Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ BÍCH THỦY

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NUÔI
CON NUÔI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG)

HÀ NỘI – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ BÍCH THỦY

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ NUÔI CON NUÔI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thanh Hƣơng



Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu ....................................... 1
2.Tình hình nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu ................................................................ 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ........................................................................ 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 4
7. Cơ cấu của luận văn .................................................................................... 5
CHƢƠNG 1..................................................................................................... 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI ................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi ................................................. 6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ni con ni ............................................. 6
1.1.2. Các hình thức ni con nuôi ............................................................... 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi ........................................................... 14
1.2. Lý luận về áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ................................... 15
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ......... 15
1.2.2. Các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ............ 16
CHƢƠNG 2................................................................................................... 19
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI ........... 19
2.1. Quy định hiện hành về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ......... 19
2.2. Quy định hiện hành về điều kiện xác lập việc nuôi con nuôi ................ 21
2.3. Quy định hiện hành về thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi ........... 31
2.4. Quy định hiện hành về thủ tục nhận con nuôi ....................................... 32
2.5. Quyền và nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi ......................... 46

2.6. Quy định về chấm dứt việc nuôi con nuôi ............................................. 50
CHƢƠNG 3................................................................................................... 56
3.1. Tổng quan tình hình ni con ni trên địa bàn thành phố Hải Phòng . 56


3.2. Áp dụng pháp luật Việt Nam về nuôi con ni trên địa bàn thành phố
Hải Phịng ...................................................................................................... 59
3.3. Những bất cập và nguyên nhân trong việc áp dụng pháp luật Việt Nam
về nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố Hải Phòng ..................................... 63
3.3.1. Những bất cập và nguyên nhân bất cập trong áp dụng pháp luật đối
với nuôi con nuôi trong nƣớc ........................................................................ 63
3.3.2. Những bất cập và nguyên nhân của bất cập trong áp dụng pháp luật
đối với ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi .................................................. 66
3.4. Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt Nam về
nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố Hải Phòng .......................................... 68
3.4.1. Giải pháp lập pháp .............................................................................. 68
3.4.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Việt
Nam về nuôi con ni trên địa bàn thành phố Hải Phịng ............................ 75
KẾT LUẬN .................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 80


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là do chính tơi thực hiện.
Tồn bộ các tài liệu, cơ sở pháp lý, các dẫn chứng số liệu tôi sử dụng để
phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn đều đảm bảo chính xác, trung thực
theo yêu cầu của một mơn khoa học. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học
và thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có

thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Bích Thủy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự năm 2015

Luật HN&GĐ năm 2014

Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014

Luật Nuôi con nuôi

Luật Nuôi con nuôi năm 2010

Nghị định số 19/2011/NĐ-CP Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Nuôi con nuôi
Nghị định số 24/2019/NĐ-CP Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2011
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Nuôi con nuôi
Nghị định số 114/2016/NĐCP


Nghị định số 114/2016/NĐ-CP ngày
08/7/2016 của Chính phủ quy định lệ phí đăng
ký ni con ni, lệ phí cấp giấy phép hoạt
động của tổ chức con ni nƣớc ngồi.

BLDS Nhật Bản

Bộ luật Dân sự Nhật Bản

BLDS Pháp

Bộ luật Dân sự Pháp

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ
lâu, với nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhƣng lý do cơ bản, phổ biến
nhất là vì lịng từ tâm, lịng thƣơng ngƣời, muốn cƣu mang, giúp đỡ những
ngƣời rơi vào hồn cảnh khó khăn. Với quan niệm nhƣ vậy, việc nhận con
nuôi, nhận cha mẹ nuôi đã đƣợc thực hiện khá rộng rãi trong đời sống Nhân
dân.
Vấn đề nuôi con ni ln đƣợc Chính phủ Việt Nam quan tâm và
vào mỗi giai đoạn nhất định Nhà nƣớc đều ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. Năm 2010, Luật Nuôi con
nuôi đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua

và đây là hành lang pháp lý quan trọng về vấn đề nuôi con nuôi đầu tiên của
Việt Nam. Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con ni ở nƣớc ta đã
góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em đƣợc chăm
sóc, ni dƣỡng và giáo dục trong mơi trƣờng gia đình; động viên, khơi dậy
tinh thần nhân đạo, nhân văn của con ngƣời Việt Nam; giữ gìn và phát huy
truyền thống tƣơng thân tƣơng ái, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha,
mẹ nuôi, giúp họ ổn định tƣ tƣởng và n tâm trong việc ni dƣỡng, chăm
sóc con nuôi nhƣ con đẻ. Tuy nhiên trong thực tế việc hiểu và thực hiện các
quy định về nuôi con nuôi cịn chƣa đúng, chƣa đầy đủ, thậm chí cịn có
những sai phạm, làm ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền của trẻ em, nhất là
quyền của trẻ em đƣợc nhận làm con ni. Trong q trình tiến hành các thủ
tục cho nhận con nuôi, đặc biệt trong việc cho trẻ em làm con ni ngƣời
nƣớc ngồi cịn có hiện tƣợng vi phạm pháp luật nhƣ cố ý làm sai lệch
nguồn gốc của trẻ, khơng đảm bảo quyền tìm ngƣời thân thích của trẻ trƣớc
khi cho trẻ làm con nuôi, một số trƣờng hợp cho trẻ em làm con ni vì mục
đích vụ lợi hoặc các mục đích khác trái pháp luật và đạo đức xã hội...Trong
quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con ni cịn tồn tại hiện tƣợng xâm phạm
nghiêm trọng quyền của trẻ em nhƣ bóc lột sức lao động của trẻ, lạm dụng
tình dục, bạo hành, ngƣợc đãi đối với con nuôi...Các văn bản pháp luật trƣớc
đây cũng nhƣ Luật Ni con ni đã có những quy định cụ thể, điều chỉnh
về lĩnh vực nuôi con nuôi, song vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại giữa lý luận và
thực tiễn trong quá trình thực hiện pháp luật.

1


Thành phố Hải Phịng là thành phố có điều kiện văn hóa-kinh tế-xã
hội phát triển mạnh mẽ. Trong những năm gần đây, số lƣợng đăng ký nhận
nuôi con nuôi trong nƣớc và có yếu tố nƣớc ngồi tại Hải Phịng có sự gia
tăng. Việc nhận ni con ni giúp cho những đứa trẻ tại thành phố Hải

Phịng có một gia đình để đƣợc ni dƣỡng, chăm sóc, giáo dục tuy nhiên
trong q trình thực hiện nhiệm vụ về nhận ni con ni cũng gặp khơng ít
vƣớng mắc về pháp luật. Do đó, đề tài “Thực tiễn áp dụng pháp luật Việt
Nam về nuôi con nuôi tại địa bàn thành phố Hải Phòng” là cần thiết, nhằm
đánh giá những kết quả đã đạt đƣợc cũng nhƣ những bất cập hạn chế của
việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi hiện hành.
2.Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề ni con ni đã có nhiều đề tài khoa học, luận
văn, bài viết trên tạp chí đề cập đến một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào
những nội dung có liên quan nhau nhƣ:
Luận án tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Phƣơng Lan,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2007.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng của Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội: Hồn thiện chế định ni con ni trong pháp luật Việt Nam, chủ
nhiệm đề tài Ngô Thị Hƣờng, năm 2007.
Luận văn thạc sỹ luật học: Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực ni
con có yếu tố nƣớc ngồi ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Trinh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2010.
Những cơng trình trên đã phân tích và nêu ra một số tồn tại, bất cập
trong các quy định về nuôi con nuôi của Luật Hơn nhân và Gia đình cũng
nhƣ các văn bản quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi hiện hành…trong các
cơng trình này ít nhiều đều đề cập đến vấn đề nuôi con nuôi, nuôi con nuôi
trong nƣớc và ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi. Tuy nhiên, cơng trình
nghiên cứu triển khai trực tiếp về thực tiễn áp dụng pháp luật ni con ni
cịn khá khiêm tốn và chƣa có cơng trình nào nghiên cứu về việc áp dụng
pháp luật nuôi con nuôi tại địa bàn thành phố Hải Phịng.
Nhằm mục đích làm phong phú hơn nội dung nghiên cứu về vấn đề
nuôi con nuôi, tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực tiễn áp dụng pháp
luật Việt Nam về nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố Hải Phòng” làm luận

văn thạc sĩ làm đề tài nghiên. Qua đó, mong muốn sẽ góp phần hồn thiện
2


hơn nữa các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề ni con ni.
Đồng thời, góp phần phát hiện những khó khăn, vƣớng mắc, bất cập trong
q trình thực thi ở địa phƣơng. Từ đó, đề xuất và kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ở nƣớc tại
địa bàn thành phố Hải Phòng.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Pháp luật về ni con ni là một lĩnh vực tƣơng đối rộng và phức tạp
thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ đƣợc giới hạn trong
các văn bản pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi nhƣ: BLDS năm 2015, Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2014, Luật Ni con ni năm 2010, Nghị định
số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Nuôi con nuôi, Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày
05/3/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP
ngày 21/3/2011 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Nuôi con nuôi…Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề thực tiễn áp
dụng pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố Hải
Phòng. Giới hạn khảo sát của luận văn là q trình áp dụng pháp luật về ni
con ni trên địa bàn thành phố Hải Phịng.
Thơng qua việc nghiên cứu trong phạm vi đƣợc đề ra ở trên, tác giả
mong muốn cung cấp cho ngƣời đọc một cách tổng thể các quy định về nuôi
con nuôi. Trên cơ sở đó, nghiên cứu thực trạng, tình hình ni con ni trên
địa bàn thành phố Hải Phịng để có thể đánh giá đƣợc mức độ bảo vệ của các
quy định pháp luật trong thực tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để nghiên
cứu về nguyên nhân bất cập của áp dụng pháp luật ni con ni, từ đó đƣa
ra những giải pháp.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ nhƣ sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi nhƣ khái niệm
và đặc điểm của ni con ni; các hình thức ni con ni; ý nghĩa của
nuôi con nuôi và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về nuôi con
nuôi.
- Nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về ni con ni. Đồng thời, phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp
3


luật về nuôi con nuôi trên địa bàn thành phố Hải Phịng thơng qua việc phân
tích, bình luận một số vụ việc ni con ni điển hình tại Hải Phịng.
- Kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
nuôi con nuôi tại địa bàn thành phố Hải Phòng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu đặc thù của
khoa học xã hội bao gồm: phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Triết học Mác- Lê Nin; phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng
pháp so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với tính chất là một đề tài nghiên cứu một cách khá tồn diện, có hệ
thống các vấn đề về nuôi con nuôi, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại
một số đóng góp mới nhƣ sau:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về
ni con ni; phân tích những bất cập của áp dụng pháp luật về ni con
ni; từ đó đánh giá mối liên hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về nuôi con nuôi nhằm đƣa ra một số kiến nghị về lập pháp
và tổ chức thực hiện. Do đó, luận văn có thể trở thành một nguồn tài liệu

tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nhà lập pháp và các cá nhân, cơ
quan, tổ chức thực hiện pháp luật.
Thứ hai, luận văn góp phần tăng cƣờng hiệu quả quản lý Nhà nƣớc
trong lĩnh vực nuôi con ni; góp phần nâng cao nhận thức cho ngƣời dân,
cho các cán bộ Nhà nƣớc có thẩm quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi những
hiểu biết pháp luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là quan hệ giữa cha mẹ ni
với con ni; góp phần ổn định các quan hệ xã hội dân sự, phục vụ tích cực
cho đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền.
Thứ ba, khẳng định bản chất tiến bộ, dân chủ và ngày càng phù hợp
với thông lệ quốc tế và pháp luật quốc tế của pháp luật Việt Nam điều chỉnh
quan hệ ni con ni. Từ đó, giúp pháp luật ni con ni đi vào đời sống
xã hội nói chung.

4


7. Cơ cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và áp dụng pháp
luật về nuôi con nuôi
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nuôi con
nuôi.
Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về ni con ni
trên địa bàn thành phố Hải Phịng và một số kiến nghị.

5


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI
1.1.

Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nuôi con nuôi
Lịch sử đã cho thấy, nuôi con nuôi là hiện tƣợng tồn tại trong chế độ
xã hội và xuất hiện từ rất lâu trong đời sống để đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của con ngƣời, thể hiện mối quan hệ gắn bó, mật thiết của con ngƣời với
nhau.
Khái niệm nuôi con nuôi là việc một ngƣời (ngƣời nuôi) nhận ni
ngƣời khác (con ni) nhằm tạo ra những tình cảm gắn bó giữa hai ngƣời,
bảo đảm cho ngƣời con ni đƣợc u thƣơng, ni dƣỡng, chăm sóc, giáo
dục tốt. Thông qua việc này giữa ngƣời nuôi và con nuôi phát sinh các
quyền và nghĩa vụ nhƣ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ (Theo từ điển bách khoa
Việt Nam) [20, tr.316].
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm
con nuôi, bảo đảm cho ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc trơng nom, ni
dƣỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Giữa ngƣời nhận
nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con ni có các quyền, nghĩa vụ của
cha mẹ và con theo quy định của Luật này [7, Điều 67].
Tƣơng tự, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: Nuôi con nuôi là
việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận con nuôi và ngƣời
đƣợc nhận làm con nuôi [10, Điều 3, Khoản 1].
Nếu quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ là mối quan
hệ huyết thống tự nhiên. Quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ và con phát
sinh trong trƣờng hợp này không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ là hợp
pháp hay không hợp pháp. Ngƣợc lại, quan hệ nuôi con nuôi đƣợc hình

thành dựa trên ý chí của cha mẹ ni và con nuôi, quyền và nghĩa vụ pháp lý
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi đƣợc
pháp luật công nhận.
Nhƣ vậy, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ, con giữa
ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi, các bên đối xử với nhau nhƣ cha

6


mẹ đẻ và con đẻ mặc dù khơng có quan hệ với nhau về mặt sinh học và
huyết thống. Ở góc độ pháp lý, ni con ni có thể đƣợc nhìn nhận dƣới
góc độ: sự kiện pháp lý hoặc là quan hệ pháp luật.
Thứ nhất, ni con ni đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ là một sự kiện
pháp lý. Việc nuôi con nuôi bao gồm tập hợp các sự kiện pháp lý. Chỉ khi
nào hội tụ đủ các sự kiện này quan hệ nuôi con nuôi mới phát sinh hiệu lực
pháp lý. Cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền có thể công nhận việc nuôi con
nuôi khi các bên đƣơng sự thể hiện ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy đủ
các điều kiện cần của việc nuôi con ni [21] [18]. Nói cách khác, cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền có thể cơng nhận việc ni con khi các sự kiện cấu
thành đã đầy đủ và đƣợc liên kết lại với nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ
pháp luật nuôi con nuôi.
Sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế đƣợc pháp luật
quy định rõ các quyền và nghĩa vụ. Có nghĩa là những hồn cảnh, tình huống
điều kiện của đời sống thực tế đƣợc pháp luật ghi nhận trong các quy phạm
pháp luật gắn liền với việc làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể khi chúng xảy ra. Vì vậy, ni con nuôi là sự
kiện pháp lý. Và với tƣ cách là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi bao gồm
các điều kiện về nội dung và điều kiện về hình thức. Hai điều kiện này có
mối quan hệ với nhau và tạo ra hiệu lực pháp lý của quan hệ ni con ni.
Điều này có nghĩa, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật nuôi con

nuôi khi nó đáp ứng đƣợc các yếu tố sau: Một là, về chủ thể, ngƣời nhận
nuôi, ngƣời đƣợc nhận nuôi, cha mẹ đẻ phải đáp ứng đƣợc các điều kiện của
việc nuôi con nuôi. Việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện ni con ni do
pháp luật quy định chính là một điều kiện để các bên tham gia vào sự kiện
pháp lý phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Các điều kiện này đƣợc pháp luật
quy định và bắt buộc các chủ thể phải đáp ứng khi mong muốn xác lập quan
hệ nuôi con nuôi. Hai là, về sự thể hiện ý chí của các bên liên quan, các chủ
thể ngoài việc đáp ứng đƣợc các điều kiện của việc ni con ni thì cần
phải thể hiện ý chí của mình trong việc cho - nhận con ni. Theo đó, ngƣời
nhận nuôi con nuôi phải thể hiện mong muốn nhận nuôi đứa trẻ làm con
nuôi và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. Đối với cha, mẹ đẻ
hoặc ngƣời giám hộ của trẻ em đƣợc cho làm con ni cũng phải hồn tồn
tự nguyện, khơng có bất cứ sự tác động ngoại cảnh nào, dụ dỗ, ép buộc về
việc nuôi con nuôi…Mặt khác, bản thân ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi cũng

7


phải thể hiện ý chí về việc đồng ý ni con nuôi khi đạt một độ tuổi nhất
định. Cuối cùng việc ni con ni phải thể hiện ý chí của nhà nƣớc, thể
hiện qua việc công nhận hoặc không công nhận việc nuôi con nuôi thông
qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi hoặc từ chối việc đăng ký ni con
ni. Khi cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận việc nuôi con nuôi
làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc ni con ni.
Tóm lại, dƣới góc độ là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi đƣợc hiểu
là việc một ngƣời hoặc hai ngƣời là vợ chồng nhận nuôi một ngƣời khác
không do họ sinh ra, khơng có quan hệ huyết thống nhằm xác lập quan hệ
cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi trên cơ sở phù
hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ hai, ni con ni đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ là một quan hệ

pháp luật. Quan hệ nuôi con nuôi là những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
nuôi con nuôi đƣợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Là quan hệ pháp
luật, thì quan hệ ni con ni có thể đƣợc hiểu là một quan hệ pháp luật cụ
thể có đầy đủ các yếu tố: chủ thể, khách thể, nội dung hoặc có thể đƣợc hiểu
là một nhóm quan hệ pháp luật [20].
Trƣớc hết, ni con ni là một loại quan hệ pháp luật, có các yếu tố
cấu thành là: chủ thể, khách thể, nội dung. Cụ thể, chủ thể trong quan hệ
nuôi con nuôi bao gồm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và con nuôi. Là chủ thể của
quan hệ pháp luật nuôi con ni thì các bên chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện tƣơng ứng theo quy định của pháp luật về nuôi con nuôi. Khách
thể của quan hệ nuôi con ni: là những lợi ích mà các bên chủ thể hƣớng
tới. Những lợi ích đó là những lợi ích tinh thần và vật chất mà cả ngƣời nhận
nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi mong muốn đƣợc hƣởng và
hƣớng tới (đó có thể là lợi ích tình cảm của cha mẹ ni và con ni, đáp
ứng điều kiện cho sự phát triển đầy đủ của trẻ em, đáp ứng đƣợc mong muốn
của cha mẹ đẻ là con của họ sẽ có một mái ấm tốt đẹp tại gia đình của cha
mẹ ni)…Nội dung quan hệ ni con nuôi là những quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể do pháp luật quy định khi tham gia vào quan hệ ni
con ni. Nó bao gồm các quyền và nghĩa vụ nhân thân và quyền và nghĩa
vụ tài sản giữa các chủ thể.
Ngồi ra, quan hệ ni con ni cịn đƣợc hiểu theo nghĩa là nhóm
quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Các quan hệ này cụ thể nhƣ:
quan hệ pháp luật hình sự khi có hành vi lợi dụng việc ni con ni để mua

8


bán trẻ em; quan hệ tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc ni con ni;
quan hệ hành chính trong việc đăng ký và quản lý việc nuôi con nuôi; quan
hệ hơn nhân và gia đình trong việc điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của ngƣời

nhận nuôi con nuôi…Tập hợp các quan hệ pháp luật này thể hiện sự điều
chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi
con nuôi.
Nhƣ vậy, khái niệm ni con ni có thể đƣợc hiểu dƣới nhiều góc độ
và đƣợc xét ở nhiều khía cạnh, nhƣng dù dƣới góc độ hay khía cạch nào thì
có thể thấy các trƣờng hợp nuôi con nuôi đều xuất phát từ ý chí chủ quan
của cha mẹ ni, cha mẹ đẻ và con ni.
Quan hệ ni con ni là có thể chấm dứt bởi một số căn cứ tùy theo
pháp luật của từng quốc gia. Thực tiễn cho thấy quan hệ cha mẹ con đƣợc
hình thành trên cơ sở huyết thống nhƣng quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ
ràng buộc một ngƣời vào một hoặc hai ngƣời khác. Những ngƣời có liên
quan khơng có mối quan hệ huyết thống với nhau nhƣ cha mẹ con ruột
nhƣng ngƣời nuôi đƣợc xem nhƣ cha mẹ của ngƣời đƣợc nuôi, dù không
sinh ra ngƣời đƣợc nuôi dƣỡng [20]. Mặc dù là quan hệ cha, mẹ, con nhân
tạo, phát sinh dựa trên ý chí của các bên nhƣng giữa cha mẹ và con nuôi vẫn
phát sinh các quyền và nghĩa vụ giống nhƣ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Từ
khái niệm về nuôi con ni có thể rút ra một số đặc điểm của ni con ni
nhƣ sau:
- Ni con ni phải có sự thể hiện ý chí của ngƣời nhận ni con
ni. Ngƣời nhận con ni có thể vì nhiều lí do khác nhau nhƣng trƣớc hết
là từ nhu cầu của ngƣời nuôi muốn nuôi dƣỡng một đứa trẻ nhằm thiết lập
quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Nhu cầu đó bị chi phối trƣớc tiên từ yếu
tố tình cảm, xuất phát từ ý chí và sự chủ động của ngƣời nhận con nuôi.
Ngƣời nuôi con nuôi muốn thông qua việc nhận nuôi một đứa trẻ để thoả
mãn những nhu cầu nhất định của bản thân và gia đình. Bản thân ngƣời nhận
nuôi con nuôi mới nhận thức đƣợc đầy đủ và hiểu rõ mong muốn của mình
trong việc nhận ni con nuôi. Nhu cầu của ngƣời nhận nuôi là lý do chủ
yếu dẫn tới việc xác lập quan hệ nuôi con ni. Ngƣời nhận ni con ni
thƣờng có suy nghĩ kỹ trƣớc khi đi đến quyết định nhận nuôi con ni. Việc
có nhận ni con ni hay khơng là do chính bản thân ngƣời nhận con ni

quyết định trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, chủ động và hiểu biết đầy đủ về
hậu quả pháp lý của nó. Song, sự tự nguyện đó phải xuất phát từ nhu cầu

9


tình cảm, tinh thần của ngƣời nhận ni con ni và phù hợp với lợi ích của
ngƣời đƣợc nhận làm con ni thì mới đƣợc coi là hợp pháp. Nếu việc nhận
nuôi con nuôi xuất phát từ những động cơ, mục đích trái pháp luật, trái đạo
đức thì sẽ khơng có giá trị pháp lý.
Trong trƣờng hợp cả hai vợ chồng cùng nhận ni con ni thì bản
chất của vấn đề vẫn khơng thay đổi, có khác chỉ là ở chỗ sự thể hiện ý chí
mong muốn nhận ni con ni phải là ý chí chung của cả hai vợ chồng. Hai
vợ chồng phải thoả thuận và thống nhất đƣợc về việc nhận nuôi con nuôi.
- Nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc ngƣời giám
hộ của ngƣời đƣợc cho làm con nuôi.
Việc cho con mình làm con ni ngƣời khác thƣờng là việc làm bất
đắc dĩ trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Do đó, cha mẹ đẻ ln
cân nhắc, suy nghĩ kĩ trƣớc khi quyết định cho con mình làm con ni với
mong muốn đứa trẻ sẽ có mơi trƣờng, điều kiện sống tốt hơn, khi bản thân
họ khơng thể có điều kiện ni dƣỡng, chăm sóc cho trẻ. Việc cho con làm
con nuôi phải xuất phát từ sự tự nguyện của cha mẹ đẻ trên cơ sở lợi ích của
đứa trẻ. Sự tự nguyện ở đây là sự tự nguyện đƣợc hình thành trên cơ sở nhận
thức đƣợc đầy đủ ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc cho con làm con ni,
phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù hợp với lợi ích của
ngƣời con nuôi. Mọi sự đồng ý cho con làm con ni vì mục đích trục lợi
đều khơng phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và không phải hồn
tồn tự nguyện. Vì vậy, mọi sự tác động, dụ dỗ, lừa dối, cƣỡng ép… để có
đƣợc sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi cũng
đều không hợp pháp và về nguyên tắc khơng có giá trị pháp lý.

Trong nhiều trƣờng hợp, khơng xác định đƣợc cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ
đẻ của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đều chết, bị tuyên bố chết hoặc mất
năng lực hành vi dân sự mà ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi là ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự
thể hiện ý chí của ngƣời giám hộ về việc ni con ni.
Từ những phân tích trên cho thấy sự thể hiện ý chí của ngƣời cho con
nuôi là hành vi pháp lý đơn phƣơng, thể hiện ý chí độc lập của một bên chủ
thể (bên cho con ni). Hành vi pháp lý đơn phƣơng đó có thể do một chủ
thể thực hiện (cha đẻ hoặc mẹ đẻ của đứa trẻ khi một bên chết trƣớc hoặc
mất năng lực hành vi dân sự…) nhƣng cũng có thể do hai chủ thể thực hiện
(cha mẹ đẻ cùng thoả thuận cho con làm con nuôi, ông bà với tƣ cách là

10


ngƣời giám hộ cho cháu chƣa thành niên…). Hành vi pháp lý đơn phƣơng
này chỉ phát sinh hậu quả pháp lý khi có sự tiếp nhận của chủ thể phía bên
kia là ngƣời nhận nuôi con nuôi và đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
cơng nhận.
- Ni con ni thể hiện ý chí của ngƣời đƣợc nhận làm con ni.
Ý chí của ngƣời đƣợc nhận làm con ni là một đặc trƣng của quan hệ
nuôi con nuôi. Đối tƣợng đƣợc nhận làm con ni có thể là ngƣời chƣa
thành niên hoặc ngƣời đã thành niên. Nếu ngƣời đƣợc nhận làm con ni là
ngƣời thành niên thì phải có ý kiến của ngƣời đó. Mặt khác, trƣờng hợp
ngƣời chƣa thành niên đƣợc nhận làm con ni thì cũng phải có ý kiến của
ngƣời đó. Hầu hết pháp luật các nƣớc cho rằng, mặc dù ngƣời chƣa thành
niên chƣa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhƣng khi họ đạt đến một độ
tuổi nhất định thì cũng có khả năng bày tỏ quan điểm của mình về việc có
đồng ý làm con nuôi hay không. Điều này là vô cùng quan trọng vì việc ni
con ni trƣớc tiên xuất phát từ lợi ích của ngƣời đƣợc nhận ni. Mặt khác,

sự đồng ý của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi phải phù hợp với nhận thức,
tình cảm của họ. Chỉ trên cơ sở đó thì sự đồng ý mới có giá trị pháp lý vì nó
minh bạch, rõ ràng. Nếu sự đồng ý có đƣợc do dụ dỗ, mua chuộc hay bị lừa
dối, cƣỡng ép, khống chế…đều làm cho việc ni con ni khơng có giá trị
pháp lý. Vì vậy, sự đồng ý của bản thân ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi đƣợc
coi là hành vi pháp lý đơn phƣơng, phát sinh một cách độc lập, vào bất cứ
thời điểm nào mà khơng phụ thuộc vào ý chí của cha mẹ đẻ, ngƣời giám hộ.
- Nuôi con nuôi thể hiện ý chí của Nhà nƣớc
Ý chí của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện qua việc công nhận hoặc không
công nhận việc ni con ni trên cơ sở xem xét ý chí tự nguyện của các bên
đƣơng sự, thẩm tra các điều kiện cần thiết về phía ngƣời nhận ni và ngƣời
đƣợc nhận làm con ni, cũng nhƣ mục đích của việc nuôi con nuôi. Sự
công nhận của Nhà nƣớc là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và đứa trẻ đƣợc nhận nuôi. Hiện nay,
trên thế giới, việc nuôi con ni có thể đƣợc xác lập bởi thủ tục hành chính
hoặc thủ tục tƣ pháp.
1.1.2. Các hình thức ni con nuôi
Dựa theo khái niệm nuôi con nuôi đƣợc tiếp cận, có thể xác định cách
thức xác lập quan hệ ni con ni trong thực tế, đó là: xác lập ni con
nuôi về mặt xã hội và xác lập nuôi con nuôi về mặt pháp lý.
11


- Các hình thức ni con ni về mặt xã hội
Thực tế đời sống cho thấy có khá nhiều trƣờng hợp nhận con nuôi
nhƣng không đăng ký việc nuôi con ni tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền. Đây là những trƣờng hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã
hội. Qua thực tế xã hội, nuôi con ni đƣợc xác lập theo hai hình thức: ni
con ni trên danh nghĩa, nuôi con nuôi thực tế.
Nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ

ni và con ni xuất phát từ tình cảm, nhƣng không gắn với quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ và con, khơng nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và
con trong thực tế. Việc nuôi con nuôi này thƣờng đƣợc thực hiện dƣới hình
thức thỏa thuận bằng miệng giữa bên cha mẹ nuôi và con nuôi. Quan hệ giữa
các bên chủ thể trong hình thức này thƣờng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có ý
nghĩa đối với bên cha mẹ ni và con ni, mà khơng có ý nghĩa nhiều đối
với những ngƣời khác trong gia đình của hai bên, những ngƣời xung quanh
và xã hội. Ví dụ: việc nhận những ngƣời già cả, khơng có khả năng lao động
là cha ni, mẹ ni để chăm sóc, nuôi dƣỡng, hoặc cho con làm con nuôi
của những ngƣời giỏi giang, có đức, có tài… trên danh nghĩa để con cái có
thể học đƣợc những phẩm chất tốt đẹp của họ. Đặc biệt trong điều kiện kinh
tế thị trƣờng, việc ni con ni trên danh nghĩa cịn thể hiện sự chăm sóc,
quan tâm của cộng đồng đối với những ngƣời nghèo khổ, già cả, trẻ mồ côi
không nới nƣơng tựa.
Ni con ni thực tế là hình thức ni con ni làm hình thành quan
hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi.
Việc nhận nuôi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của việc ni, khơng trái với
mục đích của việc ni con nuôi và đạo đức xã hội. Ngƣời con nuôi cùng
sống trong gia đình cha mẹ ni. Giữa các bên chủ thể có mong muốn thiết
lập quan hệ cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con,
đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con để xây
dựng một gia đình thật sự. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên đã đƣợc xác
lập trong thực tế, đƣợc họ hàng và mọi ngƣời xung quanh công nhận. Việc
nhận ni con ni có thể đƣợc thực hiện bằng lời nói hoặc văn bản thỏa
thuận giữa hai bên gia đình, nhƣng khơng đăng ký tại cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền. Quan hệ ni con ni thực tế đã hình thành và tồn tại quan hệ
cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi trong thực tế
cuộc sống.

12



- Các hình thức ni con ni về mặt pháp lý
Trong hệ thống các văn bản pháp luật có văn bản nào quy định về các
hình thức ni con ni. Tuy nhiên, dƣới góc độ pháp lý, việc ni con ni
đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền cơng nhận có thể phát sinh hai hình
thức, ni con ni đơn giản và ni con ni đầy đủ.
Hình thức ni con nuôi đơn giản là xác lập quan hệ cha, mẹ và con
giữa ngƣời nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi mà không làm chấm dứt các
mối liên hệ pháp lý giữa ngƣời đƣợc nhận với cha mẹ đẻ và gia đình huyết
thống. Đây là hình thức ni con ni phản ánh rõ phong tục, tập quán của
ngƣời Việt Nam hƣớng về cội nguồn, coi trọng nguồn gốc tổ tiên, gia đình,
coi trọng mối quan hệ huyết thống.
Ở hình thức ni con nuôi này, giữa cha mẹ đẻ và ngƣời đƣợc cho làm
con nuôi vẫn tồn tại các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Ví dụ: theo pháp luật
Việt Nam cha mẹ đẻ và con ni vẫn có quyền hƣởng di sản thừa kế của
nhau… Ngƣời con nuôi chỉ đƣợc thừa kế tài sản của cha mẹ ni, chứ khơng
có quyền thừa kế đối với tài sản của ngƣời khác trong gia đình ni nhƣ con
đẻ của ngƣời ni. Việc ni con ni đơn giản có thể chấm dứt theo u
cầu của các bên. Chấm dứt ni con ni có hiệu lực làm cho quan hệ giữa
cha mẹ nuôi và con ni khơng cịn tồn tại trong tƣơng lai.
Ni con ni đầy đủ là hình thức ni con ni phổ biến ở nhiều
nƣớc trên thế giới và đối với Việt Nam hình thức này đã tồn tại trong thực
tế ở nƣớc ta. Hình thức này thƣờng áp dụng đối với trẻ em mồ cơi, trẻ bị bỏ
rơi…Ni con ni ở hình thức này dẫn đến cắt đứt hoàn toàn các mối liên
hệ pháp lý giữa ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi với gia đình cha mẹ đẻ, đồng
thời làm phát sinh đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con ni.
Ngƣời đƣợc nhận làm con ni có mọi quyền lợi nhƣ con đẻ trong gia đình
cha mẹ ni.
Hình thức nuôi con nuôi đầy đủ nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ

em đƣợc nhận làm con nuôi, tạo điều kiện để trẻ em phát triển bình thƣờng
mà khơng bị mặc cảm là con ni khi hịa nhập vào đời sống gia đình và
cộng đồng xã hội; xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ pháp lý của ngƣời nhận
và ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi. Việc nuôi con nuôi đầy đủ làm phát sinh
tất cả quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi, đồng thời làm chấm
dứt hoàn toàn quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa ngƣời đƣợc nhận làm con

13


ni với gia đình gốc, giữa cha mẹ đẻ và con khơng cịn mối liên hệ pháp lý
nào.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Thứ nhất, đối với Nhà nƣớc, việc nhận ni con ni góp phần làm
giảm gánh nặng của Nhà nƣớc trƣớc tình trạng trẻ em lang thang, không nơi
nƣơng tựa, không nguồn nuôi dƣỡng, hạn chế trẻ em có thể có hành vi vi
phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục
của gia đình, nhà trƣờng và xã hội…Đây là cơ sở để đảm bảo sự ổn định,
phát triển của đất nƣớc đồng thời cũng giảm đi gánh nặng đối với ngân sách
Nhà nƣớc vì khơng phải đƣa các em vào cơ sở bảo trợ xã hội mà vẫn đảm
bảo đƣợc lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Thứ hai, việc nuôi con nuôi sẽ đáp ứng một đƣợc lợi ích của ngƣời
nhận nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi. Ngƣời nhận ni đƣợc nhu cầu tình
cảm, tinh thần một cách đầy đủ, trọn vẹn của một ngƣời làm cha, làm mẹ.
Đối với trẻ em đƣợc nhận làm con nuôi là việc đƣợc chăm sóc, đƣợc ni
dƣỡng đƣợc sống trong tình u thƣơng trong một gia đình, nơi có vai trị
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con ngƣời.
Thứ ba, việc nuôi con nuôi thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tình yêu thƣơng, tính nhân đạo, tinh thần trách nhiệm, mối quan hệ tƣơng
thân tƣơng ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con ngƣời với con ngƣời. “Trẻ em hôm

nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý nghĩa, vai trò và tầm
quan trọng của trẻ em. Do trẻ em cịn nhỏ, chƣa phát triển tồn diện về thể
chất và trí tuệ nên cần phải đƣợc bảo vệ, ni nấng, cần đƣợc trƣởng thành
trong mơi trƣờng gia đình, trong bầu khơng khí hạnh phúc, u thƣơng và
phát triển đầy đủ và hài hịa nhân cách của mình. Đặc biệt trong hồn cảnh
đất nƣớc cịn chịu những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế
- xã hội còn khó khăn, mức thu nhập của ngƣời dân chƣa cao, nhiều trẻ em
có hồn cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình để sống và đƣợc u thƣơng,
chăm sóc, thì vấn đề ni con ni càng trở lên cấp thiết trong đời sống xã
hội, đảm bảo cho trẻ em đƣợc lớn lên trong mơi trƣờng gia đình, trong bầu
khơng khí hạnh phúc để trở thành ngƣời cơng dân có ích cho xã hội. Trong
thời gian qua, có rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi khi vừa mới sinh ra, rất nhiều trẻ
em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị di chứng do ảnh hƣởng của chiến tranh để lại,
trẻ em là con của các gia đình nghèo mà cha mẹ đẻ khơng có đủ điều kiện để

14


chăm sóc con cái. Các em phải sớm lăn lộn với đời, tự bƣơn chải làm đủ các
nghề để kiếm sống nhƣ bán vé số, đánh giầy, ăn xin, tham gia lao động nặng
nhọc sớm... Với mơi trƣờng đó các em dễ bị các phần tử xấu dụ dỗ, lôi kéo,
khơng ít những đứa trẻ đã kiếm sống bằng nghề móc túi, cƣớp giật, trộm
cắp, đâm chém thuê...và các em sẽ trở thành gánh nặng của xã hội. Vì vậy,
việc các em đƣợc nhận làm con ni có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ
riêng với cuộc đời của các em mà cịn có ý nghĩa đối với tồn xã hội. Việc
nuôi con nuôi không chỉ là biện pháp tốt nhất, phù hợp và có lợi nhất đối với
trẻ em mà còn là cách thực hiện hợp pháp quyền làm cha mẹ của cá nhân.
1.2.

Lý luận về áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi


1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật về nuôi con
nuôi
Pháp luật về nuôi con nuôi là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà
nƣớc ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. Về
lý luận, áp dụng pháp luật là hình thứ thực hiện pháp luật trong đó nhà nƣớc
thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các
chủ thể pháp luật thực hiện các quy định pháp luật để tạo ra các quyết định
làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ
thể. Nhƣ vậy, áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi là hoạt động của các chủ
thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành để đƣa ra
quyết định có tính cá biệt nhằm điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi. Việc áp
dụng pháp luật nuôi con nuôi có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật về ni con ni là hoạt động mang tính tổ
chức thể hiện quyền lực Nhà nƣớc. Hoạt động áp dụng pháp luật về nuôi con
nuôi chỉ do những cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan
Nhà nƣớc trong phạm vi thẩm quyền đƣợc giao thực hiện một số những hoạt
động áp dụng pháp luật nhất định. Trong q trình áp dụng pháp luật về ni
con ni mọi khía cạnh, mọi tình tiết đều phải đƣợc xem xét cẩn trọng và
dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật về nuôi con
nuôi đã đƣợc xác định để ra quyết định cụ thể. Nhƣ vậy pháp luật về nuôi
con nuôi là cơ sở xuất phát điểm để các cơ quan Nhà nƣớc có quyền áp dụng
pháp luật về ni con ni thực hiện chức năng của mình.

15


Thứ hai, áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi là hoạt động có hình thức
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Pháp luật xác định rõ ràng cơ sở,
điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ nuôi con nuôi và

con nuôi trong q trình áp dụng pháp luật về ni con ni. Các cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền và các bên có liên quan trong q trình áp dụng
pháp luật về nuôi con nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính
thủ tục đó.
Thứ ba, áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi là hoạt động điều chỉnh cá
biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội về nuôi con nuôi. Đối tƣợng của hoạt
động áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi là những quan hệ xã hội về nuôi
con nuôi cần đến sự điều chỉnh cá biệt của các quy phạm pháp luật về nuôi
con nuôi. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi những quy
phạm pháp luật nhất định đƣợc cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác.
Thứ tư, áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi là hoạt động địi hỏi tính
sáng tạo. Khi áp dụng pháp luật về ni con ni, các cơ quan Nhà nƣớc có
thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của
nó để từ đó lựa chọn quy phạm về nuôi con nuôi, ra văn bản áp dụng pháp
luật về nuôi con nuôi và tổ chức thi hành. Trong trƣờng hợp pháp luật về
nuôi con nuôi chƣa quy định hoặc quy định chƣa rõ thì phải vận dụng một
cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật một cách tƣơng tự. Để đạt tới
điều đó, địi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức
tổng hợp kinh nghiệm phong phú [25].

1.2.2. Các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi
Hiệu quả việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi phụ thuộc rất nhiều
điều kiện và tiêu chuẩn khác nhau, tuy nhiên trong nội dung luận văn này chi
xin nêu một số tiêu chuẩn và điều kiện cơ bản ảnh hƣởng đến việc áp dụng
pháp luật về ni con ni.
Một là, sự hồn thiện của hệ thống các văn bản pháp luật về nuôi con
nuôi. Để đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật nuôi con nuôi có hiệu quả thì
địi hỏi phải có sự đảm bảo về pháp lý trong đó có sự hồn thiện của hệ
thống pháp luật thực định. Do đó, pháp luật về nuôi con nuôi phải đảm bảo
các yếu tố nhƣ sau:


16


Tính có cơ sở và hợp lý của quy phạm pháp luật về ni con ni:
Đó là những điều kiện và yêu cầu mà sự tồn tại của chúng cần thiết để
cho quy pháp pháp luật về nuôi con nuôi trở thành công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội về ni con ni thật sự có hiệu quả cao.Trƣớc hết việc ban
hành pháp luật nuôi con nuôi phải bảo đảm tính khoa học. Theo đó, quy
phạm pháp luật ni con nuôi phải đƣợc xây dựng trên cơ sở khoa học, phản
ánh đúng thực tại khách quan và những quy luật vận động phát triển của nó.
Quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi phải đƣợc xây dựng phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Nó khơng thể q cao hơn so với
điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và trình độ văn hóa của Nhân dân.
Ban hành đúng lúc, kịp thời: văn bản quy phạm pháp luật về nuôi con
nuôi phải đƣợc ban hành đúng thời điểm và đáp ứng kịp thời phù hợp với
các quan hệ xã hội về nuôi con nuôi. Tất cả những vấn đề nêu trên phụ thuộc
rất nhiều vào tầm nhìn xa, trơng rộng, sự sáng suốt và am hiểu về lĩnh vực
pháp luật cũng nhƣ những lĩnh vực khác của ngƣời trực tiếp xây dựng pháp
luật về ni con ni.
Tính có ích của quy phạm pháp luật về ni con ni: Đó chính là kết
quả thực tế đạt đƣợc khi điều chỉnh pháp luật về nuôi con nuôi (quản lý xã
hội bằng pháp luật). Quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi đƣợc ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội có thể có ích, có thể khơng có ích. Điều này
liên quan chặt chẽ tới q trình tổ chức thực hiện pháp luật về ni con nuôi.
Quy phạm pháp luật nuôi con nuôi đã ban hành nếu trong thực tế không
đƣợc thực hiện hoặc đƣợc thực hiện khơng nghiêm thì có thể khơng có ích
mà cịn hay hại cho xã hội. Nhƣ vậy, tính có ích của pháp luật về nuôi con
nuôi thể hiện giá trị thật sự của nó trong đời sống xã hội.
Hai là, năng lực của đội ngũ của cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp

luật ni con ni và trình độ pháp lý của nhân dân. Một trong những yếu tố
quan trọng quyết dịnh hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi
là năng lực của đội ngũ cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền nhƣ trình độ
chun mơn, phẩm chất đạo đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội
ngũ cán bộ. Ngoài ra, trình độ pháp lý của ngƣời dân cũng là yếu tố tác động
để hiệu quả áp dụng pháp luật. Chỉ khi trình độ pháp luật về ni con ni
đƣợc nâng cao thì mới đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng đắn, chính xác.

17


Ba là, ý thức pháp luật của chủ thể thực hiện việc áp dụng pháp luật.
Ý thức pháp luật của chủ thể thực hiện việc áp dụng pháp luật là một trong
những nhân tố quyết định đối với toàn bộ quy trình áp dụng pháp luật và
hiệu quả đem lại trên thực tế. Ý thức pháp luật của chủ thể bao gồm sự hiểu
biết pháp luật, thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và bản lĩnh nghĩa
nghiệp để có thể đƣa ra quyết định đúng đắn, chính xác khi áp dụng pháp
luật về ni con ni. Nói cách khác, hiệu quả áp dụng pháp luật nuôi con
nuôi phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết pháp luật, thái độ tôn trọng, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng.
Bốn là, hiệu quả áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi liên quan tới cơ
chế điều chỉnh pháp luật về nuôi con nuôi. Kết quả tác động của pháp luật về
nuôi con nuôi phụ thuộc vào tất cả các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp
luật nuôi con nuôi. Điều này đòi hỏi mỗi yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp
luật về ni con ni đều phải có hiệu quả cao. Trong đó có hiệu quả của
các văn bản áp dụng pháp luật về ni con ni. Điều này địi hỏi tất cả các
văn bản áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi từ giai đoạn đầu tới giai đoạn
cuối đều phải có cơ sở thực tế có cơ sở pháp lý; hợp tình, hợp lý, có nội
dung đầy đủ, ban hành đúng thủ tục và có tính thuyết phục cao. Đảm bảo
đƣợc những điều nói trên sẽ làm cho hoạt động áp dụng pháp luật về nuôi

con nuôi đƣợc tiến hành nhanh chóng, chính xác đạt hiệu quả cao, xóa bỏ,
hạn chế những thiệt hại xẩy ra trong quá trình điều chỉnh pháp luật về ni
con ni.

[

18


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI

2.1. Quy định hiện hành về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi
Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi đƣợc quy định tại Điều 4
Luật Nuôi con nuôi, đƣợc áp dụng cho việc nuôi con nuôi trong nƣớc và
ni con ni có yếu tố nƣớc ngồi. Các ngun tắc giải quyết việc nuôi con
nuôi theo quy định của Luật Ni con ni đã nội luật hóa các ngun tắc
của Công ƣớc La hay và phát triển những nguyên tắc đó cho phù hợp với
đặc điểm văn hóa, xã hội truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Thứ nhất, nguyên tắc khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn
trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng con ngƣời, là môi
trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội
tốt thì gia đình càng tốt [7]. Gia đình gốc là gia đình của những ngƣời có
quan hệ huyết thống bao gồm: bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, em ruột của trẻ. Gia
đình có vai trị cần thiết đối với mỗi cá nhân, đặc biệt đối với trẻ em thì gia
đình gốc đƣợc coi là môi trƣờng lý tƣởng nhất cho sự phát triển. Do đó, để
trẻ em đƣợc sống trong gia đình gốc là việc làm cần đƣợc ƣu tiên hàng đầu

để bảo đảm trẻ em đƣợc lớn lên trong bầu khơng khí u thƣơng của cha mẹ
đẻ; tơn trọng quyền trẻ em đƣợc lớn lên trong bầu khơng khí u thƣơng của
cha mẹ đẻ, ngƣời thân thích ruột thịt của mình. Việc ni con ni chỉ là
biện pháp thay thế gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Con ni có quyền
đƣợc biết về nguồn gốc của mình, khơng ai đƣợc cản trở con nuôi điều này.
Nhà nƣớc khuyến khích, tạo điều kiện cho con ni là ngƣời Việt Nam ở
nƣớc ngoài về thăm quê hƣơng. Quy định này hồn tồn phù hợp với Cơng
ƣớc La Hay và các văn kiện quốc tế về vấn đề nuôi con nuôi mà Việt Nam
ký kết với các quốc gia trên thế giới.
Nguyên tắc này thể hiện rõ quy định về “thứ tự ƣu tiên lựa chọn gia
đình thay thế” cho trẻ em. Theo đó, nếu trẻ khơng đƣợc cha, mẹ đẻ chăm
sóc, ni dƣỡng, giáo dục thì ƣu tiên cho những ngƣời thân trong gia đình,

19


×