Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quản lý văn hoá trong xu thế xã hội hoá trên địa bàn tỉnh bắc kạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.48 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU:

Chương I: Xã hội hoá văn hoá và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế
thị trường.
5
1.1
Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường.
5
1.1.1
Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá như một hệ thống sản xuất.
5
1.1.2
Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường.
9
1.1.3
Quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường.
12
1.2
Xã hội hoá văn hoá ở nước ta hiện nay.
17
1.2.1
Xã hội hố văn hố.
17
1.2.2
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá văn hoá.
22
Chương II: Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá ở


tỉnh Bắc Kạn.
25
2.1
Diện mạo đời sống kinh tế văn hoá xã hội tỉnh Bắc Kạn.
25
2.1.1
Đặc điểm về tự nhiên.
25
2.1.2
Kinh tế xã hội tỉnh Bắc Kạn.
33
2.1.3
Đời sống văn hoá xã hội ở tỉnh Bắc Kạn.
36
2.2
Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá ở
tỉnh Bắc Kạn.
44
2.2.1
Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động văn hố thơng tin.
44
2.2.2
Thực trạng quản lý hoạt động văn hố thơng tin.
51
2.2.3
Thực trạng quản lý hoạt động dịch vụ văn hoá trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn.
55
Chương III: Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá
ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay.

57
3.1
Những yêu cầu khách quan và qui luật tất yếu của quản lý hoạt động
văn hoá trong xu thế xã hội hố.
57
3.1.1
Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay.
59
3.1.2
Chính sách và pháp luật về quản lý hoạt động văn hố thơng tin.
62
3.2
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt đơng văn hố trong xu thế xã hội
hoá ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay.
66
3.2.1
Quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá.
66
77
3.2.2
Tổ chức hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá.
81
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

1



Lời mở đầu:
1. Đặt vấn đề:
Xã hội hố nói chung, xã hội hố các hoạt động văn hố nói riêng là một chủ
trương lớn của đảng và Nhà nước ta nhằm động viên sức người, sức của, của các tầng
lớp nhân dân, huy động mọi tiềm năng, trí tuệ và vật chất của toàn xã hội tham gia vào
hoạt động văn hoá nhằm làm cho các hoạt động văn hoá là họat động của tồn dân,
tồn dân có quyền tham gia sáng tạo, cung cấp, phổ biến và tạo ra nhiều sản phẩm, tác
phẩm, cơng trình văn hố có chất lượng, phong phú và đa dạng, dân tộc và hiện đại,
khơng ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hố của nhân dân. Với quan điểm chỉ đạo
và định hướng của Đảng là ”Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý văn hố, đẩy
mạnh hồn thiện cơ chế chính sách, tăng nguồn lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục
tiêu, phương thức và nguồn vốn đầu tư. Tập chung nguồn lực đầu tư cho các mục tiêu
ưu tiên, chương trình quốc gia về phát triển văn hố, hỗ trợ đầu tư cho các vùng miền
núi, biên giới hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều
khó khăn; chuyển đổi tồn bộ các đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc ngành văn hố
sang cơ chế cung ứng dịch vụ cơng ích có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức, quản lý và
hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi, thực hiện đúng mục tiêu, nhiệm vụ, thường
xuyên nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ, sản phẩm đảm bảo quyền lợi và cơ hội
sáng tạo bình đẳng của người hưởng thụ”.
Đây là chủ trương đúng đắn của Đảng trong việc triển khai thực hiện xã hội hoá
hoạt động văn hoá trong cả nước. Trước xu thế tồn cầu hố, giao lưu văn hoá mở
rộng cùng với sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới,
sự hỗ trợ của công nghệ thông tin viễn thông những thành tựu về văn hoá nghệ thuật
của thế giới đã nhanh chóng đến với nhân dân ta. Đó là thời cơ thuận lợi để văn hoá
Việt nam phát triển và tiếp thu các tinh hoa của thế giới, sáng tạo và vun đắp nên
những giá trị mới; song cũng nhiều nguy cơ khó lường, trước những âm mưu diễn
biến hồ bình của các thế lực thù địch, địi hỏi chúng ta phải thận trọng xem xét,
nghiên cứu và xác định từng bước đi thích hợp để đáp ứng xu thế của thời đại. Xã hội
2



hoá các hoạt động văn hoá cũng là hoạt động mới mẻ, đã có bước tiến mới với triển
vọng mới, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp đan xen giữa “ xã hội hoá” và
“thương mại hoá” cùng với sự tác động của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng không
nhỏ tới tư tưởng, hành vi của các chủ thể tham gia vào hoạt động xã hội hoá.Trước hết
là đáng lo ngại về tính tự phát trong việc quay lại cái cũ, nhân danh ‘’ trở về nguồn’’
và cả tính tự phát trong việc đón nhận cái mới .xen lẫn trong những phong tục lành
mạnh, đã khôi phục không ít nhưng tập tục xấu như: Bói tốn, dồng bóng, rượu chè,
mê tín, lễ lạt, cờ bạc …cả ở nơng thơn và thành thị. Trong khi đó, sự du nhập ồ ạt
những băng hình, tranh ảnh,đĩa hát nước ngồi, khơng được kiểm soát đến nơi đến
chốn, đã đầu độc đáng ngại đến nhận thức và thẩm mỹ trong thế hệ trẻ, bắt đầu gây ra
những diễn biến xấu về lối sống. Bị mê hoặc về sắc thái thời thượng của văn hố nước
ngồi, nhiều chương trình điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, sách báo… rơi vào con đường
câu khách chạy theo thị hiếu rẻ tiền, lai căng, hoặc có khi bị tê liệt khơng tìm thấy
phương hướng đến với cơng chúng. Nhiều lĩnh vực nghệ thuật bị tiếp tục chao đảo,
chưa tìm được hướng đi tích cực.
Trước thực trạng trên, vấn đề đặt ra cho chúng ta là: Làm sao vừa mở rộng xã hội
hoá lại vừa nâng cao được chất lượng nghệ thuật, đồng thời tăng cường hiệu quả
công tác quản lý nhà nước nhằm tạo ra được một mơi trường văn hố phong phú,
lành mạnh, văn minh, đầy tính nhân văn. Trước u cầu của q trình hội nhập và
những đòi hỏi ngày càng đa dạng phong phú các loại hình hoạt động xã hội hố văn
hố cần chúng ta - những nhà quản lý quan tâm nghiên cứu và làm thế nào để tạo điều
kiện mở rộng xã hội hoá các hoạt động văn hoá mà vẫn đảm bảo định hướng.
Trong cơ chế thị trường, rõ ràng cần phải thay đổi các cách thức quản lý để tác
động thúc đẩy các hoạt động văn hoá nhạy cảm hơn, năng động hơn theo kịp nhu cầu
xã hội. Bản thân là cán bộ quản lý của nghành văn hoá thể thao và du lịch tỉnh Bắc
Kạn với suy nghĩ và mong muốn được đóng góp một số ý kiến của mình vào cơng tác
quản lý văn hố trong xu thế xã hội hố ở địa phương, nên tơi chọn đề tài: ’’Quản lý
văn hoá trong xu thế xã hội hoá trên địa bàn tỉnh bắc kạn hiện nay’’để làm khoá

luận tốt nghiệp.
3


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đề cập và nghiên cứu đến công tác quản lý các hoạt động văn hoá trong xu
thế xã hội hoá văn hố trên phạm vi tồn tỉnh Bắc Kạn
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa trên nền tảng triết học duy vật biện chứng và các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về việc phát triển văn hoá trong giai đoạn hiện nay căn cứ vào cơ sở lý luận
khoa học của chuyên ngành và liên ngành kết hợp các phương pháp:
- Khảo cứu quan sát thực địa và phỏng vấn thăm dị
- Sưu tầm tổng hợp phân tích tư liệu và tổng kết đúc rút kinh nghiệm
- Dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng để nhìn nhận vấn đề.
- Về thực tiễn:
Q trình nghiên cứu có sử dụng các phương pháp; điều tra, sưu tầm, khảo cứu,
hệ thống hoá, thống kê,phương pháp kế thừa, phương pháp chuyên gia, cố vấn.
4. Đóng góp của đề tài:
Với những kiến thức và lý luận được trang bị trong khoá học đồng thời là cán bộ
quản lý của nghành văn hoá, thể thao &du lịch, nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích
góp phần cho cơng tác quản lý văn hố trong xu thế xã hội hố ở địa phương có hiệu
quả hơn, mong muốn được các thầy cô giáo bổ xung,chỉnh sửa, đề tài này nếu được
cơng nhận là chính xác và khoa học cũng sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan
tâm đến công tác quản lý văn hoá.trong xu thế xã hội hoá hện nay.
5. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận,đề tài được kết cấu 3 chương
Chương I
Xã hội hoá văn hoá và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường.
Chương II
Thực trạng quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá ở tỉnh Bắc Kạn.

Chương III
Nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động văn hoá trong xu thế xã hội hoá ở tỉnh Bắc
Kạn hiện nay.

CHƯƠNG I
4


XÃ HỘI HOÁ VĂN HOÁ VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ TRONG
CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường.
1.1.1. Tổ chức và quản lý hoạt động văn hoá như một hệ thống sản xuất:
Điểm xuất phát để nhìn nhận hoạt động văn hoá như một hệ thống tổ chức sản
xuất là tư tưởng của học thuyết Mác- xít về sản xuất vật chất là hai hình thái cơ bản của
hoạt động người. Trong “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăng ghen viết về hai phương diện
hoạt động. Sự chế tác thiên nhiên bởi con người và chế tác con người bởi con người.
Trong tập bốn bộ Tư Bản Mác nói đến hai trường hợp sản xuất phi vật chất và nhiều lần
ông trở lại tư tưởng này. Chẳng hạn Mác viết “Trong nền sản xuất phi vật chất, ngay cả
nếu chỉ được tiến hành để trao đổi, sản xuất hàng hố, vẫn có hai trường hợp”.
+ Những hàng hố tồn tại tách biệt khỏi người sản xuất, do đó có thể trong
khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng trở thành hàng hoá.
+ Những sản phẩm gắn liền với hành động của người sản xuất (Mác K. Ăng ghen.
Ph. Tuyển tập, trang 49, Trang 103. Lý thuyết giá trị thặng dư. Bản tiếng Nga. Gạch
dưới dạng ý nhấn mạnh là của chúng tôi).
Sản xuất tinh thần không những tạo ra các giá trị tinh thần được khách quan hoá
mà cịn bao hàm cả việc hình thành văn hố cá nhân, văn hoá cộng đồng và sự giao
tiếp văn hoá. Sản xuất cũng có thể phân ra đối tượng lao động, quá trình lao động và
kết quả lao động. Tuy nhiên ở đây đối tượng lao động có thể là những quan hệ xã hội
và quá trình tư duy nhân loại cịn sản phẩm nhân loại có thể tồn tại không tách khỏi
hành động sáng tạo của con người sản xuất trực tiếp.

Sự phát triển sản xuất tinh thần như một ngành tương đối độc lập trong hoạt động
xã hội đã tạo ra đội ngũ đặc biệt những người làm việc chun mơn hố. Tuy nhiên,
sức phát triển mạnh mẽ đời sống tinh thần còn phụ thuộc vào sự tham gia vào lĩnh vực
này của đông đảo nhân dân lao động. Ở đây, có ý nghĩa quan trọng là tư tưởng Mác về
mối quan hệ giũa sự phát triển lực lượng sản xuất và thời gian tự do, sự phát triển tính
cách con người thơng qua sử dụng thời gian tự do có văn hố và tác dụng của nó đối
với sự phát triển lực lượng sản xuất.
5


Với tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thời gian tự do rất cần thiết để phát triển
tự do, để sản xuất các giá trị tinh thần và trước hết là sản xuất ra bản thân người lao
động với những thuộc tính văn hố phong phú.
Tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất tinh thần của nhân dân trong thời gian tự
do là nội dung chủ yếu và thực chất đối tượng nghiên cứu của chúng tơi.
Nhìn nhận hoạt động văn hoá như một hệ thống sản xuất có nghĩa bộ máy quản
lý hành chính khơng là tất cả, cũng không là chủ yếu, phát triển sự nghiệp này trước
hết phải gắn liền với việc mở rộng mạng lưới thiết chế sự nghiệp .như những đơn vị
sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm. Sự phong phú số lượng và chất lượng, sự phân bổ
đều khắp mạng lưới ấy và một tầng lớp nhân sự chuyên môn gắn liền với chúng, hình
thành những trung tâm văn hố tiêu biểu cho diện mạo đời sống tinh thần của nhân
dân và là dấu hiệu xã hội văn hoá cao.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý một bộ phận nhất định những hoạt động người, có
thể xem văn hố như q trình sản xuất tinh thần và khách thể hố chúng như những
giá trị tinh thần và giá trị vật chất, những thuộc tính của bản thân con người với tư
cách chủ thể của q trình hoạt động.
Bất kỳ văn hố của cộng đồng xã hội có giai cấp nào cũng cấu thành bởi hai dịng
văn hố: Văn hố chính thống của giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất hiện
hành và văn hoá dân gian của các giai cấp thực hành phương thức sản xuất ấy.
Về mặt xã hội học lao động, người ta gọi văn hoá dân gian là văn hoá nghiệp dư

và mặt xã hội học thời gian là “hoạt động rỗi” bởi phần lớn những hoạt động này chủ
yếu diễn ra trong thời gian rỗi (thời gian tự do ).
Xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị về kinh tế đồng thời thống trị về
tinh thần. Tầng lớp đặc biệt, tầng lớp “ Hệ tư tưởng của xã hội đã hình thành để thực
hiện nhiệm vụ đó” (Mác.K sách đã dẫn trang 109). Chính tầng lớp này đóng vai trị
quyết định trong sản xuất các giá trị tinh thần. Hoạt động văn hoá của họ là chuyên
nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, diễn ra như quá trình lao động xã hội.
Trái lại, với đại bộ phận nhân dân, thời gian lao động xã hội trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất. Nhân dân tham gia sản xuất tinh thần chủ yếu dưới hình thái hoạt động
6


rỗi, nghĩa là tự biểu hiện trong nghỉ ngơi, giải trí. Vì vậy có thể gọi q trình thực hiện
bản chất người ấy là giải trí- sáng tạo văn hố.
Trước chủ nghĩa xã hội, văn hoá dân gian là hiện tượng tự phát của nhân dân lao
động.và là hoạt động tinh thần của người lao động. Một sự thật phổ biến như khơng
khí, lâu dài như lịch sử lồi ngưịi là: Sáng tạo văn hoá là quyền năng của mỗi cá nhân
với tư cách con người xã hội - đơn vị cấu thành xã hội. Giải phóng quyền năng sáng
tạo ấy và sự nở rộ các hoạt động người chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội, trước hết và cơ
bản là mở rộng số lượng và tăng chất lượng thời gian rỗi.
Hoạt động là một phương thức tri thức của cá nhân, là điều kiện thiết yếu tiến
hành sản xuất tinh thần cho sự phát triển toàn diện cá nhân. Văn hoá quần chúng ngày
nay là cái tương ứng với văn hố dân gian trước đây.
Tuy nhiên có những khác biệt:
Nếu văn hoá dân gian là hiện tượng tự phát dưới các chế độ chính trị khác, thì
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, văn hoá quần chúng là đồi sống tinh thần của nhân dân
được Nhà Nước tổ chức quản lý, được Đảng lãnh đạo và hệ thống các cơ quan chun
mơn tổ chức chỉ đạo. ở đây có hai mặt gắn bó chặt chẽ và quy định lẫn nhau: Một mặt
là hoạt động tự thoả mãn nhu cầu cơ bản của quần chúng lao động . Mặt khác là trách
nhiệm tổ chức quản lý của Nhà Nước. Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở khách quan cho sự

thống nhất hai mặt này. Đây là bản chất văn hoá quần chúng, sản phẩm của sự thống
nhất quyền lợi chính trị - kinh tế giữa Nhà Nước và nhân dân.
Khi so sánh lịch đại sự khác nhau giũa văn hoá dân gian và văn hoá quần chúng
là khác nhau giũa hai kiểu sản xuất tinh thẩn trên cơ sở hai kiểu sản xuất khác nhau, là
tính liên tục của lịch sử được thực hiện bởi sự gián đoạn lịch sử gữa hai loại hình văn
hố trên cơ sở hai hình thái kinh tế xã hội. Khi so sánh đồng loại giữa văn hố và văn
hố quần chúng thì văn hố là tổng thể và văn hoá quần chúng là bộ phận. Tương ứng
với điều ấy, cơng tác văn hố là hoạt động Nhà nước tổ chức quá trình sản xuất tinh
thần, trên cơ sở phù hợp với phương thức sản xuất mà nó đại diện và phổ cập các giá
trị văn hố bằng những phương tiện mà nó sở đắc trong thời đại.

7


Nhưng do bản chất chính trị của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể tiến
hành cả hai phần việc để xây dựng nền văn hoá : Tổ chức quản lý văn hoá chuyên
nghiệp và tổ chức quản lý văn hố quần chúng. Cơng tác văn hố có thể phân ra làm
hai mảng:
+ Tổ chức quản lý văn hoá chuyên nghiệp gồm cả sản xuất và lưu thông phân
phối, đem văn hoá đến quần chúng.
+ Tổ chức quản lý văn hoá quần chúng bao gồm cả hoạt động sản xuất, trao đổi
và tiêu dùng các giá trị tinh thần, đem quần chúng đến văn hoá.
Ở hệ thống thứ hai nhân dân trực tiếp tham gia quá trình sản xuất sản phẩm văn
hoá. Đây là hệ thống thiết chế sự nghiệp cơng tác văn hố quần chúng, đối tượng xem
xét của chúng tơi trong tiểu luận này.
Q trình xã hội hố và phát triển cá nhân, sự hình thành nhân cách văn hoá bao
giờ cũng diễn ra bởi hai chiều tác động liên tục đan xen lẫn nhau, dệt thành những
nhân cách cụ thể. Chiều dọc là sự tác động của văn hố xã hội đến tồn bộ đến cá
nhân, và chiều ngang sự vận động văn hoá của các nhân ấy, tức các nhân tự xác định
mình trong mơi trường văn hoá. Sự vận động này thống nhất hai mặt giáo dục văn hoá

và thoả mãn nhu cầu văn hố tồn diện của con người. Tính chất phong phú thực sự
về tinh thần của cá nhân hoàn toàn tuỳ thuộc vào tính chất phong phú các mối quan
hệ thực sự của chính các nhân ấy. Ở đây con người thể hiện trong sự vận động văn
hoá trên ba mối quan hệ chủ yếu:
1. Cá nhân chiếm lĩnh giá trị văn hoá.
2. Cá nhân sáng tạo văn hoá.
3. Cá nhân như đại biểu mang văn hố, có quan hệ giao lưu trao đổi văn hố, có
quan hệ giao lưu trao đổi văn hoá với nhau.
Tổ chức quản lý vận động văn hoá theo chiều ngang này như là một lĩnh vực sản
xuất tinh thần, hệ thống cơng tác văn hố quần chúng bao gồm từ bộ máy quản lý Nhà
nước các cấp đến mạng lưới các đơn vị sự nghiệp. Bộ máy quản lý là Bộ văn hoá ở
cấp

8


Trung ương. Sở văn hoá tỉnh thành, Ban văn hoá quận huyện. Chức năng cơ bản loại
hình hoạt động này là quản lý nhà nước về hành chính pháp chế (Đường lối của
Đảng, tổ chức, kế hoạch, kinh phí).
Sản xuất tinh thần cũng được tổ chức thành hoạt động cụ thể do các thiết chế sự
nghiệp như những đơn vị cơ sở tiến hành. Hoạt động văn hoá như một quá trình sản
xuất. Chức năng quản lý chỉ xuất hiện từ yêu cầu tổ chức và điều hành sản xuất. Các
cơ quan quản lý văn hoá chỉ phát huy tác dụng của mình thơng qua những đơn vị sản
xuất nhằm tăng cường hiệu quả kinh tế văn hoá của chúng. Chỉ có bộ máy quản lý
hành chính pháp chế gồm những bộ, sở, ban, phịng… tức là chưa có đơn vị sản xuất
trực tiếp , tạo ra sản phẩm. Vì vậy, nếu giáo dục phải có trường học, y tế phải có bệnh
viện … thì văn hố quần chúng phải có thiết chế sự nghiệp như cung văn hố, nhà văn
hoá, thư viện, bảo tàng… với tư cách là đơn vị sản xuất, chủ thể trực tiếp của công tác
văn hố quần chúng.
Có thể phác thảo lược đồ hệ thống tổ chức sản xuất văn hoá như sau:

Cấp quản lý
Trung ương

Bộ máy quản lý

Cơ sở sản xuất

Bộ văn hoá(cục-vụ-viện)

Cung văn hố.Trung tâm PPNVHCLB,
bảo tàng, thư viện TW

Tỉnh, thành

Sở văn hố(Phịng, ban)

Nhà văn hoá, TTVH, triển lãm, thư viện
Bảo tàng tỉnh

Quận, Huyện

Phịng văn hố thể thao

Nhà văn hố, TTVHTT,Thư viện
Huyện

Xã, Phường

Ban văn hoá thể thao


Nhà văn hoá,TTVHTT xã

1.1.2. Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường:
Đây là một vấn đề thời sự cấp bách đang đặt ra cho ngành văn hoá. Nếu như mấy
năm gần đây, cơ chế thị trường tác động mạnh và có hiệu quả trên lĩnh vực kinh tế thì
trên lĩnh vực văn hố diễn ra khá phức tạp. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, các hoạt
động văn hố lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn. Nhiều đồn nghệ thuật khơng thể tự
trang trải lấy thu bù chi; nhiều nhà văn hố phải đóng cửa hoặc biến hành rạp hát, rạp
9


chiếu phim, hầu hết các đội văn nghệ quần chúng, thơng tin lưu động ở cơ sở khơng
cịn hoạt động. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chững lại, có nguy cơ khó tồn
tại. Từ thực trạng đó, nảy sinh những hướng suy nghĩ và hành động khác nhau. Một
hướng cho rằng nói tới thị trường là nói tới hàng hố; văn hố cũng như mọi thứ hàng
hố khác, mà khơng thấy sản phẩm văn hố có những nét riêng, dẫn đến tình trạng
thương mại hố các hoạt động văn hố, chỉ chạy theo doanh thu, khơng quan tâm tới
hiệu quả xã hội. Chính vì vậy, trên thị trường văn hoá đã xuất hiện nhiều loại sản
phẩm độc hại ảnh hưởng xấu tới tư tưởng, tình cảm người đọc, người xem. Hướng
khác cho rằng hoạt động văn hố đã phục vụ chính trị, xây dựng con người mới thì ắt
Nhà nước phải bao cấp, phải lo đảm bảo mọi điều kiện hoạt động. Từ đó dẫn đến thái
độ trông chờ, ỷ lại khiến cho hoạt động văn hố bị ngưng trệ.
Phải nói rằng cơ chế thị trường có những tác động tích cực tới hoạt động văn hoá
làm cho năng động, tuân thủ quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, đáp ứng kịp thời
nhanh nhạy nhu cầu của người tiêu dùng sản phẩm văn hoá. Nếu như trước kia có
những hình thức hoạt động mịn cũ hàng chục năm khơng thay đổi, thì nay khơng thể
tồn tại trong cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết khách quan theo
quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Trong cơ chế bao cấp, các hoạt động văn hoá
thường xem nhẹ những quy luật này. Dựng một vở kịch, một bộ phim, người ta ít
quan tâm đến yếu tố người xem vì số người xem đông hay vắng không ảnh hưởng tới

người làm ra sản phẩm, kinh phí đã có Nhà Nước lo rồi ! Nhưng trong cơ chế thị
trường, khách đông hay vắng, ảnh hưởng trực tiếp tới túi tiền người làm và số phận cơ
sở làm ra sản phẩm. Cho nên mọi hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường đều phải
xuất phải từ nhu cầu tiêu dùng văn hoá của nhân dân. Sản phẩm văn hoá phải đánh
trúng sự mong mỏi và thị hiếu lành mạnh của mọi người. Đã đến lúc ngành văn hoá
cần rà soát lại các hình thức hoạt động ở mỗi lĩnh vực, tìm ra ưu điểm, nhược điểm để
sáng tạo ra những hình thực hoạt động thích hợp trong thời kỳ mới, có khả năng thu
hút đơng người tham gia. Các hình thức hoạt động văn hố chỉ có thể tồn tại trên cơ sở
chất lượng cao và đáp ứng đúng nhu cầu văn hố của nhân dân. Từ đó văn hố vẫn có
khả năng làm kinh tế. Thực tế đã diễn ra trong lúc nhiều nhà văn hố đình đốn, thì có
10


một số nhà văn hoá lại hoạt động sầm uất đơng vui hơn trước; trong lúc nhiều đồn
nghệ thuật sống dở, thì một số đồn lại làm ăn khấm khá, đi lên. Tất cả đều do các cơ
sở có chịu năng động đổi mới hình thức hoạt động, áp dụng tốt ma - két - tinh trong
văn hố hay khơng. Thực tế cho thấy những nhà hát,rạp chiếu phim ở một số nơi lúc
nào cũng đơng khách là vì họ ln đổi mới chương trình, hoạt động đa dạng và phong
phú từ đó có đủ nguồn thu để tồn tại và phát triển. Để thực hiện quy luật cung cầu của
cơ chế thị trường, tổ chức các hoạt động văn hố cũng thay đổi. Mỗi hình thức hoạt
động văn hố không phải cứ tồn tại bất di bất dịch mãi mãi mà luôn thay đổi, phát
triển thêm theo nhu cầu. Nhưng hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường phải đặt
trong sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Như đã nói, văn hố khơng giống như các
loại hàng hố vật chất khác, ngồi việc thoả mãn nhu cầu cịn có trách nhiệm hướng
dẫn và điều chỉnh nhu cầu để xây dựng con người mới. Cho nên không phải bất kì
hoạt động văn hố nào cũng có thể kinh doanh được. Hiệu quả của sản phẩm văn hoá
nhiều khi khơng thể tính bằng tiền mà ẩn tàng trong những giá trị tinh thần đã bồi bổ
cho việc xây dựng con người mới.ở những lĩnh vực này, đòi hỏi Nhà nước có những
hỗ trợ nhất định. Khơng thể bắt buộc các đoàn nghệ thuật truyền thống dân tộc như
chèo, tuồng, dân ca, múa rối nước, hoặc các đoàn nghệ thuật cổ điển như âm nhạc

thính phịng, nhạc vũ kịch, ba lê cũng lấy thu bù chi như các đoàn nghệ thuật hiện đại
thời thượng nào khác. Không thể không trợ cấp cho những vở kịch, bộ phim nói về
truyền thống nhằm giáo dục phẩm chất con người mới hoặc những tiết mục nghệ thuật
dành cho thiếu nhi.
Sẽ là chung chung nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những quan niệm tưởng như là
mâu thuẫn, rằng văn hoá cần trợ cấp và bao cấp, rằng văn hố cũng có khả năng làm
kinh tế. Trong văn hố có biết bao nhiêu lĩnh vực. Cần thiết phải chia các lĩnh vực đó
theo nhóm: Nhóm hồn tồn khơng doanh thu cần bao cấp, nhóm có nhu cầu trợ cấp
và tự cấp bao nhiêu phần trăm, nhóm có thể trang trải. Tất nhiên, sự phân chia này
khơng thể máy móc tế nhị và phức tạp. Dù sao vẫn cần một sự hoạch định đó để có
chính sách đầu tư kinh phí hợp lý nhằm phát triển nền văn hoá mới dân tộc, hiện đại.
Rõ ràng hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường cần được kế hoạch hoá. Kế hoạch
11


là cơng cụ của quản lý. Song trong tình hình mới, kế hoạch này không phải “Dội” từ
trên xuống mà được hình thành từ các cơ sở xuất phát từ nhu cầu văn hố của nhân
dân. Có một điều mà các nhà lập kế hoạch nên quan tâm tới, đó là tiềm năng văn hoá
trong nhân dân. Trước đây, chúng ta đã đề ra phương châm “Nhà nước và nhân dân
cùng làm”, thiết nghĩ trong cơ chế thị trường phương châm này càng phải được thực
hiện triệt để. Có nhiều lĩnh vực văn hố có thể giao cho nhân dân, kể cả tư nhân ni
dưỡng. Nhà nước chỉ quản lí nội dung và chất lượng. Nguồn kinh phí ít ỏi của Nhà
nước không nên đầu tư tràn lan mà tập chung vào những vấn đề cốt lõi, ra tấm ra
miếng.
Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường đang gặp rất nhiều khó khăn, địi hỏi
tất cả các cơ sở văn hố năng động, sáng tạo tìm lối ra để tồn tại và phát triển.
1.1.3. Quản lý hoạt động văn hoá tromg cơ chế thị trường:
* Quản lý nhà nước về văn hoá:
Quản lý nhà nước về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hố Việt Nam. Với vai trị là

thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo
cho mổi công dân đều đựơc thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có các
quyền về văn hố như quyền tự do ngơn luận, quyền tự do báo chí, quyền học tập,
sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật…Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo
sự hài hoà giữa các thành tố văn hố, điều tiết lợi ích văn hố của các giai tầng, các
yêu cầu phát triển và thoả mãn nhu cầu văn hố của tồn xã hội. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trị rất quan trọng trong việc giải quyết các mâu
thuẫn giữa phát triển kinh tế và văn hoá.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự nghiệp
của toàn xã hội. Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý đối với văn hoá điều đó khơng
có nghĩa Nhà nước là người sáng tạo ra nền văn hố mà Nhà nước có vai trị định
hướng cho sự phát triển của nền văn hoá theo hướng đã được xác định là nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà nước thực hiện những hoạt động nhằm hướng

12


vào sự thống nhất tư tưởng, tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, tăng cường hoạt động giáo dục xây dựng lối sống đạo đức lành mạnh.
Quản lý Nhà nước về văn hố địi hỏi phải tiến hành những hoạt động cụ thể, do
đó cần giới hạn phạm vi khái niệm văn hố để có thể xác định được những mảng hoạt
động quản lý nhà nước đối với văn hố. Có thể chia hoạt động quản lý Nhà nước về
văn hoá thành các mảng cơ bản sau:
- Quản lý nhà nước về Văn hoá nghệ thuât.
- Quản lý nhá nước về Văn hố - Thơng tin.
- Quản lý nhà nước về Văn hoá xã hội.
- Quản lý di sản văn hoá.
Việc phân chia hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá thành các mảng hoạt
động như trên chỉ mang tính tương đối bởi bản thân kháI niệm văn hoá là khái niệm
đa nghĩa, bao trùm lên mọi hoạt động của con người.

Trong quản lý văn hố, Nhà nước khơng nên xác lập một khn mẫu định sẵn
cho nền văn hố vì như vậy sẽ tạo ra sự áp đặt từ trên xuống, không phát huy được
tính sáng tạo, tính phong phú vốn có của văn hố dân tộc. Trong cơng cuộc đổi mới
hiện nay, vai trị của Nhà nước đối với văn hố là tạo dựng khung cảnh van hoá - xã
hội thuận lợi cho sự phát triển, làm cho văn hoá thực sự trở thành động lực và mục
tiêu của phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được điều đó, Nhà nước cần tạo điều kiện
về cơ sở vật chất cho phát triẻn văn hoá, thiết lập một cơ chế quản lý văn hố hợp lí
đảm bảo được các quyền tự do dân chủ của công dân, xá định rõ thẩm quyền và nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng quản lý văn
hoá. Đặc biệt cần phân biệt rõ chức năng, thẩm quyền của cơ quan quản lý văn hoá
với các cơ quan, tổ chức trực tiếp thực hiện các hoạt động văn hoá.
Ở trung ương, cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hố là Chính phủ
và Bộ văn hố - thơng tin. Chính phủ thống nhất quản lý và phát triển sự nghiệp văn
hoá trên phạm vi cả nước, thi hành các biện pháp để bảo tồn , phát triển nền văn hoá
dân tộc Việt Nam, bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hoá, nghệ thuật,
chống việc truyền bá tư tưởng phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ tục. Trong quản
13


lý văn hố, Chính phủ có một số quyền hạn cụ thể như: Trình dự án luật, pháp lệnh về
hoạt động văn hoá, quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hố,
quyết định chính sách đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước ngoài, ban hành quyết định
quản lý nhà nước và các chế độ chính sách khác về văn hoá. Với cương vị là người
đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ký các quyết định, nghị định của Chính
phủ, ra quyết định, chỉ thị về quản lý văn hoá và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các
văn bản đó đối với tất cả các ngành, địa phương và cơ sở; thủ tướng Chính phủ có
quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định về quản lý văn hoá của Bộ
trưởng Bộ văn hố - thơng tin và uỷ ban nhân dân, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên.

Các văn bản pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt động văn hoá khi
thực hiện xã hội hoá hoạt động văn hoá trong nền kinh tế thị trường, Đồng thời pháp
luật cũng quy điịnh những vùng cấm trong hoạt động văn hoá được quy định rõ để
định hướng văn hoá, khái quat ở 5 điểm sau:
- Nghiêm cấm hoạt động phản động về chính trị ;
- Nghiêm cấm hoạt động làm băng hoại về đạo đức, phá hoại nhân phẩm;
- Nghiêm cấm hoạt đông xâm phạm quyền tác giả;
Quản lý hoạt động văn hố theo pháp luật sẽ góp phần tích cực vào việc lập lại
trật tự kỷ cương trong tình hình văn hố xã hội hiện đang có nhiều lộn xộn; gữi gìn
bản sắc văn hố dân tộc trong điều kiện tồn cầu hố và mở rộng quan hệ quốc tế,
đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các văn nghệ sĩ và nghệ nhân; tăng cường hợp
tác giữa các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội …và toàn
dân tham gia vào các hoạt động và phát triển văn hoá..
* Quản lý hoạt động văn hoá:
Xã hội hoá quản lý văn hoá là xu thế tự nhiên của bất kỳ xã hội nào. Ngồi hình
thức Nhà nước trong việc quản lý văn hố cần thực hiện các hình thức tự quản của
nhân dân trong việc bảo vệ và phát triển văn hoá, đảm bảo được tính đa dạng của văn
hố và đáp ứng được nhu cầu văn hố của tồn dân.
14


Thế giới đã quá quen thuộc với khái niệm thị trường chỉ thuộc kinh tế. Và trên
lĩnh vực kinh tế, thị trường và hàng hoá là hai khái niệm đi đơi với nhau, có cái này
mới có cái kia.
Thị trường và hàng hoá được phát triển dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa, được coi
là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản. Mười năm trở lại đây, ở một số nước xã hội chủ
nghĩa, thị trường và hàng hoá được coi là sự phát triển tất yếu của nhân loại. Trung
Quốc lại có quan điểm “Thị trường xã hội chủ nghĩa”. Cho đến nay trong sách báo,
thị trường là sự phát triển phạm trù chỉ có trong kinh tế chính trị.
Trên thực tế, dù kinh tế là yếu tố quyết định, thì một xã hội phát triển khơng thể

chỉ có kinh tế. Kinh tế và văn hoá là những nền tảng của xã hội văn minh: Nền tảng
vật chất và nền tảng tinh thần. Quan điểm đó phù hợp với định hướng chung của Đảng
và Nhà nước ta trong quản lý văn hoá trong cơ chế trị trường hiện nay.
1. Quan hệ biện chứng giữa chấn hưng, bảo tồn, phát triển văn hoá dân tộc với
việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới.
2. Quan hệ biện chứng giữa mở cửa, giao lưu và sự hứng chịu trong quá trình đó
(sự sùng ngoại và bài ngoại). Mở cửa là điều kiện của giao lưu; giao lưu là phải có cái
hơn và cái thiệt, cái thiệt, cái mất, nhưng nhất thiết phải có định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3. Quan hệ giữa văn hố chun nghiệp và việc xã hội hỗ nghệ thuật do các
thành phần kinh tế khác chi phối.
Ở đây phương pháp, phương thức, hình thái hoạt động là đa dạng, đa sắc, nhưng
nội dung đề tài, chủ đề, tư tưởng là do Nhà nước phải nắm và quản lý.
4. Quan hệ giữa tính kế hoạch của nhà nước và những mặt tích cực, tiêu cực của
kinh tế thị trường, của thị trường văn hố. Ở đây tính định hướng, tính điều tiết kế
hoạch của các cơ quan quản lý là hết sức quan trọng, có tính chất quyết định.
5. Mối liên hệ biện chứng giữa bản thân văn hoá và các hình thái ý thức xã hội khác
như: văn hố và chính trị, văn hố và kinh tế, văn hố và đạo đức, văn hố và tơn giáo….

15


Khi Nhà nước định ra chủ trương, chính sách, nghị quyết về văn hố, phải tính
đến mối quan hệ biện chứng giữa chúng; khơng tính đến mối quan hệ đó chính sách
văn hố trở thành một thực thể tĩnh, khơng đưa lại kết quả, thậm chí sai lầm.
6. Lãnh đạo, quản lý văn hoá trong phát triển, một mặt cần tránh đầu óc cục bộ
địa phương, “khu vực hố”, làm ngành nào chỉ biết ngành đó, thiên vị ngành mình,
địa phương mình, khơng hay biết gì đến các ngành, lĩnh vực khác.
7. Nâng cao dân trí và phát triển khoa học, công nghệlà những nhiệm vụ hàng
đầu trong quản lý văn hoá.

8. Trong quản lý văn hoá cần ngăn ngừa và khác phục sự lãnh đạo mệnh lệnh,
độc đoán, quan liêu, đồng thời địi hỏi người lãnh đạo văn hố có một nhãn quan mẫn
cảm và tầm nhìn rộng lớn trong thời đại hiện nay. Trong tình hình hiện nay thì bảo
thủ, trì trệ, thiếu năng động cần tránh, nhưng cấp tiến, nóng vội, phóng tay là cũng có
tội.
9. Quản lý văn hoá ở bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân theo nguyên tắc (từ
trường quyền lực theo cách gọi của alvin Tohler nhà văn, nhà nghiên cứu người Mỹ)
gồm 3 thành tố cũng là 3 công cụ của hoạt động văn hố.
- Hệ thống hành chính, pháp luật.
- Các thiết chế và phương tiện vật chất.
- Tri thức văn hố.
Vì vậy cần:
- Nghiên cứu để tổ chức lại bộ máy Nhà nước về văn hoá đủ mạnh từ trung ương
đến cơ sở, nhất là cần tăng cường quản lý văn hoá ở cấp huyện, xã.
- Hoạt động văn hố thơng tin là hoạt động sự nghiệp gồm nhiều ngành nghiều
nghề trong mỗi ngành, nghề có đặc thù, có nội dung, có phương pháp, kỹ thuật riêng
và có đội ngũ được đào tạo chuyên sâu.
- Đảm bảo cho Văn hố Nhà nước đóng vai trị chủ đạo và đồng thời mạnh dạn
xã hội hoá các hoạt động văn hoá, vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, cơ chế nhiều thành phần và cơ chế mở trong hoạt động văn hoá, nhằm khai thác
mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài
16


- Những sản phẩm văn hoá là loại sản phẩm hàng hố đặc biệt mà giá trị của
chúng khơng chỉ bằng tiền.
Phân biệt được cơ chế kinh doanh trong lĩnh vực văn hố là khơng lấy lợi nhuận làm
mục đích, mà tất cả vì sự hưởng thụ và sáng tạo tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
- Gia tăng cơng tác đối ngoại, mở rộng giao lưu văn hố với nước ngồi, đi đơi
với cuộc đấu tranh chống các loại văn hố độc hại, phản động từ bên ngồi vào văn

hoá phẩm phản động, đồi truỵ vào nước ta khơng chỉ bằng đường bộ, đường biển mà
cịn bằng đường sóng vơ tuyến điện, chống sự xâm nhập “hữu hình” và “vơ hình”.
- Gia tăng đầu tư tài chính cho cuộc đấu tranh phịng, chống những âm mưu diễn
biến hồ bình bằng văn hố đang diễn ra quyết liệt hằng ngày, hàng giờ nhất là ở các
vùng hải đảo, sân bay, bến cảng. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành văn hố,
nội vụ, hảI quan hàng khơng, biên phịng… và các cơ quan hữu quan khác.
- Cơng nghiệp hiện đại hố ngành có thể ưu tiên một số lĩnh vực trước.
+ Cơng nghiệp sản xuất nghe nhìn, điện ảnh, phát thanh truyền hình, nghệ thuật
sân khấu âm nhạc.
+ Các thiết chế văn hoá nghệ thuật.
1.2. Xã hội hoá văn hoá nước ta hiện nay.
1.2.1.Xã hội hoá văn hoá:
Thuật ngữ xã hội hoá văn hoá theo cách hiểu thông thường là biến các hoạt động
các nhân, tư nhân trở thành hoạt động xã hội, nghĩa là sẽ thể hiện mối quan hệ khăng
khít giữa vai trị các cá nhân đối với xã hội, các thành viên đối với cộng đồng. Bởi các
thành viên, các cá nhân là những nhân tố cấu thành cộng đồng xã hội. Vì vậy họ có
những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định, phải có ý thức và trách nhiệm đống góp xây
dựng cộng đồng xã hội. Xã hội hố chính là đỉnh cao của Nhà nước và nhân dân cùng
làm. Xã hội hoá cũng là thành tố trong đặc trưng của cơ chế thị trường.
Văn hoá là một hệ thống những giá trị và chuẩn mực xã hội. Nhưng “giá trị”
không tồn tại lơ lửng, siêu hình. Giá trị là nội dung, là bản chất của văn hoá bao giờ
cũng được khách quan hố, đối tượng hố dưới những dạng những hình thức (của nội
dung), những hiện tượng (của bản chất), những quan hệ và quá trình xã hội.
17


Lịch sử cho thấy, trong quy luật sinh tồn của nó, văn hố là “giao lưu”, là “tiếp
biến” là “kế thừa” và “đổi mới” khơng một thể chế chính trị nào, một bộ máy quyền
lực nào có thể bao cấp về văn hố tinh thần nói chung, về văn hố chính trị nói riêng
bởi một lẽ hiển nhiên là nền tảng tinh thần của bất kỳ cộng đồng dân tộc nào cũng

được sản sinh và xây dựng trong chính cuộc sống thường nhật của mỗi người dân chứ
không thể chỉ bằng món ăn ngoại nhập từ ngồi vào hay trên xuống. Nền tảng tinh
thần ấy là bản sắc dân tộc và diện mạo đích thực của họ ở mỗi chặng đường thăng
trầm của lịch sử.
Trong công cuộc xây dựng một tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, Đảng ta chủ trương
lãnh đạo tồn dân xây dựng một nền văn hố Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Một trong những tư tưởng chỉ đạo của Đảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cao
cả đó là :
“Văn hố văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động văn
hoá văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và sự quản
lý của nhà nước, khắc phục tình trạng “hành chính hố” các tổ chức văn hố nghệ
thuật, và xu hướn “ thương mại hóa” trong lĩnh vực này” (Văn kiện Hội nghị lần thứ
tư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII, trang 55 ).
Nếu trên lĩnh vực kinh tế, vai trò quản lý của nhà nước là sự điều tiết theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì trên lĩnh vực văn hố có khác. ở đây khơng có sự phân
chia quyền lợi văn hố giữa nhà nước và cơng dân, khơng có đa dạng hố hình thức sở
hữu các giá trị văn hố
Nhưng việc sản xuất, bảo quản, lưu thông và tiêu dùng các sản phảm văn hố lại
khơng nhất thiết và khơng thể bao cấp nhà nước hoàn toàn. Đảng ta chủ trương phát
triển các hình thức hoạt động văn hố , văn nghệ của nhà nước , tập thể và cá nhân.
Xã hội hoá hoạt động văn hoá ở nước ta hiện nay là nhằm huy động tiềm năng,
nguồn lực, mọi lực lượng, mọi thành phần kinh tế, xã hội cùng tham gia sáng tạo và
phát triển sự nghiệp văn hóa, là đa dạng hố, dân chủ hố nhưng khơng thương mại
hố hoạt động văn hoá. Xã hội hoá hoạt động văn hố là chuyển một phần cơng việc
của Nhà nước cho nhân dân, tổ chức tập thể, tư nhân làm, nhưng Nhà nước không
18


giảm nhẹ trách nhiệm. Xã hội hoá hoạt động văn hoá được thực hiện theo phương
thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế

liên doanh liên kết với các đơn vị Nhà nước hoặc tự bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh
làm dich vụ trong lĩnh vực văn hoá và thực hiện theo đúng pháp luật. Đây là một chủ
trương đúng đắn của Đảng, được Chính phủ cụ thể hố bằng Nghị quyết 90/CP và
Nghị định 73/CP.
Thực hiện chủ trương trên, Bộ Văn hố Thơng tin đã kịp thời chỉ đạo công tác
tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân về xã hội hoá hoạt động văn hoá.
Đồng thời tổ chức cho toàn ngành học tập, quán triệt ý nghĩa, nội dung Nghị quyết
90/CP và Nghị định 73/CP của Chính phủ nhận thức về xã hội hoá hoạt động văn hố
đã được thể hiện như sau:
- Mặt triển biến tích cực: Đến nay nhận thức chung cho rằng xã hội hoá hoạt
động văn hoá là hoạt động lớn của Đảng và Nhà nước, là xu thế tất yếu của sự nghiệp
văn hố thơng tin. Nhà nước phải giữ vai trị chủ đạo, định hướng trong q trình xã
hội hố, là lực lượng chủ chốt cung cấp các sản phẩm văn hoá nghệ thuật dân tộc chất
lượng cao và đỉnh cao, đồng thời tạo cơ chế và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế, cho
mọi người dân tham gia hoạt động sáng tạo văn hoá nghệ thuật phục vụ xã hội. Văn
hố được nhận thức lại là cơng việc của toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, các bộ, ban, ngành của trung ương cũng như cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp
ở địa phương có chuyển biến về nhận thức trong chỉ đạo đã quan tâm tới văn hoá
nhiều
hơn. Nhân dân ngày càng được nâng cao nhận thức về xã hội hoá, hiểu rõ việc Nhà
nước và nhân dân cùng làm.
- Tổ chức triển khai thực hiện:
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 90/CP và Nghị định 73/CP Bộ văn
hố thơng tin đã chỉ đạo từng đơn vị, cơ quan chức năng tiến hành nghiên cứu xây
dựng đề án, cụ thể hoá từng lĩnh vực mình phụ trách để hướng dẫn địa phương, cơ sở
triển khai kế hoạch xã hội hoá hoạt động văn hố. Các Sở VHTT đã phát huy vai trị
tham mưu, giúp UBND tỉnh, thành phố xây dựng các văn bản chỉ đạo, tổ chức thựuc
19



hiện cơng tác xã hội hố văn hố. Từ Bộ đến các địa phương đều đã xây dựng xong đề
án “xã hội hố hoạt động văn hóa”, trong đó có nội dung và biện pháp thực hiện cho
từng lĩnh vực. Đề án đã được phổ biến và triển khai toàn ngành, hàng năm bộ đều đưa
cơng tác xã hội hố hoạt động văn hóa vào một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
- Các hình thức xã hội hố hoạt động văn hố:
Qua q trình thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hoá, nhiều cơ sở,
đơn vị tham gia hoạt động văn hố đã được hình thành với các hình thức: Bán cơng,
dân lập, tư nhân theo đúng tinh thần Nghị quyết 90/CP và Nghị định 73/CP của Chính
phủ. Đặc biệt cịn có nhiều hình thức phogn phú khác như nhân dân và các tổ chức xã
hội tự nguyện tham gia đóng góp sức người, sức của để tổ chức các hoạt động văn
hoá, đầu tư cơ sở vật chất, thiết chế văn hoá, xây dựng đời sống văn hố ở cơ sở. Cơng
tác xã hội hố văn hố đã được hình thành và phát triển theo phương thức:
+ Chuyển đổi một số đơn vị công lập sang, cơ sở bán cơng, cổ phần hố.
+ Liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân các thành phần kinh tế Nhà nước.
+ Các thành phần kinh tế tư nhân, hộ gia đình tham gia các hoạt động văn hoá và
dịch vụ văn hoá.
+ Các tổ chức, tư nhân, tập thể các thành phần kinh tế đứng ra thành lập các cơ sở
hoạt động văn hoá nghệ thuật.
+ Nhân dân và các lực lượng xã hội tham gia đóng góp cho hoạt động văn hố
trong phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
+ Huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội và các nhà tài trợ
cho hoạt động văn hố.
+ Phối hợp liên kết mở rộng cơng tác đào tạo.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hố hầu hết các lĩnh vực thuộc
ngành văn hố thơng tin đều mở ra các cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân, các thành
phần kinh tế tham gia các hoạt động văn hoá trong thời gian đã đạt đựoc nhiều thành
tích trên nhiều mặt, góp phần quan trọng trong việc phát triển văn hoá của đất nước.
Cụ thể là:
+ Tạo ra lực lượng đông đảo của xã hội tham gia hoạt động văn hoá.
20



+ Xã hội hoá hoạt động văn hoá đã tạo ra mối liên kết và sự phối hợp chặt chẽ
giữa ngành VHTT với các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, nhất là với các hội sáng
tạo văn học, nghệ thuật.
+ Huy động nguồn lực xã hội phục vụ văn hố
+ Đẩy mạnh phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
+ Tạo mơi trường du lịch phát triển.
Bên cạnh những mặt chuyển biến về nhận thức trong q trình xã hội hố cịn có
những biểu hiện lệch lạc, nảy sinh tư tưởng thụ động, coi xã hội háo là huy động đóng
góp của dân, làm giảm trách nhiệm cũng như việc đầu tư kinh phí của Nhà nước cho
văn hố. Có biểu hiện lỏng lẻo về quản lý Nhà nước, cho rằng xã hội hoá là sự bung ra
của các thành phần kinh tế, cứ để các hoạt động văn hoá tự phát phát triển. Cơ quan
chức năng về quản lý kinh tế nhận thức về văn hoá chưa đầy đủ, coi các đơn vị văn
hoá như một đơn vị kinh tế, áp dụng các chính sách về thuế như đơn vị kinh tế thuần
tuý. Các cơ quan Nhà nước, nhất là một số cơ quan có chức năng quản lý văn hố cịn
nặng tư tưởng bao cấp, có tâm lý trơng chờ vào Nhà nước, kém năng động trong cơ
chế thị trường. Do chạy theo lợi nhuận nên một số hoạt động văn hoá bị thương mại
hố nảy sinh mặt tiêu cực.khơng ngăn chặn được kịp thời trong q trình xã hội hố.
Cơng tác
Xã hội hố hoạt động văn hố trên cả nước cịn chậm và chưa mạnh dạn. Xã hội
hoá được đẩy mạnh nhất vào hai lĩnh vực: xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở và kinh
doanh dịch vụ văn hoá. Trong q trình xã hội hố hoạt động văn hố đã nảy sinh
khơng ít hiện tượng tiêu cực, lộn xộn trong hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá ,
làm chomoi tường văn hố bị ơ nhiễm. Mặt trái của xã hội hoá là biểu hiện phổ biến
hiện tượng thương mại hoá trong trên nhiều lĩnh vực của văn hoá cụ thể là:
+ Về hoạt động lễ hội và dịch vụ tại di tích, thắng cảnh : Trong hoạt động dịch
vụ đã nẩy sinh nhưng hiện tượng tiêu cực, thương mại hố hoạt động lễ hội ;mê tín dị
đoan, chèo kéo khách, làm mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường, nhất là việc lập động
giả, tượng giả ở chùa Hương và nạn trộm cắp cổ vật xảy ra ở nhiều nơi


21


+ Về xuất bản, in, phát hành: Trong việc liên doanh liên kết với tư nhân để xuất
bản,in và phát hành có tình trạng một số nhà xuất bản khơng quản lý chặt nội dung để
đối tác tuỳ tiện, thay, sửa bản thảo, hoặc sách in xong chưa nộp lưu chiểu các đầu nậu
đã phát hành vội ra thị trường để kiếm lợi , đẫn tới vi phạm Luật Xuất Bản,sai phạm
về chính trị … vv các cơ sở in nội bộ , bao bì vẫn thường “vượt rào”tham gia kinh
doanh. Nhiều xuất bản phẩm mê tín dị đoan, sách kinh dị, bạo lực xa rời định hướng
chính trị xuất hiện nhiều trên thị trường; tư nhân “núp bóng” Nhà nước để trốn thuế
khá phổ biến
+ Về biểu diễn nghệ thuật: Chương trình, nội dung biểu diễn nghệ thuật của
nhiều đồn, nhóm cịn tuỳ tiện, tìm mọi cách câu khách, bị dư luận phê phán. Tệ các
“bầu sô” lũng loạn hoặc hình thành những câu lạc bộ trá hình, hoặc đầu tư xây dựng
trái phép vi phạm pháp luật xuất hiện ở nhiều nơi.
+ Về mỹ thuật: Từ nhu cầu mua tranh, bán tranh phát triển, nên trên thị trường
ngày càng bung ra việc sao tranh, chép tranh dẫn đến tình trạng tranh thật, tranh giả
lẫn lộn, gây nên sự lộn xộn trong thi trường tranh trong cả nước. Tình hình đó đã làm
mất lịng tin đối với người mua tranh, nhất là đối với khách nước ngoài.
+ Về kinh doanh dịch vụ văn hoá: Do thị trường kinh doanh băng đĩa, văn hoá
phẩm và dịch vụ văn hoá ngày càng mở rộng, thu hút đông đảo các thành phần kinh tế
tư nhân tham gia, nên nảy sinh một số tư nhân vì hám lợi mà vi phạm quy định của
nhà nước: in sang băng đĩa hình, đĩa nhạc lậu, đĩa CD, VCD khơng nhãn kiểm sốt,
bn bán trơi nổi khắp nơi. Cấc hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh trái với thuần
phong mĩ tục dân tộc xảy ra phổ biến trong nhiều hoạt động dịch vụ văn hoá: karaoke,
vũ trường, biểu diễn thời trang, quán cafe – Intenet, quán ăn sân khấu “hát với nhau”,
cafe bar rượu có vũ nữ biểu diễn múa khêu gợi, điểm trò chơi điện tử mang nội dung
bạo lực, kích động, cờ bạc…gây nên bao nhức nhối cho dư luận xã hội nhiều năm nay.
1.2.2 Đường lối chính sách pháp luật của Đảng Nhà nước về xã hội hoá văn

hoá:
Cương lĩnh của Đảng ta đã chỉ rõ chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sư
22


nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những quan điểm quan trọng về cơng
nghiệp hố hiện đại hố của đại hội lần thứ VIII của đảng ta là ”lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cho sư phát triển nhanh và bền vững”. Nguồn lực con
người bao gồm các yếu tố về thể chất và tinh thần, trí tuệ và phẩm chất. Trong việc
chăm sóc, bồi dưỡng đào tạo và phát huy sực mạnh của nguồn lực, văn hố đóng vai
trị quan trọng.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội lần
thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: “Xuất phát từ nhận thức rằng chăm lo cho con
người, cho cộng đồng xã họi là trách nhiệm của tồn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng
gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; Chúng ta phải chủ
trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá hoá, trong đó Nhà nước
giữ vai trị nịng cốt. Theo trình độ phát triển kinh tế, nhà nước tăng dần nguồn đầu tư
cho khoa học, giáo dục, văn hố, chăm sóc sức khoẻ và các vấn đề xã hội; đồng thời
khai thác mọi tiềm năng của nhân dân, của địa phương, của các hội đoàn, tranh thủ
các nguồn viện trợ từ nước ngồi và sử dụng có hiệu quả để chăm lo cho con người
và xã hội…”.
Trong tình hình đất nước đổi mới, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường,
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đã từng bước được xã hội hoá và thu được
hiệu quả tốt đẹp theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra: “Dân giàu, Nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong lĩnh vực văn hoá, vấn đề xã hội
hoá được đặt ra như một động lực thúc đẩy các hoạt động văn hoá phát triển trong tình
hình mới. Xã hội hố các hoat động văn hố mang ý nghĩa cấp bách,trước hết ,bởi nó
góp phần giải quyết ngay những khó khăn chồng chất mà hoạt động văn hoá trong cơ
chế thị trường đang vấp phải. Vì vậy hiện nay xã hội hố các hoạt động văn hoá được

xem như là một trong nhưng vấn đề nổi bật vừa là mục tiêu và cũng là phương thức
nhằm khắc phục những khó khăn mà hoạt động văn hố đang gặp phải, điều tiết nó
phù hợp với cơ chế thị trường. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(tháng 6/1996) nêu rõ:”Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xã hội hoá các hoạt đơng
văn hố thơng tin, đồng thời tiếp tục xây dựngvà hồn chỉnh các chế độ chính sách
23


phù hợp với đặc điểm của ngành…nhằm đảm bảo sự nghiệp văn hố thơng tin phát
triển nhanh trong q trình đổi mới”. Nghị quyết Trung ương V khoá VIII (tháng
7/1998) đã xác định “Chính sách xã hội hố các hoạt động văn hoá nhằm động viên
sức người,sức của các tầng lớp nhân dân,các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển
văn hố .Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò và trách
nhiệm củầ Nhà Nước.Các cơ quan chủ quản về văn hoá của Nhà Nước phải làm tốt
chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hoá”.
Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảngvề chủ trương xã hội hoá các hoạt động văn
hoá ngày 21/8/1997. Chính Phủ có Nghị quyết số 90/CP “Về phương hướng chủ
trương xã hội hoá văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục thể thao”. Ngày 19/8/ 1999 Chính
Phủ có Nghị định số 73/NĐ-CP “Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối vớicác
hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao”. Ngày 18/4/ 2005
Chính Phủ có Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP “Về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động
văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao” Trong đó đã đưa ra quan điểm và định
hướng chung như sau:
Thực hiện xã hội hoá nhằm hai mục tiêu lớn:
- Thứ nhất là phát huy tiềm năng, trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động
toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp văn hoá.
- Thứ hai là tạo điều kiện để tồn xã hội,đặc biệt là các đối tượng chính
sách,người nghèo được hưởng thụ thành quả văn hoá ngày càng cao.
Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh việc hồn thiện chính
sách,tăng nguồn lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục tiêu phương thức, cơ cấu và nguồn

đầu tư.
Chuyển các cơ sở công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính
hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ cơng ích khơng bao cấp tràn
lan và khơng nhằm lợi nhuận (gọi tắt là cơ chế cung ứng dịch vụ ).
Phát triển mạnh các cơ sở ngồi cơng lập với hai loại hình: Dân lập và tư nhân.
Quyền sở hữu của các cơ sở ngồi cơng lập được xác định theo bọ luật dân sự. Tiến

24


tới khơng duy trì loại hình bán cơng. Tiến hành chuyển một số cơ sở thuộc loại hình
cơng lập sang loại hình ngồi cơng lập để tập thể, cá nhân hoàn vốn cho Nhà nước.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN
2.1. Diện mạo đời sống kinh tế xã hội tỉnh Bắc Kạn.
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên:
Thiên nhiên Bắc Kạn nhìn chung đa dạng, phong phú,khá nhiều tiềm năng và
dáng vẻ, có đủ điều kiện cơ bản cần thiết cho con người tồn tại, trong q trình lịch sử
của mình.
- Vị trí địa lý: Bắc Kạn án ngữ chính giữa khối thềm cao cánh cung Việt Bắc,
trong hệ tọa độ từ 210,48" đến 220,44" vĩ độ Bắc, từ 1050,26" đến 1060,14" kinh độ
Đông. Là vùng đất trung tâm, bốn hướng hoà nhập với địa bàn nhiều tộc người thiểu
số cùng sinh sống.
Về giới hạn lãnh thổ: Phía bắc giáp với các huyện Bảo Lâm, Ngun Bình, Thạch
An (tỉnh Cao Bằng), phía Tây giáp huyện Na Hang (tỉnh Tun Quang), phía Đơng
giáp huyện Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn), phía Nam giáp với huyện Phú Lương, Định
Hoá, Vỗ Nhai (tỉnh Thái Nguyên). Thị xã Bắc Kạn cách Hà Nội 166 km về phía Bắc
trên trục đường quốc lộ số 3; Diện tích là:4.857,21km2. Dân số302.786 người với 8

đơn vị hành chính gồm 7 huyện và 1 thị xã là:
- Huỵện Bạch Thông: Huyện nằm ở trung tâm tỉnh, diện tích 508,5km2. Dân số
32.428 ngưịi gồm thị trấn huyện lỵ Phủ Thơng và 16 xã phía Bắc giáp huyện Ba Bể
và huyện Ngân Sơn, phía Đơng giáp huyện Na Rì, phía Tây giáp huyện Chợ Đồn, phía
Nam giáp thị xã Bắc Kạn và huyện Chợ Mới.

25


×