tấn/ngày. CTRSH trên địa bàn
huyện được Công ty Cổ phầ n môi trư

ờng đô thị và công nghiệp số 11 ( Công ty

URENCO 11) thu gom, vận chuyển và xử lý tại khu chôn lấp hợp vệ sinh của Cơng ty
bằng nguồn kinh phí sự nghiệp mơi trường. Tổ vệ sinh môi trường huyện sử dụng ô tô
cuốn ép rác tiến hành thu gom rác thải thường xuyên tại 08 xã, thị trấn, còn 9 xã chưa tiến
hành thu gom rác thường xuyên, lượng rác thải phát sinh được vận chuyển đến các điểm
tập kết, ô chôn lấp ở địa bàn các xã. Do vậy, lượng rác thải sinh hoạt tồn đọng ở các xã là
tương đối lớn,ước tính sơ bộ tổng các xã cịn tồn đọng 6750 tấn rác thải sinh hoạt
Hiện nay, mức phí vệ sinh thu tại các xã dao động trong khoảng từ 3.000-10.000
đồng/người/tháng. Người dân cho rằng mức phí này là bình thường, tạm chấp nhận được.



Cơng tác tun truyền phổ biến các chủ trương, chính sách pháp luật về bảo vệ môi
trường tới cán bộ, nhân dân còn hạn chế. Nội dung được tuyên truyền tập trung vào các
vấn đề như: phân loại rác hữu cơ và cô cơ, đổ rác đúng giờ và địa điểm quy định, quét
dọn vệ sinh sáng chủ nhật hàng tuần....Sự tham gia của người dân trong việc QLCTRSH
ở địa phương mới chỉ dừng ở cấp bậc: được tham gia nhưng không được thông tin đầy
đủ, không được biết ý nghĩa cơng việc mà mình được phân cơng ( chiếm 81,7% tổng số
phiếu). Ở một số nơi, người dân đã có thái độ tích cực, tự giác, có tinh thần trách nhiệm
trong việc tham gia quét dọn đường làng, ngõ xóm vào ngày thứ 7 cuối tháng. Người dân
có mong muốn tham gia đóng góp tiền hoặc ngày cơng để hạn chế tình trạng ruồi, bọ,
mùi hơi thơi phát sinh ở ô chôn lấp trong trường hợp Nhà nước hỗ trợ chế phẩm sinh
học. Mơ hình “Phân loại, xử lý rác tại gia đình” đã bước đầu thử nghiệm thành cơng góp
phần tăng vai trị của cộng đồng trong việc xử lý CTRSH.
Bên cạnh đó vẫn cịn tình trạng người thu gom rác tự ý bỏ việc, hoặc không thu
gom rác theo đúng lịch.Thu gom rác thải được xếp vào danh mục nghề, công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm tuy nhiên người thu gom rác thải ngồi phí do người dân đóng
góp thì khơng được hưởng bất kỳ chế độ nào thêm. Thậm chí một số nơi khoản phí ấy
còn dùng để mua đồ bảo hộ ( găng tay, khẩu trang, mũ) hoặc mua dụng cụ thu gom (chổi,
xẻng). Thỏa thuận giữa người thu gom với thôn hầu hết mang tính chất tượng trưng, dựa
vào ý thức của người đi thu gom là chính. Tình trạng hộ gia đình khai ít người để giảm
tiền phí thu gom hoặc hộ gia đình khơng nộp tiền phí vẫn cịn tồn tại. Nguyên nhân của
việc này chủ yếu là do ý thức của hộ dân đó cịn kém, có trường hợp hộ gia đình cho rằng
mình vất rác ra ao, hồ,...xung quanh nhà nên không cần phải nộp tiền hoặc nhà chỉ có 1, 2
người thường xuyên ở nhà nên hầu như khơng xả rác, do đó khơng cần phải nộp tiền đầy
đủ. Chưa cơng khai minh bạch khoản phí thu gom. Sự tham gia của cộng đồng vào các
cơng trình cơ sở hạ tầng như đường vào ô chôn lấp, điểm tập kết; hay xây dựng ô chôn
lấp, điểm tập kết là rất ít. Ý kiến của người dân chỉ mang tính chất tham khảo. Cộng đồng
chưa có tiếng nói trong khâu lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát đánh giá khi xây
dựng ô chôn lấp, điểm tập kết. Chưa có biện pháp làm giảm sự phát sinh ruồi, bọ, mùi hôi
phát sinh từ thùng/hố ủ phân compost. Một số hộ dân lấy thùng ủ phân compost về để



dùng cho mục đích khác như: đựng cám cị, đựng rác có thể tái chế được, .... thậm chí có
hộ cịn lấy về nhưng để khơng thùng.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA
CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT
Trong thời gian tới, định hướng tăng cường tham gia của người dân trong
QLCTRSH trên địa bàn huyện cần chú trọng những quan điểm sau: Một là, nâng cao
nhận thức của người dân, giúp người dân nhận thức rõ việc thu gom, vận chuyển, xử lý
CTRSH là việc chung của cả chính quyền và cộng đồng. Hai là, nâng cao vị thế, tiếng
nói của người dân trong việc QLCTRSH ở địa phương. Ba là, xây dựng chính sách, biện
pháp cụ thể khuyến khích người dân tham gia vào việc QLCTRSH.
*Các giải pháp tăng cường tham gia của người dân trong trong QLCTRSH
Nâng cao kiến thức và nhận thức của người dân thông qua tăng cường tuyên truyền,
phổ biến kiến thức về QLCTRSH qua hệ thống phát thanh của xã, cán bộ cơ sở, những
người có uy tín trong thơn,xã. Cơng tác tun truyền, phổ biến kiến thức phải được thực
hiện đều đặn, liên tục trong khoảng thời gian dài. Thành lập tổ tự quản để kiếm tra,giám
sát, đôn đốc việc thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt. Thảo luận, xây dựng nội
dung cam kết giữ gìn vệ sinh mơi trường. Xây dựng chế tài xử phạt rõ ràng, công khai đối
với các trường hợp cố tình vứt rác thải sinh hoạt bừa bãi gây mất mỹ quan, ảnh hưởng tới
môi trường.
Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở. Cán bộ làm công tác môi trường tại các
địa phương đều được các cộng đồng người dân đánh giá cao về sự nhiệt tình, tận tụy
trong cơng việc. Tuy nhiên, trình độ chun mơn, khả năng tun truyền của họ vẫn cịn
hạn chế. Một số cán bộ trẻ có chuyên môn nhưng lại thiếu kinh nghiệm nên khả năng
tuyên truyền, vận động bị hạn chế. Do vậy, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ làm công tác môi trường cần được tiến hành theo chiến lược dài hạn, bám sát với tình
hình thực tế địa phương.
Chính sách hỗ trợ cho tổ thu gom rác: Thu gom rác thải được xếp vào danh mục
nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm tuy nhiên người thu gom rác thải ngoài



phí do người dân đóng góp thì khơng được hưởng bất kỳ chế độ nào thêm. Thậm chí
một số nơi khoản phí ấy cịn dùng để mua đồ bảo hộ ( găng tay, khẩu trang, mũ) hoặc
mua dụng cụ thu gom (chổi, xẻng). Thực tế hiện nay là chưa có chính sách hỗ trợ cho
người thu gom rác tại địa phương. Vì vậy, để người thu gom có động lực đóng góp và
cống hiến, cần phải có mức phụ cấp cho người thu gom, cần phải trích ngân sách mơi
trường để mua bảo hiểm y tế cho người thu gom.
Phân cấp và trao quyền: Hiện nay cơ chế phân cấp trong việc QLCTRSH còn
nhiều bất cập. Cộng đồng chưa được phân cấp cũng như cung cấp đầy đủ thông tin
thực hiện những hoạt động của chương trình mà họ tham gia. Vì vậy, dẫn tới tình trạng
người dân thực hiện đối phó, mang tính hình thức gây thất thống, lãng phí về nguồn
lực, mất đồn kết nội bộ. Vì vậy, cần phân cấp và trao quyền mạnh hơn cho người dân
thực hiện những hoạt động trong việc QLCTRSH mà người dân có khả năng đảm
đương được. Năng lực của cộng đồng đến đâu thì phân cấp, trao quyền đến đó. Để
phân cấp và trao quyền hiệu quả cần gắn liền phân cấp trao quyền với nâng cao năng
lực tham gia của người dân.
Nhân rộng mơ hình “ Phân loại, xử lý rác tại gia đình”. Mơ hình “ Phân loại, xử
lý rác tại gia đình” là một hướng đi đúng đắn, cần thiết trong QLCTRSH tại huyện
Kim Động hiện nay. Bởi lẽ, dân số ngày càng tăng khiến cho lượng CTRSH ngày càng
nhiều trong khi kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước có hạn, diện tích đất khơng tăng
thêm, quỹ đất cơng ngày càng eo hẹp nên tính về lâu dài thì khơng thể dùng duy nhất
một biện pháp chơn lấp. Mơ hình “ Phân loại, xử lý rác tại gia đình” giúp giảm thiểu
rác phải đem đi chơn lấp ngay từ ban đầu. Khơng chỉ vậy cịn tạo ra nguồn phân bón
hữu cơ dành cho sản xuất nơng nghiệp với kinh phí thấp do tận dụng nguồn nguyên
liệu sẵn có là những rác thải hữu cơ của chính hộ gia đình.
Những kết quả đạt được từ luận văn là, tác giả đã tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn
về sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Qua việc tìm hiểu về
thực trạng tham gia của cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở huyện Kim
Động, tác giả đã đề xuất định hướng và giải pháp tăng cường sự tham gia của cộng đồng



phù hợp với thực tiễn địa phương. Trong đó, cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tham gia của
cộng đồng trong QLCTRSH được làm rõ về định nghĩa, các yếu tố ảnh hưởng. Tác giả đã
nêu, phân tích những kinh nghiệm huy động thành công sự tham gia của cộng đồng trong
QLCTRSH của một số nước phát triển như Nhật Bản, Philippins; cũng như một số mơ
hình có sự tham gia của người dân tại một số tỉnh của nước ta. Qua đó rút ra kinh nghiệm
để áp dụng đối với điều kiện thực tế trên địa bàn huyện Kim Động. Đối với địa bàn
nghiên cứu, tác giả đã kết luận sự tham gia của người dân mới chỉ có mặt ở khâu thu
gom, và mức độ tham gia chỉ đạt ở bậc 3 : “ Được tham gia nhưng không được thông tin
đầy đủ, không được biết ý nghĩa cơng việc mà mình được phân cơng”. Dựa trên cơ sở lý
luận, thực trạng tác giả đã đề xuất định hướng và giải pháp tăng cường sự tham gia của
cộng đồng trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Luận văn cịn nhiều thiếu sót về nội dung nghiên cứu. Những hạn chế mà đề tài gặp
phải: Thứ nhất, do sử dụng số liệu thứ cấp mà chính quyền địa phương cung cấp trong
các báo cáo, kế hoạch, quy hoạch cũng như sự trung thực trong việc trả lời phiếu điều tra
ở các hộ dân, nên không thể tránh khỏi việc thiếu sót. Thứ hai, một số giải pháp tác giả
chỉ nêu ra mà phân tích cụ thể vì hạn chế về năng lực chuyên môn. Tác giả mong nhận
được những góp ý bổ sung thêm từ các nhà khoa học, thầy cơ giáo để luận văn hồn thiện
hơn.



×