Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Giải pháp phát triển văn hóa doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 90 trang )

_1_

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Văn hoá doanh nghiệp chính là tài sản vơ hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hố doanh
nghiệp là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng khơng ít khó khăn.
Văn hố doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn
hố, ngơn ngữ, tư liệu, thơng tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp
đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của WTO, do vậy mọi hoạt động của nền kinh tế theo “sân chơi”
chung của thế giới với những luật lệ mới, cho nên các doanh nghiệp cũng phải
đủ mạnh để tự tin và hoà nhập.
Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới.
Tồn cầu hóa kinh tế địi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những
lựa chọn đúng đắn và sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn
hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút tinh hoa của
nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp nhưng phù hợp với tình hình và bản
sắc văn hóa Việt Nam.
Q trình tồn cầu hóa đem đến cho các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều
cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với khơng ít thách thức. Nền thị trường đầy biến
động, cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể đứng vững, tồn tại và phát triển
trong hồn cảnh đó, các doanh nghiệp cần phải biết phát huy mọi nguồn lực của
mình. Cùng với vốn, cở sở vật chất, khoa học kỹ thuật… thì vấn đề xây dựng và
phát triển văn hóa doanh nghiệp là vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay của mọi


_2_


doanh nghiệp bởi vì khi xây dựng doanh nghiệp, nhiều người chỉ chú trọng đến
vấn đề cơ cấu, tổ chức, nhân sự và thị trường. Có người lại chỉ coi trọng yếu tố
giao tiếp làm mục tiêu để xây dựng văn hố. Nhưng đó mới chỉ là một phần để
đánh giá về sự hoạt động của doanh nghiệp và là một phần để cấu thành văn hoá
doanh nghiệp. Những ai nhận thức sâu sắc về giá trị của một doanh nghiệp tồn
tại thì phải đánh giá về cái gọi là: tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của doanh
nghiệp đó. Vì vậy cần coi văn hố doanh nghiệp như là tơn chỉ mục đích của
doanh nghiệp, vì nó sẽ đảm bảo sự trường tồn của doanh nghiệp, là tâm niệm về
mục đích sống của doanh nghiệp đó.
Vì những lý do đó tơi chọn đề tài “Giải pháp phát triển văn hoá doanh
nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp trên địa bàn
Tp.Đà Lạt nhằm tìm hiểu và phân tích đánh giá thực trạng văn hóa doanh
nghiệp của các doanh nghiệp. Đồng thời đề xuất một số giải pháp về phát triển
văn hóa doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 nhằm
góp phần hồn thiện định hướng phát triển các doanh nghiệp một cách chủ
động, toàn diện và bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp trên
địa bàn thành phố Đà Lạt.
Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề văn hoá doanh nghiệp trong các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Lạt thời gian từ năm 2006 – 2009 và định
hướng phát triển Văn hóa tại các doanh nghiệp đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu và đánh giá các vấn đề trong
đề tài chủ yếu dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, vận dụng một
cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
- Phương pháp chuyên gia: Khảo sát hiện trạng - thu thập và xử lý các thông
tin, mô tả các số liệu…



_3_

5. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về văn hoá trong doanh nghiệp tại thành phố Đà
Lạt thời gian từ năm 2006 – 2009.
Chương 3: Giải pháp phát triển Văn hoá doanh nghiệp trong các doanh
nghiệp tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020.


_4_

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm về văn hóa, văn hố kinh doanh:
1.1.1. Văn hố
Văn hoá là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh
và bản chất của con người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên
các chuẩn mực: chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của cá nhân
và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị,
những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ hai, cái nôi nuôi dưỡng sự hình
thành nhân cách con người.
Theo nhà nhân chủng học E.B Tylor nêu: “văn hoá là một tổng thể phức
tạp bao gồm các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và
tồn bộ những kỹ năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành
viên của một xã hội”; ông Frederico Mayor, tổng giám đốc UNESCO đã định
nghĩa: “văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc

khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục,
tập quán, lối sống và lao động”.
Để tạo điều kiện cho định hướng tiếp cận văn hóa, năm 1977 UNESCO đã
cho xuất bản tác phẩm Hiểu biết để hành động, trong đó có đoạn viết: “Văn hóa
là yếu tố cơ bản cho sức sống một dân tộc, từ những hoạt động sáng tạo của
nhân dân đến sức sống tổng hợp của một xã hội, những phương thức sản xuất và
sở hữu, những của cải vật chất, những hình thái tổ chức…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt


_5_

hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh: tồn tập, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t3, trang 431). Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã miêu tả văn hóa bằng những thành tố của nó. Người đã nhìn văn hóa là
phương thức để con người tồn tại và phát triển. Văn hóa có mặt trong tất cả các
hoạt động của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất hay sản xuất giá
trị tinh thần, trong quan hệ giao tiếp, ứng xử trong xã hội hay thái độ ứng xử với
thiên nhiên.
Các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai dạng: văn hoá cá nhân và văn
hoá cộng đồng. Văn hố cá nhân là tồn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ
vào mỗi cá nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của cá nhân ấy
trong đời sống thực tiễn. Văn hoá cộng đồng là văn hố của một nhóm xã hội, nó
khơng phải là số cộng giản đơn của văn hoá cá nhân - thành viên của cộng đồng
xã hội ấy. Trong hoạt động doanh nghiệp thì “văn hố doanh nhân” là thuộc

dạng văn hố cá nhân, cịn “văn hóa doanh nghiệp” là thuộc dạng văn hoá cộng
đồng.
Thực chất văn hoá là hệ thống các giá trị được sản sinh ra trong xã hội
nhất định, được đặc trưng bởi hình thái kinh tế xã hội nhất định, bao gồm cả giá
trị vật chất và tinh thần. Con người luôn vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ
đó là văn hố, văn hố có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân
cũng như toàn bộ cộng đồng. Nội lực của một dân tộc trước hết là mọi nguồn lực
tập hợp từ vốn văn hố truyền thống đã tích luỹ trong lịch sử của chính dân tộc đó.
Văn hố được phân thành văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần hay nói
đúng hơn theo cách phân loại này có văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể.
Văn hố và kinh doanh lại có mối quan hệ qua lại gắn bó mật thiết với
nhau: văn hố và kinh doanh đều có mục tiêu chung là phục vụ con người, văn
hoá là nguồn lực lớn cho kinh doanh, tuy nhiên mục tiêu ngắn hạn của văn hoá
và kinh doanh lại có thể trái ngược nhau, nếu kinh doanh chỉ chạy theo lợi nhuận
trước mắt thì sẽ gây tác hại cho văn hố, xói mịn bản sắc văn hố dân tộc, khi


_6_

nền văn hố mang những yếu tố khơng phù hợp sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển
của kinh doanh.
Bởi vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
1.1.2. Văn hoá kinh doanh:
Trong hội nhập kinh tế thế giới đã nhấn mạnh đến yếu tố Văn hóa trong
kinh doanh, thuật ngữ VHKD mới chỉ xuất hiện thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
VHKD là các giá trị văn hố thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản
phẩm, trong thông tin quảng cáo về sản phẩm, trong cửa hàng bày bán sản phẩm,
trong cách giao tiếp ứng xử của người bán đối với người mua, trong tâm lý và thị

hiếu tiêu dùng, rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh với toàn
bộ các khâu, các điều kiện liên quan của nó… nhằm tạo ra những chất lượng hiệu quả kinh doanh nhất định. Nếu căn cứ vào tính cố hữu, mức độ thay đổi
được của hệ thống các giá trị văn hố trong kinh doanh thì có thể nói, VHKD
của một quốc gia được cấu thành bởi ba yếu tố là: văn hố doanh nhân (trình độ,
năng lực, đạo đức nghề nghiệp, phẩm hạnh làm người… của những người tham
gia sản xuất kinh doanh), văn hoá thương trường (tính chất của sự cạnh tranh, cơ
cấu tổ chức, hệ thống pháp chế… liên quan đến môi trường kinh doanh của một
quốc gia) và văn hoá doanh nghiệp - bộ phận có vai trị, vị trí mang tính quyết
định, là đầu mối trung tâm của quá trình xây dựng VHKD.
Như vậy, ngồi những đặc trưng của văn hố (tính tập quán, tính cộng
đồng cao, tính dân tộc, tính lịch sử, tính tiến hố, tính chủ quan, tính khách quan
(được hình thành từ quá trình lịch sử tất yếu), tính kế thừa, và tính có thể học hỏi
được). Nói chung, VHKD còn mang một số đặc trưng khác: VHKD xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của hàng hoá và thị trường, VHKD ln phù hợp với trình
độ kinh doanh của Quốc gia.
Tiến sĩ Võ Quang Trọng - Viện nghiên cứu văn hóa: Nói đến văn hóa
doanh nhân là đề cập đến cái đẹp, cái đúng, cái tốt, cái lợi. Mục đích kiếm tiền
phải hướng tới các giá trị văn hóa. Hay nói cách khác thì ngồi lợi ích kinh tế


_7_

cịn có sự giao tiếp ứng xử giữa con người với con người. Khi nói văn hóa doanh
nhân cũng có nghĩa là người kinh doanh có văn hóa. Và bản chất của văn hóa
trong kinh doanh gắn với văn hóa đạo đức. Kinh doanh phải trung thực, không
chạy theo lợi ích cá nhân để dối trá, lừa đảo, kinh doanh phải có trách nhiệm với
xă hội.
1.2. Văn hố doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Văn hố doanh nghiệp được hiểu là tồn bộ các quy tắc ứng xử, cách nghĩ,

chuẩn mực, đường lối kinh doanh... có tác dụng đặt dấu ấn tới hành vi, thái độ,
niềm tin và quan hệ của các thành viên, cao hơn nữa là hình ảnh của một doanh
nghiệp trên thương trường.
Văn hoá doanh nghiệp là một khái niệm mới xuất hiện gần đây trong hệ
thống các thuật ngữ kinh tế, xã hội và quản lý. Đồng thời với sự xuất hiện này là
rất nhiều quan điểm về định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau về khái niệm này.
Doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất và làm dịch vụ. Mọi
hoạt động sản xuất đều gắn liền với một dây chuyền công nghệ nhất định. Để
vận hành được các khâu của dây chuyền này, trong DN phải có hệ thống tổ chức,
quản lý thật chặt chẽ từ khâu đầu đến khâu cuối. Điều này có nghĩa là trong các
hoạt động của DN, mọi người đều phải tuân theo những giá trị – chuẩn mực cụ
thể nào đó và thực hiện theo những “khn mẫu văn hoá” nhất định. Như vậy,
mỗi DN hoặc tổ chức kinh doanh là một khơng gian văn hố. VHDN là tồn bộ
giá trị văn hố được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của
một DN, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu
vào hoạt động của DN ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi
thành viên của DN trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. Tồn bộ
những giá trị tinh thần mà DN tạo ra trong quá trình SXKD tác động tới tình
cảm, lý trí và hành vi của các thành viên cũng như sự phát triển bền vững của
DN. VHDN gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển cho
đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó, rất phong phú, đa dạng.
Song văn hố doanh nghiệp cũng khơng phải là vơ hình, khó nhận biết mà rất


_8_

hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh
doanh giao tiếp của công nhân, cán bộ trong DN, mà cả trong hàng hoá và dịch
vụ của DN, từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. VHDN là cơ sở
của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong SXKD của DN, chi phối kết

quả SXKD của DN.
Khái niệm văn hóa lại được đề cập nhiều trong thực tế đời sống chúng ta
hiện nay. Bởi vì khi nói đến văn hóa là nói đến ý thức, cái gốc tạo nên tính người
cũng những gì thuộc về bản chất làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo
trong cuộc sống trong sản xuất kinh doanh. Văn hóa cịn là nội lực để con người
điều chỉnh cải tạo cuộc sống. Văn hóa có tác dụng tích cực đối với sự phát triển
của mỗi cá nhân cũng như một tổ chức, một xã hội. Nhà xã hội học người Mỹ
E.H. Schein đưa ra định nghĩa: “VHDN là tổng thể những thủ pháp và quy tắc
giải quyết vấn đề thích ứng bên ngồi và thống nhất bên trong các nhân viên,
những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vấn đề cấp thiết trong hiện tại.
Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân
viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các
thành viên của tổ chức DN không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc
và thủ pháp ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu. VHDN là một hệ thống
những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được
mọi thành viên của một tổ chức đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến
cách thức hành động của các thành viên, đó là tổng hợp những quan niệm chung
mà các thành viên trong cơng ty học được trong q trình giải quyết các vấn đề
nội bộ và xử lý các vấn đề với mơi trường xung quanh. Điều đó có nghĩa là trong
DN tất cả các thành viên đều gắn bó với nhau bởi những tiêu chí chung trong
hoạt động kinh doanh. Chức năng chủ yếu của VHDN là tạo nên sự thống nhất
của mọi thành viên trong DN. Ngoài ra, văn hố doanh nghiệp cịn đảm bảo sự
hài hồ giữa lợi ích tập thể với lợi ích cá nhân và giúp cho mỗi cá nhân thực hiện
vai trị của mình theo đúng định hướng chung của DN. Nhìn chung, VHDN động
viên nghị lực và ý chí của các thành viên trong DN và hướng tinh thần đó vào
việc phấn đấu cho mục đích của DN.
Mọi tổ chức đều có văn hóa và những giá trị độc đáo riêng của nó. Hầu


_9_


hết các tổ chức đều không tự ý thức là phải cố gắng để tạo ra một nền văn hóa
nhất định của mình. Văn hóa của một tổ chức thường được tạo ra dựa trên
những tiêu chuẩn của những người điều hành đứng đầu hay những người sáng
lập ra tổ chức đó.
Như vậy, nội dung của văn hố doanh nghiệp khơng phải là một cái gì đó
tự nghĩ ra một cách ngẫu nhiên, nó được hình thành trong q trình hoạt động
kinh doanh thực tiễn, trong quá trình liên hệ, tác động qua lại và có quan hệ, như
một giải pháp cho những vấn đề mà môi trường bên trong và bên ngoài đặt ra
cho DN. VHDN thể hiện được những nhu cầu, mục đích và phương hướng hoạt
động kinh doanh của DN, tạo cho DN có được màu sắc riêng, tức là nhân cách
hóa DN đó. VHDN là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong
sản xuất kinh doanh của DN, chi phối kết quả kinh doanh của DN. Chính vì vậy,
có thể nói thành công hoặc thất bại của các DN đều gắn với việc có hay khơng
có văn hố doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này.
Những thành công của doanh nghiệp có bền vững hay khơng là nhờ
vào nền VHDN rất đặc trưng của mình. Bên cạnh vốn, chiến lược kinh doanh thì
sức mạnh của văn hố doanh nghiệp đã bám sâu vào trong từng nhân viên, làm
nên sự khác biệt giữa doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh. Sự khác biệt đó được
thể hiện ra ở những tài sản vơ hình như: sự trung thành của nhân viên, bầu
khơng khí của doanh nghiệp như một gia đình nhỏ, tệ quan liêu bị đẩy lùi và
khơng cịn đất để tồn tại, xố bỏ sự lề mề trong q trình thảo luận và ra các
quyết định quản lý, sự tin tưởng của nhân viên vào các quyết định và chính sách
của doanh nghiệp, tinh thần đồng đội trong mọi công việc của doanh nghiệp...
Sự cống hiến, lòng tận tụy và trung thành của từng nhân viên trong
doanh nghiệp, nền văn hoá doanh nghiệp đã mang lại lợi thế cạnh tranh vô
cùng quan trọng. VHDN tạo nên sự khác biệt, đồng thời VHDN là một giá trị
tinh thần và là một tài sản vơ hình của doanh nghiệp.
Văn hố doanh nghiệp bao gồm các yếu tố pháp luật và đạo đức. Văn
hoá doanh nghiệp khơng thể hình thành một cách tự phát mà phải được hình

thành thơng qua nhiều hoạt động của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh
nhân, của Nhà nước và các tổ chức xã hội.


_ 10 _

Tóm lại, có thể hiểu văn hóa doanh nghiệp bao gồm các giá trị, chuẩn
mực, niềm tin, sự thừa nhận, đồng thời là lịch sử, các nghi lễ, và các yếu tố
khác cấu thành lên doanh nghiệp như: logo, bảng hiệu, trụ sở… tất cả các yếu
tố này tồn tại khách quan trong quá trình hoạt động, phát triển của doanh
nghiệp và nó chi phối các hành vi và ứng xử của các thành viên trong doanh
nghiệp. Mỗi người hiểu văn hoá doanh nghiệp theo một cách, nhưng dù là theo
cách nào đi nữa, cũng khơng ngồi mục đích cuối cùng là tạo ra một niềm tin đối
với khách hàng, tạo môi trường làm việc tốt nhất, thuận lợi nhất, tạo niềm tin
cho nhân viên, để họ làm việc tốt hơn và gắn bó với cơng ty. Như vậy, xây dựng
văn hố doanh nghiệp khơng đơn thuần là liệt kê ra các giá trị mình mong muốn
mà địi hỏi sự nỗ lực của tất cả các thành viên, sự khởi xướng, cổ vũ, động viên
của lãnh đạo.
Như vậy: Văn hố doanh nghiệp là tồn bộ những nhân tố văn hoá được
doanh nghiệp chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh,
tạo nên bản sắc kinh doanh của doanh nghiệp đó.
1.2.2. Các cấp độ của Văn hóa doanh nghiệp:
Văn hố doanh nghiệp được hình thành từ mỗi con người đang hoạt động
trong doanh nghiệp và bản thân họ là những tế bào của một nền văn hoá, chịu sự
ảnh hưởng trực tiếp từ nền văn hoá dân tộc. VHDN thể hiện trong hành vi giao
tiếp của công nhân, cán bộ trong DN, mà cả trong hành hoá và dịch vụ của DN,
từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. Những tính chất của VHDN
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng thường hướng tới việc hình
thành một tập hợp các khuôn mẫu hành vi được áp dụng trong các mối quan hệ
xã hội trong tổ chức. Những khuôn mẫu hành vi này có thể được sử dụng để

phản ánh bản sắc VHDN. Văn hoá trong một DN tồn tại ở ba cấp độ:
1.2.2.1. Cấp độ thứ nhất: Cấp độ bề mặt biểu hiện cấu trúc hữu hình
của doanh nghiệp là những gì mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy, nghe thấy,
sờ thấy ví dụ như phong cách, màu sắc, kiểu dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi,
trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ… những biểu trưng trực quan này thể
hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi


_ 11 _

thành viên và những người hữu quan có thể cảm nhận được; Nhóm này được ví
là vịng bên ngồi cùng của cây gỗ. Các yếu tố của nhóm này dễ nhìn thấy. Xếp
vào nhóm này là các yếu tố liên quan đến cách kiến trúc trụ sở của doanh
nghiệp, cách tổ chức không gian làm việc, trang phục của thành viên trong
doanh nghiệp, dịng chảy thơng tin trong tổ chức đi như thế nào, ngôn ngữ sử
dụng trong các thông điệp...
Nếu doanh nghiệp đưa ra tuyên bố về giá trị mà doanh nghiệp đề cao là sự
hợp tác, chia xẻ. Nhưng kiến trúc trụ sở lại toát lên sự đề cao quyền uy, không
gian làm việc bị xẻ nhỏ, đóng kín, nhà để xe thì lộn xộn, tùy tiện... Sự hiện diện
như vậy của các yếu tố hữu hình như vậy cho thấy rõ ràng các giá trị mà lãnh
đạo doanh nghiệp muốn đề cao chưa được các thành viên chia sẻ, áp dụng. Hoặc,
nó chưa được lãnh đạo và cấp quản lý trung gian chuyển tải vào các hoạt động
của doanh nghiệp. Ngược lại, trong điều kiện mơi trường bên ngồi thay đổi, thì
nhóm u tố vịng ngoài cùng này sẽ chịu tác động trước hết và nói dễ thay đổi
hơn các nhóm ở vịng trong. Khi các nhóm ở các vịng bên ngồi so với lõi trong
cùng thay đổi trong một thời gian dài, đến lúc nào đó sẽ làm suy thối giá trị
được ví như lõi trong cùng của thớ gỗ. Đến lúc đó thì văn hóa của doanh nghiệp
đã thay đổi một cách tự phát. Sự thay đổi này có thể phù hợp hoặc cản trở mục
tiêu, nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Áp dụng cấu trúc văn hóa vừa nêu trên vào các doanh nghiệp sẽ thấy

khơng có doanh nghiệp nào lại khơng có văn hóa của mình. Song điều khiến ta
quan tâm là ở chỗ: Văn hóa doanh nghiệp là “luật” khơng thành văn quy định
cách thức thực sự mà con người đối xử với nhau hàng ngày trong tổ chức, cách
thức thực sự mà doanh nghiệp giải quyết công việc, đáp ứng nhu cầu khách
hàng. Văn hóa doanh nghiệp ăn sâu vào niềm tin nên có vai trị quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức. Nhóm yếu tố hữu hình bao gồm:
Đặc điểm kiến trúc: bao gồm kiến trúc ngoại thất và thiết kế nội thất công
sở. Từ sự tiêu chuẩn hóa về màu sắc, kiểu dáng của bao bì đặc trưng, thiết kế nội
thất như mặt bằng, quầy, bàn ghế, phòng, giá để hàng, lối đi, loại dịch vụ, trang
phục… đến những chi tiết nhỏ như vị trí cơng tắc điện, thiết bị và vị trí của
chúng trong phòng vệ sinh… Tất cả đều được sử dụng để tạo ấn tượng thân


_ 12 _

quen, thiện chí và được quan tâm. Sở dĩ như vậy là vì kiến trúc ngoại thất có thể
có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi con người về phương diện cách thức giao
tiếp, phản ứng và thực hiện cơng việc. Hơn nữa, cơng trình kiến trúc có thể được
coi là một “linh vật” biểu thị một ý nghĩa, giá trị nào đó của một tổ chức (chẳng
hạn: giá trị lịch sử gắn liền với sự ra đời và trưởng thành của tổ chức, các thế hệ
nhân viên…), xã hội, cịn các kiểu dáng kết cấu có thể được coi là biểu tượng
cho phương châm chiến lược của tổ chức.
Nghi lễ: Đó là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ
lưỡng, các hoạt động, sự kiện văn hố - xã hội chính thức, nghiêm trang, tình
cảm được thực hiện định kỳ hay bất thường nhằm thắt chặt mối quan hệ tổ chức
và thường được tổ chức vì lợi ích của những người tham dự. Những người quản
lý có thể sử dụng nghi lễ như một cơ hội quan trọng để giới thiệu về những giá
trị được tổ chức coi trọng, để nhấn mạnh những giá trị riêng của tổ chức, tạo cơ
hội cho mọi thành viên cùng chia sẻ cách nhận thức về những sự kiện trọng đại,
để nêu gương và khen tặng những tấm gương điển hình đại biểu cho những niềm

tin và cách thức hành động cần tôn trọng của tổ chức. Có bốn loại nghi lễ cơ
bản: chuyển giao (khai mạc, giới thiệu thành viên mới, chức vụ mới, lễ ra mắt..),
củng cố (lễ phát phần thưởng..), nhắc nhở (sinh hoạt văn hố, chun mơn…),
liên kết (lễ hội, liên hoan, tết…).
Giai thoại: Thường được thêu dệt từ những sự kiện có thực được mọi
thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại với những thành viên mới.
Nhiều mẩu chuyện kể về những nhân vật anh hùng của DN như những mẫu hình
lý tưởng về những chuẩn mực và giá trị VHDN. Một số mẩu chuyện trở thành
những giai thoại do những sự kiện đã mang tính lịch sử. Một số khác có thể trở
thành huyền thoại chứa đựng những giá trị và niềm tin trong tổ chức và không
được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế. Các mẩu chuyện có tác dụng
duy trì sức sống cho các giá trị ban đầu của tổ chức và giúp thống nhất về nhận
thức của tất cả mọi thành viên.
Biểu tượng: Là một thứ gì đó mà biểu thị một cái gì đó khơng phải là
chính nó và có tác dụng giúp cho mọi người nhận ra hay hiểu được thứ mà nó
biểu thị. Các cơng trình kiến trúc, lễ nghi, giai thoại, khẩu hiệu đều chứa những


_ 13 _

giá trị vật chất cụ thể, hữu hình, các biểu trưng này đều muốn truyền đạt những
giá trị, ý nghĩa tiềm ẩn bên trong cho những người tiếp nhận theo cách thức khác
nhau. Một biểu tượng khác là logo hay một tác phẩm sáng tạo được thiết kế để
thể hiện hình tượng về một tổ chức, một DN bằng ngôn ngữ nghệ thuật phổ
thông các biểu tượng vật chất này thường có sức mạnh rất lớn vì chúng hướng sự
chú ý của người thấy nó vào một vài chi tiết hay điểm nhấn cụ thể có thể diễn
đạt được giá trị chủ đạo mà tổ chức, DN muốn tạo ấn tượng, lưu lại hay truyền
đạt cho người thấy nó. Logo là loại biểu trưng đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất
lớn nên được các tổ chức, DN rất chú trọng.
Ngôn ngữ, khẩu hiệu: Nhiều tổ chức, DN đã sử dụng những câu chữ đặc

biệt, khẩu hiệu, ví von, ẩn dụ hay một sắc thái ngôn ngữ để truyền tải một ý
nghĩa cụ thể đến nhân viên của mình và những người hữu quan. Khẩu hiệu là
hình thức dễ nhập tâm và được không chỉ nhân viên mà cả khách hàng và nhiều
người khác luôn nhắc đến. Khẩu hiệu thường rất ngắn gọn, hay sử dụng các
ngôn từ đơn giản, dễ nhớ; do đó đơi khi có vẻ “sáo rỗng” về hình thức. Khẩu
hiệu là cách diễn đạt cô đọng nhất của triết lý hoạt động, kinh doanh của một tổ
chức, một cơng ty. Vì vậy, chúng cần được liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của
tổ chức, công ty để hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng.
Ấn phẩm điển hình: Là những tư liệu chính thức có thể giúp những người hữu
quan có thể nhận thấy rõ hơn về cấu trúc văn hoá của một tổ chức. Chúng có thể
là bản tuyên bố sứ mệnh, báo cáo thường niên, tài liệu giới thiệu về tổ chức,
công ty, sổ vàng truyền thống, ấn phẩm định kỳ hay đặc biệt, tài liệu quảng cáo
giới thiệu sản phẩm và công ty, các tài liệu, hồ sơ hướng dẫn sử dụng, bảo
hành…
1.2.2.2. Cấp độ trung gian: Những giá trị được tuyên bố là sự tổng hòa
của quan niệm chiến lược, mục tiêu, giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh
doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc
chế độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Nhóm
yếu tố giá trị có thể được hiểu như sau:
Có thể ví như lõi trong cùng của cây gỗ được cưa ngang. Phải trồng cây gỗ
nhiều năm mới có được lõi gỗ và nó là phần rắn nhất trong cây gỗ. Gía trị văn


_ 14 _

hóa của một tổ chức cũng vậy. Tạo dựng được giá trị phải mất nhiều năm và giá
trị chỉ khẳng định được sự xác lập của nó thơng qua việc thâm nhập, chuyển tải
các biểu hiện của giá trị vào các nhóm yếu tố chuẩn mực và yếu tố hữu hình.
Điều này cho thấy, giá trị khi đã được xác lập muốn xóa bỏ nó cũng khơng dễ
trong ngày một ngày hai, nhưng giá trị cũng có thể bị suy thoái, bị thay đổi trong

một số điều kiện.
1.2.2.3. Cấp độ cốt lõi của VHDN: Những quan điểm chung bao gồm lý tưởng,
niềm tin, bản chất mối quan hệ con người, thái độ và phương pháp tư duy, ảnh
hưởng của truyền thống và lịch sử phát triển của tổ chức đối với các thành viên.
Văn hóa doanh nghiệp lấy việc phát triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối
cùng. Cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp là tinh thần doanh nghiệp và quan điểm
giá trị của doanh nghiệp.
• Lý tưởng: là những động lực, ý nghĩ, giá trị cao cả, căn bản, sâu sắc giúp
con người cảm thông chia sẻ, và dẫn dắt con người trong nhận thức, cảm nhận
và xúc động trước sự vật, hiện tượng. Lý tưởng cho phép các thành viên trong
DN thống nhất với nhau trong cách lý giải các sự vật, hiện tượng xung quanh họ,
giúp họ xác định được cái gì là đúng, cái gì là sai, định hình trong đầu họ rằng
cái gì được cho là quan trọng, cái gì được khuyến khích cần phát huy,…Tóm lại,
lý tưởng thể hiện định hướng căn bản, thống nhất hoá các phản ứng của mọi
thành viên trong DN trước các sự vật, hiện tượng. Cụ thể hơn, lý tưởng của một
DN được ẩn chứa trong triết lý kinh doanh, mục đích kinh doanh, phương châm
hành động của DN đó.
Giá trị niềm tin và thái độ: Về bản chất, giá trị là khái niệm liên quan đến
chuẩn mực đạo đức và cho biết con người cho rằng họ cần phải làm gì. Niềm tin
là khái niệm đề cập đến việc mọi người cho rằng thế nào là đúng, thế nào là sai.
Niềm tin của người lãnh đạo dần dần được chuyển hoá thành niềm tin của tập
thể thông qua những giá trị. Một khi hoạt động nào đó trở thành thói quen và tỏ
ra hữu hiệu, chúng sẽ chuyển hoá dần thành niềm tin, dần dần chúng có thể trở
thành một phần lý tưởng của những người trong tổ chức này. Thái độ là chất kết
dính niềm tin và giá trị thơng qua tình cảm. Thái độ chính là thói quen tư duy


_ 15 _

theo kinh nghiệm để phản ứng theo một cách thức nhất quán mong muốn hoặc

không mong muốn đối với sự vật, hiện tượng.
Sơ đồ văn hóa doanh nghiệp theo cấu trúc hình lát cắt lõi của một khúc gỗ.
Có thể hình dung cấu trúc này như kết cấu của tịa nhà. Đơn giản nhất, nó phải
gồm các nhóm yếu tố:
Độc đoán, dân
chủ, cứng nhắc
hay mềm dẻo...

Niềm tin,
thái độ,
đạo đức
kinh
doanh…

Nhóm
yếu tố giá
trị cốt lõi

Bảng hiệu,
Logo,
Slogan,
biểu tượng,
ngơn
ngữ…

Kiến trúc trụ
sở của DN,
khơng gian
làm việc,
trang phục…


Xây dựng văn hố doanh nghiệp là một trong những yếu tố giúp doanh
nghiệp thích ứng với những thay đổi trong mơi trường bên ngồi. Những thay
đổi về chính trị, kinh tế, xã hội, cơng nghệ thơng tin... đang tác động đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, trước hết, thơng qua vai trị của tư vấn
về lĩnh vực này, doanh nghiệp phải có các cơng cụ để tìm kiếm các dữ liệu và
phân tích được các dữ liệu cần thiết nhằm nhận diện được đúng điểm mạnh, yếu
của văn hóa hiện đang tồn tại trong doanh nghiệp và giúp hình dung được văn
hóa mà doanh nghiệp sẽ hướng tới để họ thích nghi được với những thay đổi,
phát triển.
Muốn vậy, lãnh đạo doanh nghiệp cũng phải hiểu được cấu trúc để hình thành
nên văn hóa doanh nghiệp gồm những bộ phận nào, quan hệ giữa các bộ phận ra
sao và các bộ phận này có vai trị như thế nào?


_ 16 _

Như vậy, trước hết, cái quan trọng nhất khi nhìn doanh nghiệp ở góc độ văn
hóa là các giá trị văn hóa nào đã được doanh nghiệp đề xướng, quán triệt hay
tuân thủ. Đây không chỉ là câu khẩu hiệu treo trên tường, hoặc bài phát biểu của
Giám đốc doanh nghiệp mà chúng ta phải tìm thấy sự hiển diện của các giá trị
này qua nhiều nhóm yêu tố văn hóa khác. Ví dụ, một doanh nghiệp đề cao sự tận
tụy với khách hàng là một trong những giá trị mà họ theo đuổi, thì người ta phải
thấy giá trị này được tôn vinh qua phiếu đánh giá của khách hàng về nhân viên,
giá trị này cũng phải được chuyển tải trong tuyển dụng nhân viên.
Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể nhận một nhân viên cịn non yếu về kỹ
năng nhưng anh ta thích thú khi được phục vụ hơn là nhận một người có kinh
nghiệm nhưng khơng có động cơ phục vụ. Bởi yếu kém về nhận thức, kỹ năng
có thể học để bù đắp, cịn sự thay đổi động cơ sẽ khó khăn hơn. Và dĩ nhiên,
nhân viên nào làm việc có hiệu quả, phục vụ khách hàng tốt sẽ là người được

thăng tiến, khen thưởng trong doanh nghiệp. Do đó, người ta có thể nói: "Hãy
cho tôi biết trong cơ quan anh chị người được trọng dụng là người như thế nào,
tơi sẽ nói được văn hóa của tổ chức anh chị là văn hóa như thế nào".
1.2.3. Vai trị của văn hố doanh nghiệp:
Trước hết chúng ta phải có quan điểm cụ thể về VHDN sự thắng thế
của bất cứ một doanh nghiệp nào khơng phải ở chỗ là có bao nhiêu vốn và
sử dụng cơng nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc tổ chức những con
người như thế nào. Con người ta có thể đi lên từ tay khơng về vốn nhưng
khơng bao giờ từ tay khơng về văn hố. Văn hố chỉ có nền tảng chứ khơng có
điểm mốc đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của doanh nghiệp có thể sẽ là rất
cao nếu như nó được xây dựng trên nền tảng văn hoá. Các doanh nghiệp khi
xây dựng đều phải có nhận thức và niềm tin triệt để, lúc đó văn hố sẽ xuất
hiện.
VHDN có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình hoạt động của DN,
thể hiện qua các mặt sau:
1.2.3.1. Văn hóa doanh nghiệp là nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh:
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét trên các khía cạnh


_ 17 _

như: chất lượng sản phẩm, chi phí, sự linh hoạt, thời gian giao hàng… Để có
được những lợi thế này doanh nghiệp phải có những nguồn lực như nhân
lực, tài chính, cơng nghệ, máy móc, ngun vật liệu, phương pháp làm việc.
Nguồn lực tài chính, máy móc, ngun vật liệu đóng vai trị lợi thế so sánh với
đối thủ cạnh tranh trước khách hàng. Nguồn nhân lực đóng vai trị tham gia
tồn bộ q trình chuyển hố các nguồn lực khác thành sản phẩm đầu ra, vì
vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định tạo ra những lợi thế cạnh
tranh như chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng.
Tính hiệu quả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hố.

Nó ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và
chính sách, nó tạo ra tính định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân
doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công
chiến lược đã lựa chọn của doanh nghiệp. Môi trường văn hố của doanh
nghiệp cịn có ý nghĩa tác động quyết định đến tinh thần, thái độ, động cơ lao
động của các thành viên và việc sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác.
Mục tiêu của văn hoá doanh nghiệp là nhằm xây dựng một phong
cách quản trị hiệu quả đưa hoạt động của doanh nghiệp vào nề nếp và xây
dựng mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa các thành viên của doanh nghiệp,
làm cho doanh nghiệp trở thành một cộng đồng làm việc trên tinh thần hợp tác,
tin cậy, gắn bó, thân thiện và tiến thủ. Trên cơ sở đó hình thành tâm lý chung
và lịng tin vào sự thành cơng của doanh nghiệp. Do đó nó xây dựng một nền
nếp văn hố lành mạnh tiến bộ trong tổ chức, đảm bảo sự phát triển của mỗi cá
nhân trong doanh nghiệp. Mỗi cơng ty đều có một hệ thống giá trị, một bản sắc
riêng.
1.2.3.2. Văn hóa doanh nghiệp thu hút và giữ chân những người tài giỏi:
Sự cạnh tranh trong môi trường kinh doanh của Việt Nam những năm
gần đây ngày càng cao. Người lao động có nhiều sự lựa chọn cơng việc hơn
trước do vậy việc biến động nhân lực là điều không thể tránh khỏi. Để giữ chân
và phát huy hết năng lực của nhân viên thì ngồi lương, các khoản phúc lợi và
cơ hội thăng tiến thì người lao động cịn quan tâm đến VHDN của doanh


_ 18 _

nghiệp có phù hợp với cá tính của mình khơng, có cảm thấy thoải mái khi
cơng tác khơng, đó là các yếu tố quyết định họ gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp.
1.2.3.3. Văn hoá doanh nghiệp tạo nên bản sắc của doanh nghiệp:
Văn hoá doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp và phân biệt

doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác tạo nên bản sắc (phong thái, sắc thái,
nền nếp, tập tục) của doanh nghiệp, văn hoá doanh nghiệp bảo tồn bản sắc
của doanh nghiệp qua nhiều thế hệ thành viên, tạo ra khả năng phát triển bền
vững của doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp thành công thường là những doanh nghiệp chú
trọng xây dựng, tạo ra môi trường văn hoá riêng biệt khác với các doanh
nghiệp khác.. Bản sắc văn hoá là phương thức sinh hoạt và hoạt động chung
của doanh nghiệp. Nó tạo ra lối hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là
bầu khơng khí, là tình cảm, sự giao lưu, mối quan hệ và ý thức trách nhiệm,
tinh thần hiệp tác phối hợp trong thực hiện cơng việc.
1.2.3.4. Văn hố ảnh hướng tới hoạch định chiến lược:
Văn hố tổ chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạch định chiến lược
phát triển của tổ chức thơng qua việc chọn lọc thơng tin thích hợp (áp
dụng kinh nghiệm, mơ hình phù hợp), đặt ra những mức tiêu chuẩn theo giá trị
của tổ chức, cung cấp những tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các hoạt động. Hoạch
định chiến lược phát triển của tổ chức sẽ giúp cho các thành viên thấy hết vai
trò của họ trong tổ chức, cung cấp những cơ sở quan trọng để các thành viên tổ
chức hiểu được môi trường của họ và vị trí của DN trong mơi trường đó.
Văn hố tổ chức cũng sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chiến
lược của tổ chức. Bởi vì một văn hố mạnh là cơ sở quan trọng để thực hiện
thành công chiến lược của tổ chức. Văn hoá tổ chức với chức năng tạo được
cam kết cao của các thành viên trong tổ chức, yếu tố quyết định để nâng cao
hiệu quả hoạt động, năng suất lao động của tổ chức.
1.2.3.5. Vai trò của VHDN thể hiện trong hoạt động quản lý:


_ 19 _

VHDN chính là cơng cụ, phương tiện mà qua đó nhà quản trị thực hiện
cơng việc quản lý của mình. Song, VHDN cũng có những ảnh hưởng nhất định

đến quyết định của người quản lý cũng như định hình phong cách lãnh đạo của
họ. Trong một mơi trường tổ chức mà mọi người đều tham gia chia sẻ thực sự thì
vai trị của các giám đốc trong quản lý sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều. Đó là phương
diện quan trọng của quản lý theo văn hoá và quản lý bằng văn hoá.
VHDN ảnh hưởng tới hoạt động quản trị nói chung và do đó ảnh hưởng
tới tất cả các hoạt động thuộc chức năng quản trị: quản trị chiến lược, quản trị
nhân lực, quản trị chất lượng, quản trị sản xuất, quản trị tài chính, Marketing…
VHDN chính là công cụ thống nhất mọi người về nhận thức, ý thức và
cách thức hành động trong quá trình triển khai các chương trình hành động.
Thực tế cho thấy, VHDN là một nhân tố đóng góp (hoặc cản trở) quan trọng
trong việc thực thi chiến lược thành công. Thomas Watson.Jr là người thành
công ở cương vị giám đốc điều hành IBM đã phát biểu: “triết lý, tinh thần và sự
mong muốn của một tổ chức có tác động tới các thành tựu của công ty lớn hơn
nhiều so với nguồn lực về kỹ thuật, kinh tế, cơ cấu tổ chức, sáng kiến và điều
chỉnh mọi nguồn lực kể trên có đóng góp mạnh mẽ vào sự thành cơng của cơng
ty. Nhưng theo tôi, chúng được thực hiện tốt vượt bậc bởi mọi người trong tổ
chức cùng tin tưởng vững chắc vào những nguyên tắc và giá trị cơ bản của công
ty và tiến hành cơng việc với một lịng trung thành khơng lay chuyển”.
Khi trong DN đã hình thành một văn hố mạnh, các nhân viên sẽ cống
hiến hết mình vì mục tiêu của DN, VHDN sẽ là cứu cánh để lái người lao động
theo hướng làm việc mà không chỉ nghĩ đến tiền thưởng và nhà quản trị có thể sẽ
không cần phải sử dụng nhiều các biện pháp khuyến khích về mặt tiền bạc.
1.2.3.6. Vai trị của VHDN thể hiện trong hiệu quả hoạt động của DN:
VHDN có tác động toàn diện lên hoạt động của DN:
Tạo ra nhận dạng riêng cho DN đó, để nhận biết sự khác nhau giữa DN này
với DN khác, giúp DN xây dựng tên tuổi của mình. Sự khác biệt đó được thể
hiện ra ở những tài sản vơ hình như: sự trung thành của nhân viên, bầu khơng
khí của DN như một gia đình nhỏ, đẩy nhanh tiến độ trong quá trình thảo luận và



_ 20 _

ra các quyết định quản lý, sự tin tưởng của nhân viên vào các quyết định và
chính sách của DN, tinh thần đồng đội trong mọi công việc của DN…
Văn hố tạo nên một cam kết chung vì mục tiêu và giá trị của DN, nó lớn
hơn lợi ích của từng cá nhân trong DN đó. Giúp giải quyết những mâu thuẫn
thường nhật trong quá trình hoạt động của DN.
Truyền tải ý thức, giá trị của DN tới các thành viên trong DN đó.
Văn hố tạo nên sự ổn định của DN: chính vì vậy mà có thể nói rằng văn hố
như một chất kết dính các thành viên trong DN, để giúp việc quản lý DN bằng
cách đưa ra những chuẩn mực để hướng các thành viên nên nói gì và làm gì.
Qua đó, VHDN thực hiện các vai trị của mình đối với hoạt động của DN:
Văn hố góp phần làm giảm mâu thuẫn, xây dựng khối đoàn kết, phần lớn
các nhà nghiên cứu về văn hố nhấn mạnh vai trị quan trọng của văn hố trong
việc khuyến khích sự gắn kết xã hội trong DN. Văn hoá được miêu tả như “chất
keo” để kết nối các thành viên của DN với nhau. Việc tạo ra một văn hoá chung
sẽ tạo ra sự thống nhất trong quan điểm nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn và lợi ích
chung cho hành động của các thành viên. Điều này rất có ý nghĩa đối với các DN
có mâu thuẫn và sự thiếu thống nhất về nội bộ. Hơn nữa, để tồn tại và đáp ứng
được sự thay đổi của môi trường, những vấn đề quan trọng mà hầu hết các DN
đều phải đối mặt đó là tạo sự thống nhất cao trong việc thực hiện chức năng,
chiến lược, mục tiêu đặt ra của DN.
Nhìn chung, VHDN có tác dụng tăng cường uy tín cho DN, hình thành
trong q trình thực hiện mục tiêu của các DN. Nó tạo nên giá trị DN, tinh thần
doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh, quản lý DN và thương hiệu DN. VHDN là
nguồn gốc của sức sáng tạo, của sự đoàn kết, là động lực tinh thần cho sự tồn tại,
cạnh tranh và phát triển của DN.
Việc xây dựng và phát huy VHDN không chỉ tạo ra nguồn nội lực vững
chắc cho việc liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, nâng cao khả
năng cạnh tranh trên thương trường, hơn nữa đó là điều kiện quyết định để có

thể huy động cao nhất các nhân tố chủ quan, khách quan khác nhau đối với việc
tập trung xây dựng thương hiệu của bản thân từng sản phẩm, từng doanh nghiệp,


_ 21 _

góp phần xây dựng hệ thống thương hiệu, VHKD Việt Nam nói chung. Xây
dựng VHDN khơng chỉ đem lại hiệu quả kinh doanh bền vững mà còn đáp ứng
tốt các yêu cầu của xã hội (về kinh tế, văn hố, chính trị, xã hội,…Vì khi ấy, lợi
nhuận có được thơng qua việc đặt lợi ích con người và xã hội lên trên hết, dựa
trên sự giải quyết hài hồ giữa các lợi ích (của doanh nghiệp, của người tiêu
dùng, của toàn xã hội) cả trước mắt và lâu dài.
1.2.4. Sự cần thiết phát triển văn hoá trong doanh nghiệp hiện nay:
Trong bối cảnh tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẽ, những sự giao thoa về
văn hoá, sự ràng buộc, gắn bó ngày càng cao hơn bao giờ hết giữa các quốc gia,
dân tộc, thì các DN – tế bào của xã hội, từ những tập đoàn hùng mạnh đến
những công ty nhỏ bé đều phải đứng trước các thách thức xây dựng văn hoá
riêng phù hợp với tầm nhìn, sứ mệnh và mục tiêu của cơng ty đó. Lý do vì văn
hố là một phần khơng thể thiếu được trong mỗi DN và văn hoá doanh nghiệp
ngày càng đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển bền vững.
1.2.4.1. Về khía cạnh xã hội:
Trong xu thế mở cửa hội nhập, bên cạnh những thuận lợi như tiếp cận
nhanh với tri thức của nhân loại, vốn, khoa học cơng nghệ,… sẽ có đầy rẫy
những khó khăn, trong đó xuất hiện những nguy cơ mới, đó là sự “xâm lăng” về
văn hố. Sự xuất hiện của các cơng ty đa quốc gia, tập đồn tài chính lớn, các
cơng ty lớn từ nhiều nước sẽ mang theo những tập quán, phong tục, phong cách
quản lý mới riêng của từng nước vào nước ta là điều chắc chắn. Nghị quyết Đại
hội X đã khẳng định: “chúng ta tiếp tục xây dựng và phát triển văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Doanh nghiệp là nơi tập hợp, phát huy mọi nguồn lực con người – yếu tố

cấu thành nên tất cả các yếu tố khác từ vi mô đến vĩ mơ, do đó, để giữ gìn nền
văn hố nước nhà, kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một bản sắc
VHKD Việt Nam, xây dựng VHDN là điểm tựa đầu tiên, là nhiệm vụ trung tâm,
có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình hội nhập.


_ 22 _

Hơn nữa, xây dựng và phát triển VHDN của nước ta hiện nay có tác dụng
rất quan trọng trong việc nâng cấp hiệu quả và sức cạnh tranh của DN theo yêu
cầu phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.4.2. Về khía cạnh quản lý DN:
Những thành cơng của DN có bền vững hay không là nhờ vào nền VHDN
rất đặc trưng của mình. Sự khác biệt đó được thể hiện ra ở những tài sản vơ hình
như: sự trung thành của nhân viên, bầu khơng khí của DN như một gia đình nhỏ,
tệ quan liêu bị đẩy lùi và khơng cịn đất để tồn tại, xố bỏ sự lề mề trong q
trình thảo luận và ra quyết định quản lý, sự tin tưởng của nhân viên vào các
quyết định và chính sách của DN, tinh thần đồng đội trong mọi công việc của
DN. Nền văn hoá của DN đã mang lại lợi thế cạnh tranh vô cùng quan trọng. Sự
thắng thế của bất cứ một DN nào không phải ở chỗ là có bao nhiêu vốn và sử
dụng cơng nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc DN có những con người như
thế nào.
DN cần xây dựng văn hoá DN để đáp ứng yêu cầu quản lý năng động, phù
hợp với mơi trường bên trong và bên ngồi để nhanh chóng thích nghi với những
thay đổi của mơi trường, của khách hàng, tránh bị đào thải. Xây dựng VHDN
còn tạo điều kiện cho việc lựa chọn và áp dụng một cách có hiệu quả kinh
nghiệm những mơ hình quản lý tiên tiến. Hơn thế nữa, xây dựng một văn hoá
mạnh và tích cực trong DN cịn có tác dụng nâng cao hiệu quả hoạt động để
dành vị thế trong môi trường cạnh tranh đầy biến động như ngày nay. Thực tế
cho thấy, trong một DN, đặc biệt là những DN quy mô lớn, là một tập hợp

những con người khác nhau về trình độ chun mơn, trình độ văn hố, mức độ
nhận thức, quan hệ xã hội, vùng miền địa lý, tư tưởng văn hố… chính sự khác
nhau này tạo nên một môi trường làm việc đa dạng và phức tạp thậm chí có
những điều trái ngược nhau. Nếu các nhà quản lý chú ý tới yếu tố văn hoá (một
trong những rào cản cho việc đa dạng hoá nhân viên của DN) trong DN mình thì
sẽ có những chính sách tuyển chọn, đào tạo hướng dẫn cụ thể nhằm bảo vệ sự đa
dạng của VHDN trong phát triển nguồn nhân lực.
Khi các DN muốn mở rộng phạm vi hoạt động, phải giảm sự quản lý tập
trung và thực hiện phân cấp mạnh xuống phía dưới thì việc chia sẻ ý nghĩa, mục


_ 23 _

tiêu, nhiệm vụ của DN lại cần tới vai trị của VHDN như chất kết dính để hướng
mọi người đến cái chung. Điều này rất cần thiết khi muốn thay đổi phong cách
quản lý để duy trì chất lượng sản phẩm. Làm thế nào để DN trở thành nơi tập
hợp, phát huy mọi nguồn lực con người, là nơi làm gạch nối, nơi có thể tạo ra
lực điều tiết tác động (tích cực hay tiêu cực) đối với tất cả các yếu tố chủ quan,
khách quan khác nhau, làm gia tăng nhiều lần giá trị của từng nguồn lực con
người đơn lẻ, nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của DN. Điều này đòi
hỏi DN phải xây dựng và duy trì một nền văn hố đặc thù phát huy được năng
lực và thúc đẩy sự đóng góp của tồn thể nhân viên vào việc đạt được các mục
tiêu chung của DN.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến văn hố doanh nghiệp:
1.3.1. Lịch sử và qui mơ doanh nghiệp: văn hóa hình thành qua thời gian
do vậy q trình họat động của doanh nghiệp sẽ tích lũy các giá trị, niềm tin,
các huyền thoại,…Với các doanh nghiệp có lịch sử lâu đời có các cột mốc thay
đổi đáng nhớ như: sự thay đổi công nghệ, mở rộng thị trường, thay đổi lãnh
đạo qua các thời kỳ, các thành tích,.. nếu được hệ thống và tuyên truyền tốt sẽ
tạo ra niềm hứng khởi và tự hào trong công ty, giúp các ứng viên trước khi

tham gia vào công ty có thể xem xét khả năng phù hợp, thu hút mình khơng.
VHDN thường thay đổi khi quy mơ doanh nghiệp thay đổi, một vấn đề rất
biện chứng trong triết học đó là sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất. Khi số lượng nhân viên tăng lên, các phòng ban chức năng được mở
rộng, khi doanh nghiệp có sự sáp nhập với một doanh nghiệp khác,.. lúc
này vai trò của VHDN sẽ được thể hiện. Nếu VHDN cũ yếu, khơng phù hợp
nó có thể sẽ bị phá hủy và rất có thể sẽ hình thành một VHDN mới trong
doanh nghiệp.
1.3.2. Người sáng lập: người sáng lập với vai trị là thành lập văn hóa,
mặc dù nó sẽ giảm sự ảnh hưởng qua thời gian. Những doanh nghiệp có
sự kế thừa ảnh hưởng lớn từ người lãnh đạo thường có văn hóa mạnh (văn
hóa mạnh chưa hẳn là văn hóa phù hợp mà mới chỉ đạt được sự hiểu, thống
nhất và hành động giống nhau trong tổ chức).


_ 24 _

1.3.3. Văn hóa dân tộc: Văn hóa dân tộc chi phối đến khách hàng, đến
xã hội, mỗi quốc gia khác nhau văn hóa dân tộc sẽ ảnh hưởng mạnh đến
VHDN. Sự khác nhau giữa các nước, các vùng lãnh thổ cũng dẫn đến các
quan niệm, các cách hành xử khác nhau. Như ơng bà ta đã có câu: “nhập gia
tùy tục”.
1.3.4. Chính sách, quy chế: chính sách và các quy chế, quy định của
doanh nghiệp trở thành một thành phần của văn hóa, và rất quan trọng trong
việc định hướng theo khn mẫu cho tồn bộ nhân viên.
1.3.5. Mơi trường doanh nghiệp: sự thay đổi nhanh chóng của mơi
trường, vai trị của văn hóa có thể được thể hiện. Trong mơi trường tĩnh vai trị
của văn hóa có thể là tốt nhưng khi có sự cạnh tranh gay gắt, thay đổi của môi
trường kinh doanh lúc này sức mạnh của văn hóa sẽ thể hiện, nếu khơng có sự
uyển chuyển, định hướng đúng rất có thể các thế mạnh trước đây sẽ trở thành

lực cản trong tình hình mới.
Các Doanh nghiệp, công ty đều tồn tại và phát triển trong mơi trường nhất
định, do đó, văn hố doanh nghiệp - sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại cũng
chịu ảnh hưởng tổng thể của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh (bao gồm
những yếu tố bên ngoài và bên trong doanh nghiệp).
Có thể thấy rõ: VHDN bao gồm các yếu tố pháp luật và đạo đức. VHDN
không thể hình thành một cách tự phát mà phải được hình thành thông qua nhiều
hoạt động của bản thân mỗi DN, mỗi doanh nhân, của nhà nước và các tổ chức
xã hội. Thực tiễn cho thấy hệ thống thể chế, đặc biệt là thể chế chính trị, thể chế
kinh tế, thể chế hành chính, thể chế văn hố tác động rất sâu sắc đến việc hình
thành và hồn thiện VHDN. Cụ thể, VHDN chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các yếu tố
bên ngồi: nền văn hố xã hội, xu hướng tồn cầu hố, lợi ích của người tiêu
dùng, xu thế tiêu dùng, áp lực cạnh tranh trên thị trường, chính sách của chính
phủ, giao thoa về văn hố, vị trí địa lý, lịch sử và truyền thống của VH dân tộc

1.3.6. Các yếu tố ảnh hưởng khác: có tác động lớn tới việc hình thành và
phát triển của văn hố trong DN: ngành nghề kinh doanh, công nghệ sản xuất,


_ 25 _

lịch sử hình thành và truyền thống của VHDN, phong cách của ban lãnh đạo
(quyết đoán, hay dân chủ), những hành động, tinh thần thái độ làm việc của ban
lãnh đạo, ý chí của ban lãnh đạo tạo nên cốt lõi của VHDN; Sứ mệnh và mục
tiêu chiến lược của DN cũng là yếu tố quyết định phương hướng phát triển của
VHDN, đến việc hình thành một kiểu văn hoá mới hoặc làm thay đổi cơ bản các
yếu tố văn hố đã lỗi thời; bên cạnh đó, tính minh bạch trong DN cũng là nhân tố
cơ bản ảnh hưởng tới sự phát triển VHDN, tính mạnh, yếu của VHDN; mơ hình
tổ chức của DN; tính cách của những nhân viên trong công ty…
Khi xây dựng và phát triển VHDN cần phải có những biện pháp cụ thể.

Các nhà quản lý cần lưu ý một số yếu tố:
• Để xây dựng và duy trì văn hố của đơn vị, các DN chỉ nên tuyển dụng
những người biết chia sẻ, có thái độ thân thiện, nhiệt thành có thái độ tốt (phù
hợp với văn hoá của DN) hơn là những người có thái độ khơng tốt (kể cả người
đó có kinh nghiệm, bằng cấp cao và có chun mơn hơn hẳn).
• Để cho mọi người được là chính mình trong cơng việc, thể hiện chân thực
tính cách của mình mà không phải lo lắng về những điều lặt vặt liên quan đến
nghi thức, thủ tục trong DN.
• Phác hoạ rõ ràng về những gì mà DN dự định sẽ làm và lý do đưa mọi
người tham gia vào công việc đó, chứ đừng để họ chỉ là những người đứng
ngồi, hãy cao thượng hố mục đích mà DN hướng tới.
• Giải quyết từng vấn đề của nhân viên một cách riêng rẽ, kịp thời và cụ thể,
thậm chí một vấn đề tinh thần cũng cần quan tâm đối với những người có liên
quan.
• Thơng qua các hình thức nêu gương, các buổi lễ chúc mừng và những
hình thức giao tiếp để thể hiện sự coi trọng những trường hợp xuất sắc cả về tinh
thần lẫn hành động, tạo dựng niềm tự hào về thành tựu đạt được cùng với tấm
lòng ln ln nghĩ tới người khác.
• Có hình thức khuyến khích kịp thời những thành quả mà nhân viên của
DN đạt được, tổ chức kỷ niệm những cột mốc quan trọng trong đời sống riêng


×