Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Chuyên đề tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, là con đường cung cấp tri thức lịch sử cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.82 KB, 11 trang )

Chuyên đề
TẠO BIỂU TƯỢNG, HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM,
LÀ CON ĐƯỜNG CUNG CẤP TRI THỨC LỊCH SỬ CHO HỌC SINH
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Đặt vấn đề:
Hiện nay ngành giáo dục đang chủ trương đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo
hướng người học là chủ động chiếm lĩnh tri thức, người dạy là người thiết kế và tổ chức
các hoạt động để thơng qua các hoạt động đó người học lĩnh hội tri thức. Dạy học tích cực
là dạy cho học sinh cách nhớ, qua đó rèn luyện cho học sinh các kĩ năng. Dạy học Lịch sử
cũng khơng nằm ngồi xu hướng chung đó.
2. Thực trạng:
Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử hiện nay là mối quan tâm của toàn xã hội.
Nhiều học sinh ở phổ thơng hiện nay khơng thích học và thậm chí là sợ học mơn Lịch sử.
Có học sinh cịn quan niệm học Lịch sử chỉ là học thuộc lòng, “học vẹt”… Nhìn chung học
sinh chưa có được một phương pháp học tập mơn Lịch sử một cách có hiệu quả. Một trong
những nguyên nhân là do cách dạy của giáo viên. Các phương pháp dạy học, hình thức tổ
chức hoạt động học tập trên lớp trong các giờ học Lịch sử còn nhàm chán, chưa thu hút
được học sinh. Giáo viên chỉ là người truyền thụ kiến thức cho người học mà chưa hướng
đến việc xây dựng cho học sinh phương pháp học hiệu quả. Giáo viên chưa hướng dẫn cho
học sinh tìm “chìa khóa” để mở được kho tri thức Lịch sử. Lịch sử là dòng chảy của những
sự kiện những cột mốc thời gian khác nhau. Ở đó học sinh phải có sự ghi nhớ, khơng phải
là ghi nhớ một cách mơ hồ mà lịch sử đòi hỏi tính chính xác. Chính vì vậy để học tốt bộ
mơn lich sử cần phải có những phương pháp và kinh nghiệm dạy, học hợp lý về tâm lý và
thời gian. Một số giáo viên dạy bài kiến thức mới trên lớp chỉ yêu cầu học sinh học một
đơn vị kiến thức nào đó để trả bài của tiết học sau tạo sự lười biếng, học vẹt, chẳng hiểu gì
về Lịch sử. Để đạt kết quả cao thì cả người dạy lẫn học sinh phải biết cách dạy, cách học,
nghĩa là phải biết tạo những biểu tượng lịch sử, hình thành khái niệm là phương pháp tiếp
thu và ghi nhớ những kiến thức.
Từ thực trạng của việc dạy và học môn Lịch sử như trên dẫn đến một yêu cầu của
đổi mới là cần hướng dẫn học sinh biết tạo những biểu tượng lịch sử, hình thành khái niệm


là phương pháp học Lịch sử có hiệu quả.


Về chương trình Lịch sử bậc THCS khơng cấu trức theo hình xốy trơn ốc như các
mơn khác; mơn Lịch sử từ lớp 6 đến lớp 9 cấu trúc theo đường thẳng do đó từ lớp 6 đến
lớp 9 đều tiếp thu kiến thức mới.
Sách giáo khoa được học ở trường phổ thông là những đơn vị kiến thức đã được các
nhà giáo dục, các nhà khoa học chọn lọc sắp xếp logic, tuy nhiên học sinh hầu hết không
đọc, học sách giáo khoa mà chỉ học những nội dung do giáo viên cho ghi trên lớp nên
không thấy sự liên quan của lịch sử.
Để tạo điều kiện học sinh hịa nhập một cách chủ động, tích cực trên tinh thần vừa
kế thừa vừa phát triển Bộ giáo dục đã xây dựng một chương trình sách giáo khoa phù hợp
với sự phát triển của thời đại. Đáp ứng được những yêu cầu xu thế phát triển của đất nước
trong giai đoạn đổi mới. Và đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với thầy và trò trong
việc đào tạo nguồn nhân lực cho quê hương đất nước nhằm góp phần đưa đất nước thốt
khỏi nghèo nàn lạc hậu, hội nhập nhanh với các nước trong khu vực, thế giới.
Trong các mơn học thì mơn lịch sử là một bộ mơn khó vì học Lịch sử là học những
gì diễn ra trong quá khứ, thầy và trò là lớp hậu thế chỉ tưởng tượng vì vậy nếu khơng tạo
biểu tượng để học sinh hinh dung, tái hiện lại thì khơng hiểu và sẽ qun ngay vì vậy tạo
biểu tượng trong dạy học lịch sử là vấn đề quan trọng trên cơ sở biểu tượng lịch sử, học
sinh sẽ hình thành khái niệm hiểu và nhớ lịch sử.
Trong thực tế hiện nay số lượng học sinh có khả năng như trên còn hạn chế, đặc biệt
là học sinh vùng sâu vùng xa; khả năng nói, nghe, đọc, viết nhiều em còn chưa thật thành
thạo tư duy những vấn đề lịch sử càng khó hơn?
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lí luận:
Căn cứ vào mục tiêu, chương trinh sách giáo khoa và phương pháp dạy môn Lịch sử
trung học cơ sở, căn cứ vào trình độ nhận thức của học sinh bậc THCS, nhằm đáp ứng
được xu thế phát triển xã hội. Vậy làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp
với đối tượng học sinh bậc THCS?

Đối với môn Lịch sử các sự kiện, nhân vật… diễn ra trong quá khứ, lại rất phức tạp,
đòi hỏi học sinh phải tổng hợp các kĩ năng. Theo kiểm tra thực tế phần lớn học sinh ngại
học môn Lịch sử, đặc biệt với học sinh yếu kém lại càng ngại hơn, Lịch sử là liên quan đến


sự kiện, nhân vật, ngày tháng năm, những khái niệm trừu tượng mà học sinh chưa tiếp xúc
do đó khơng thể thấy được giá trị to lớn của việc học tập lịch sử. Học lịch sử là học những
gì diễn ra trong quá khứ từ đó rút kinh nghiệm trong cuộc sống và định hướng cho tương
lai.
2. Cơ sở thực tiễn:
Để học sinh hiểu được lịch sử và yêu thích bộ môn, giáo viên phải biết lựa chọn
phương pháp giảng dạy phù hợp tạo biểu tượng trong dạy học là hình thức khơi tính tị mị
khám phá của học sinh. Học sinh tự biết đánh giá, nhận xét sự kiện nhân vật, hiện tượng
lịch sử, biết liên hệ các sự kiện nhân vật, hiện tượng lịch sử với cuộc sống hiện tại của xã
hội của địa phương từ đó hình thành khái niệm thì học sinh sẽ nhớ lâu và từng bước u
thích. Biện pháp thực hiện ở đây khơng phải một ngày, hai ngày, một tuần hay một tháng
mà là cả một q trình dài, địi hỏi giữa thầy và trị phải kiên trì. khơng phải việc làm của
một người mà thành cơng được, địi hỏi sự hỗ trợ của nhiều người, nhiều tổ chức đoàn thể
trong nhà trường, hội cha mẹ học sinh cùng phối hợp đồng bộ mới có kết quả được.
III. NỘI DUNG
1. Tạo biểu tượng lịch sử là bước đầu trong quá trình hình thành tri thức cho học
sinh.
1.1. Biểu tượng lịch sử.
- Biểu tượng lịch sử là hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lý... được
phản ánh trong óc học sinh với những nét cụ thể, nhưng mà chung nhất, điển hình nhất.
Biểu tượng lịch sử có nhiều loại khác nhau:
- Biểu tượng về hoàn cảnh địa lý là biểu tượng về không gian, nơi diễn ra sự kiện lịch sử.
- Biểu tượng về nền văn hóa vật chất là biểu tượng về những sản phẩm, do con người tạo ra
bằng sức lao động sáng tạo của mình.
- Biểu tượng về một sự kiện xẩy ra trên lĩnh vực chính trị, qn sự, kinh tế, văn hóa, tư

tưởng...
- Biểu tượng về hoạt động của quần chúng nhân dân những người sáng tạo ra mọi giá trị
tinh thần và vật chất của lịch sử.
- Biểu tượng về một nhân vật lịch sử (tiến bộ, cách mạng hay phản động) có tác dụng thúc
đẩy hoặc làm trở ngại sự phát triển của lịch sử.
- Biểu tượng về thời gian là biểu tượng về lúc mà sự kiện lịch sử xẩy ra.
- Biểu tượng về quan hệ xã hội của con người qua các thời đại lịch sử (trong thời kì công
xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ...) Các loại biểu tượng lịch sử có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
1.2. Con đường tạo biểu tượng lịch sử:
Do biểu tượng về sự kiện quá khử không được xây dựng trên cơ sở hệ thống tín hiệu
thứ nhất, khơng qua thị giác của học sinh nên việc sử dụng đồ dùng trực quan là điều quan


trọng không thể thiếu trong dạy, học Lịch sử; trước hết là bản đồ, tranh, ảnh... những
phương tiện trực quan này sẽ cụ thể hóa sự kiện quá khứ mà học sinh không thể trực tiếp
quan sát được. Ở đây việc sử dụng các hiện vật lịch sử, các đồ phục chế (sa bàn mơ hình...)
có ý nghĩa rất lớn khơng chỉ tái tạo hình ảnh q khứ mà cịn gây cảm xúc mạnh mẽ cho
học sinh.
Sử dụng các số liệu biểu hiện qua các bảng thống kê, sơ đồ, đồ thị là một biện pháp
sư phạm không chỉ tạo được hình ảnh q khứ mà cịn phát triển tư duy cho học sinh.
Dường như đến nay giáo viên ít chú ý đến số liệu, tài liệu thống kê trong dạy học Lịch sử.
Nhiều người chỉ sử dụng phương pháp định tính (phân tích nêu tính chất...) ít sử dụng
phương pháp định lượng.
Sử dụng tài liệu lịch sử, tài liệu địa phương và các tài liệu khác là biện pháp có hiệu
quả trong việc cụ thể hóa sự kiện để tạo biểu tưởng lịch sử.
Sử dụng tiểu sử của các nhân vật lịch sử (chính diện lẫn phản diện) cũng có tác dụng
cụ thể hóa một số sự kiện lịch sử. Biện pháp này có nhiều cách tiến hành. Đối với kiểu bài
mà kiến thức cơ bản gắn chặt với một hoạt động của nhân vật lịch sử thì cung cấp cho học
sinh những nét tiêu biểu của nhân vật lịch sử đó để giúp học sinh nắm được sự kiện liên

quan cũng có trường hợp trình bày tồn bộ cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật tiêu biểu
cho lịch sử một thời kì nhất định. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng kỉ niệm vào ngày 8/3
Quốc tế phụ nữ và khởi nghĩa Hai Bà Trưng; ví như V.I.Lênin với Cách mạng tháng Mười
Nga. Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Cách mạng Việt Nam.
Hình tượng hóa một hiện tượng lịch sử nhằm giúp cho học sinh hiểu quá trình diễn
biến, bản chất của một sự kiện. Ví như Hồ Chí Minh nêu hình ảnh “con đỉa hai vịi” để nói
về quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng vơ sản ở chính quốc.
2. Hình thành khái niệm lịch sử:
2.1 Khái niệm lịch sử:
Để nắm vững những kiến thức cơ bản của môn học, học sinh phải nắm vững hệ
thống khái niệm khoa học.
Hình thành khái niệm lịch sử là khâu quan trọng nhất trong quá trình dạy học lịch sử
ở trường phổ thơng. Điều này nhiều giáo viên chưa nhận thức được vị trí, ý nghĩa của việc
hình thành khái niệm và cũng khơng có khả năng làm tốt công việc này. Đây là một trong
những nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng dạy, học Lịch sử ở trường phổ thơng.
Bởi vì có nắm được khái niệm Lịch sử, học sinh mới nắm được những nét đặc trưng, bản
chất của sự kiện lịch sử, mới nhận thức được mối liên hệ, quan hệ chủ yếu của các biến cố
và hiện tượng lịch sử.
Trong thực tế việc dạy, học, việc tạo biểu tượng và hình thành khái niệm Lịch sử
được tiến hành đồng thời không tách ra được; khái niệm hình thành trên cơ sở biểu tượng.
Song biểu tượng Lịch sử và khái niệm Lịch sử là hai phạm trù khác nhau. Quá trình hình
thành khái niệm được xem như quá trình phát triển tư duy, từ việc nắm kiến thức chưa đầy
đủ, chưa hệ thống đến nắm kiến thức đầy đủ hơn sâu sắc hơn. Những thiếu sót khá tiêu
biểu mà học sinh thường mắc phải khi nắm các khái niệm lịch sử nhầm lẫn giữa “khái
niệm” với “sự kiện” cụ thể, với “thuật ngữ” đồng nhất với việc hình thành khái niệm với
“định nghĩa” chung chung; không nắm được các đặc trưng (dấu hiệu) trong nội hàm khái
niệm; không phân biệt được đặc trưng chủ yếu và thứ yếu, cơ bản và không cơ bản. Vì vậy
trên cơ sở biểu tượng có hình ảnh, chính xác giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành khái



niệm và điều trước tiên là nắm được các đặc trưng cơ bản trong nội hàm khái niệm, mà
không tách biệt những nét riêng của các khái niệm, cần phân loại khái niệm.
Trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, chúng ta thường gặp nhiều loạt khái niệm; việc
đồng nhất khái niệm dẫn tới hậu quả không nắm được nội dung, tính chất, vai trị, ý nghĩa
của các loại khái niệm. Có cách phân loại khái niệm theo nội dung mà khái niệm ấy phản
ánh; Khái niệm về kinh tế, chính trị, về văn hóa, về đấu tranh giai cấp... Có cách phân loại
theo mức độ khái quát của nội dung khái niệm; khái niệm sơ đẳng (gần với biểu tượng),
khái niệm lịch sử trìu tượng tương đối ít phức tạp, khái niệm lịch sử mang tính trìu tương
cao, những khái niệm chung. Chúng ta quan niệm rằng: Khái niệm lịch sử là sự phản ánh
được khái quát hóa của q trình lịch sử, nó phản ánh những mối liên hệ khách quan của
hiện tượng này và của quy luật lịch sử.
Khái niệm lịch sử bao giờ cũng ở mức độ trìu tượng khá cao, vì nó khơng chỉ phản ảnh
một sự kiện riêng lẽ hay một nhóm sự kiện mà còn phản ánh những hiện tượng phức tạp đa
dạng về mặt kinh tế, xã hội, chính trị...(Cách mạng tư sản, Cách mạng vô sản, Cách mạng
công nghiệp…). Những quan hệ của con người với con người, của con người với thiên
nhiên, của con người trong xã hội (lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp). Cũng như mọi
khái niệm khoa học, những khái niệm dùng trong dạy, học lịch sử (khái niệm lịch sử) phức
tạp và đơn giản- phản ánh một quá trình lịch sử hay một sự kiện. Khái niệm chung của triết
học và các môn khoa học có liên quan đến lịch sử đều có nội hàm và ngoại diên của nó.
Nội hàm của khái niệm là tổng hợp những nét chung, những đặc trưng của sự kiện lịch sử
được phản ánh trong khái niệm. Còn ngoại diên của khái niệm tập hợp những sự kiện lịch
sử mà nội hàm là đặc trưng của nó được phản ánh một khái niệm chung. Ví như khái niệm
“Cách mạng tư sản” mà học sinh thường gặp trong nhiều bài lịch sử, nhất là khóa trình lịch
sử Cận đại, hiện đại có nội hàm là những nét chung bản chất, những đặc trưng riêng của
cuộc cách mạng (do giai cấp tư sản hay các lực lượng có xu hướng tư sản lãnh đạo) xóa bỏ
hay hạn chế ở mức độ khác nhau sự thống trị của giai cấp phong kiến, thay thế sự bóc lột
tư bản cho sự bóc lột phong kiến, đặt cơ sở và tạo điều kiện cho sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản. Còn ngoại diên của khái niệm này là những cuộc cách mạng tư sản diễn ra với
nhiều hình thức khác nhau (cuộc cách mạng Hà Lan thế kỉ XVI, Cuộc cách mạng Anh thế
kỉ XVII, chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, việc thống nhất nước

Đức, Italia thế kỉ XIX, cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản...).
Sự phân loại khái niệm lịch sử và nhận thức về nội hàm, ngoại diên của nó là điều
quan trọng trong việc hình thành khái niệm; khâu quan trọng bậc nhất của dạy, học lịch sử.
Đó là điều kiện cơ bản để hiểu sâu một sự kiện, phân biệt một sự kiện khác nhau về
nguyên tắc giữa các sự kiện có nội dung và bản chất khác nhau (phân biệt “cách mạng tư
sản” với “cách mạng vô sản”, “cách mạng” với “đảo chính”, “cải lương”.
2.2. Con đường hình thành khái niệm lịch sử:
Các sách Phương pháp dạy, học Lịch sử đã viết khá nhiều, khá kĩ và sâu. Song vấn
đề này chỉ dừng lại ở nhận thức lý luận mà chưa thể hiện trong thực tiễn giảng dạy. Hiện
nay khơng ít giáo viên lịch sử khơng hề quan tâm đến đến việc hình thành khái niệm mà
chỉ lo trình bày các sự kiện để học sinh ghi nhớ chưa nâng đến mức nhận thức lịch sử. Như
vậy là chưa đạt yêu cầu của việc học tập lịch sử. Bởi vì, nắm kiến thức khoa học có nghĩa
là trước hết phải nắm vững các khái niệm khoa học. Do đó, cần nhận thức đúng ý nghĩa,


tầm quan trọng của việc hình thành khái niệm và con đường sư phạm, có hiệu quả cao nhất
về cơng việc này.
Thứ nhất: trong quá trình dạy, học lịch sử ở trường phổ thông, học sinh không nắm
một khái niệm, mà một hệ thống khái niệm gồm những khái niệm quan hệ với nhau và có
một khái niệm trung tâm. Ví như khi học về lịch sử thế giới cổ đại với sự ra đời của giai
cấp và nhà nước, học sinh cần nắm hệ thống khái niệm “kinh tế - giai cấp – nhà nước”.
Trong khái niệm “giai cấp” giữ vị trí trung tâm.
Thứ hai: Việc hình thành khái niệm phải tiến hành trên cơ sở việc tạo biểu tượng và
bắt đầu bằng công việc nêu rõ nội dung những đặc trưng cơ bản của khái niệm. Đây là
công việc đầu tiên song rất quan trọng vì nó giúp học sinh nắm được bản chất của sự kiện.
Ví dụ: Đối với khái niệm “Nô lệ”, “Nông nô”, “nông dân”, “công nhân”. học sinh không
nên dừng lại ở hiểu biết rằng đó là những người lao động, bị áp bức. Trên cơ sở tài liệu lịch
sử cụ thể giáo viên hướng dẫn các em nêu được những đặc trưng cơ bản, phân biệt các tầng
lớp giai cấp này. Như vậy các em mới phân biệt được nhiệm vụ lịch sử, yêu cầu của thời
đại đối với những người này. Khi nêu đặc trưng của những khái niệm này, chúng ta sẽ giúp

học sinh nắm được những cái chung, cái riêng và đặc thù trong mỗi khái niệm. Như trong
các khái niệm trên có một điểm chung - họ là người lao động, bị áp bức, song mỗi loại có
một bộ phận và vị trí khác nhau trong lịch sử (“nơ lệ” ở thời kì chiếm hửu nơ lệ, hồn tồn
phụ thuộc vào “chủ nơ”, “cơng nhân” ở thời kì tư bản chủ nghĩa được “tự do” bán sức lao
động, bị bóc lột bằng “giá trị thặng dư”.
Thứ ba: Khái niệm được diễn bằng một thuật ngữ. Để nắm được khái niệm cần phải
hiểu thuật ngữ diễn đạt nội dung nó. Có khi thuật ngữ diễn đạt được những đặc trưng của
khái niệm, nếu sự vật được phản ánh là đơn nhất, khái niệm “trống đồng” nói lên những
đặc trưng của trống đồng. Có khi một thuật ngữ diễn đạt một khái niệm có nội dung phức
tạp, qua các thời kì lịch sử khác nhau thì việc nắm nội dung của nó cũng khơng đơn giản,
như “Nhà nước cổ đại”, chỉ một bộ máy, tổ chức chính trị ở thời kì chiếm hữu nô lệ. Sau
khi học phần lịch sử thế giới cổ đại học sinh mới hiểu được sâu sắc khái niệm này, nó cịn
được nhiều lần để so sánh với các khái niệm “Nhà nước phong kiến”, “Nhà nước tư sản”.
“Nhà nước vô sản”.
Thứ tư: Học sinh nắm được khái niệm dễ dàng hơn nếu các em có những cơ sở trực
quan. Vì sử dụng đồ dùng trực quan là điều kiện rất quan trọng. Khi học lịch sử thế giới
trung đại và cận đại, học sinh gặp khái niệm” cơng trường thủ cơng”. Giáo viên có thể đưa
cho các em xem bức tranh hay minh họa về cảnh lao động trong một công trường thủ công
và các em sẽ nhận thức rằng, đặc trưng của công trường thủ cơng là có phân cơng lao động,
song lao động bằng tay vẫn giữ vai trị quan trọng. Khi hình thành khái niệm “cách mạng
cơng nghiệp”, giáo viên cần hình thành cho học sinh hai hệ quả (hai mặt) của cách mạng
cơng nghiệp: sự phát minh máy móc, thúc đẩy kĩ thuật, sản xuất phát triển và việc đưa xã
hội thành hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa. Để đạt được yêu cầu này, giáo
viên sử dụng sơ đồ sau đây:


Cách mạng cơng nghiệp

Về mặt kĩ thuật


Máy móc

Về mặt xã hội

Động cơ
Tư sản

Khai thác than, luyện kim

Vô sản

Trên cơ sở sử dụng tranh, ảnh, sơ đồ... để học sinh nắm được nội dung các đặc trưng của
khái niệm, giáo viên hướng dẫn học sinh làm bảng sơ kết những vấn đề được trình bày
trong các sơ đồ trực quan. Như khái niệm “Công trường thủ công” nêu trên, giáo viên
hướng dẫn học sinh lập bảng tổng kết như sau:
Đặc trưng của mỗi cơ sở sản xuất
Vấn đề được đặt ra
Xưởng thợ thủ công
Công trường thủ công
1. So sánh xưởng thợ và
- Xưởng thợ chỉ có quy mơ Quy mơ lớn, có khi gồm 3-4 cơ
cơng trường thủ cơng..
nhỏ.
sở sản xuất.
2. Việc lao động và quản - Người chủ vừa trực tiếp
- Người chủ không lao động
lý sản xuất.
lao động sản xuất vừa quản mà chỉ giám sát công việc của
lý sản xuất.
người khác làm thuê.

3. Phương thức sản xuất
- Lao động bằng tay.
- Lao động bằng tay là chủ yếu
4. Quan hệ trong lao động - Những người thợ (thợ cả, - Công việc sản xuất được chia
sản xuất.
thợ phụ) lao động, người
cho từng nhóm người; chun
học việc...
mơn -> phân công lao động.
5. Ai lao động?
Chủ và tất cả những người Chỉ có người làm th lao
thợ thủ cơng.
động.
6. Tên gọi các cơ sở sản
Xưởng thủ công thời Trung Công trường thủ cơng.
xuất
đại
Việc hình thành khái niệm như vậy phải tiến hành trên cơ sở tích lũy một số kiến
thức lịch sử cần thiết, nhất là đối với những khái niệm chung, thường gặp trong khóa trình
như khái niệm:”Cách mạng”, “Văn hóa”, “Tơn giáo”, “Chủ nghĩa tư bản”, “Chủ nghĩa đế
quốc”...
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc học tập lịch sử thế giới cổ đại
Khái niệm “Xã hội nguyên thủy”, “thị tộc”, “bộ lạc”...
Trung đại “Lãnh địa”, “Thành thị trung đại “, “Lãnh địa phong kiến”, “Công xã
nông thôn”, “Nông nô”, :Nô tỳ” “Nông dân lĩnh canh”, “Nông dân cơng xã”...
Cận đại là hình thành khái niệm “Chủ nghĩa tư bản”,
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc học tập khóa trình lịch sử thế giới cận
đại là hình thành khái niệm về chủ nghĩa tư bản. Bởi vì: Có nắm được khái niệm này mới



hiểu được thế giới thời kì cận đại, cả thời kì tiếp theo của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc
từ nữa sau thế kỉ XIX.
Trước hết khái niệm về phương thức sản xuất (sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất) ở một mức độ nhất định, học sinh đã nắm được khi học lịch sử cổ đại,
nhất là việc học về công trường thủ cơng, về sự bóc lột của chủ cơng trường đối với người
lao động làm thuê (Chưa phải là tư sản và vô sản).
Trong các bài về cách mạng Hà Lan, thế kỉ XVI, Cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII,
Cách mạng tư sản Pháp thế kỉ XVIII, tính chất tư bản chủ nghĩa của thủ cơng được trình
bày đầy đủ, chi tiết và học sinh đã dần dần thấy rõ tính hơn hẳn của sản xuất tư bản chủ
nghĩa so với sản xuất phong kiến và mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa lực lượng sản xuất
mới tư bản chủ nghĩa với quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời. Những tài liệu, sự kiện về
chủ nghĩa tư bản xâm nhập vào nông thôn Anh những thập kỉ đầu thế kỉ XVII làm cho học
sinh hiểu rõ nguyên nhân và tiền đề cách mạng tư sản Anh. Các cuộc cách mạng bùng nổ
tiếp theo ở Mỹ, Pháp, Đức, Italia, Nhật...dưới nhiều hình thức khác nhau càng giúp học
sinh đi sâu hơn vào nguyên nhân bùng nổ cuộc cách mạng này.
Khái niệm chủ nghĩa tư bản tiếp tục được mở rộng nội dung của nó khi học sinh tìm
hiểu về xã hội, chính trị, sự phát triển của các nước sau khi cách mạng tư sản thành lập, chế
độ tư bản được xác lập, thay cho sự thống trị của phong kiến. Ở đây giáo viên miêu tả và
phân loại phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được thực hiện trên cơ sở lao động làm
thuê. Từ đó, các em hiểu rõ sự xuất hiện hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản. Nhắc lại
những kiến thức đã học, giáo viên giúp học sinh phân biệt trình trạng và vị trí của nơ lệ,
nơng nô, công nhân trong lịch sử.
Khái niệm chủ nghĩa tư bản được khai thác ở khía cạnh về giai cấp tư sản thống trị
giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân lao động khác, để học sinh thấy rõ mâu thuẫn giữa
tư sản với vô sản và nhân dân lao động ngày càng sâu sắc, dẫn tới cuộc đấu tranh mạnh
mẽ, gay gắt. Sự phát triển tất yếu của lịch sử mà cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô
sản là động lực dẫn tới thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kết quả là chủ nghĩa xã
hội nhất định sẽ thắng lợi cũng như sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy: Sự hình thành khái niệm Chủ nghĩa tư bản tiến hành trong một quá trình
học tập khá dài, trải qua các khóa trình lịch sử cận đại, hiện đại thế giới và Việt Nam trên

cơ sở các tài liệu sự kiện lịch sử phong phú và sự khái qt lí luận được nâng cao dần.
Cuối cùng, sự hình thành khái niệm phải dẫn tới kết quả là vận dụng những khái
niệm đã học để tiếp thụ những kiến thức mới vào đời sống. Khi học cách mạng tư sản học
sinh sẽ có cơ sở lí luận để đánh giá, nhận định những sự kiện như cuộc cách mạng tư sản
Pháp thế kỉ XVIII. Cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh tại Bắc Mĩ. Hay
những sự kiện xẩy ra ở thời hiện đại. Nắm vững các khái niệm “Chiến tranh chính nghĩa”,
“Chiến tranh phi nghĩa” học sinh mới nhận ra các cuộc chiến tranh trong lịch sử, cũng như
những cuộc chiến tranh trên thế giới đang diễn ra ngày nay. Do có nhận thức đúng mà học
sinh có thái độ đúng và hành động đúng.
3. Việc nêu quy luật và bài học lịch sử trong quá trình dạy, học lịch sử:
Trên cơ sở tạo biểu tượng để hình thành khái niệm, học sinh đã có sự khái quát lí
luận song chưa phải đã dừng lại ở đấy mà phải tiến đến nắm quy luật và rút ra bài học lịch
sử. Như đã trình bày nghiên cứu khoa học cũng như học tập Lịch sử cũng đạt đến trình độ
nắm quy luật (tùy theo yêu cầu và trình độ) và ý nghĩa thực tiễn của việc học Lịch sử là


biết vận dụng những bài học của quá khứ trong cuộc sống hiện tại. Công việc này cũng là
một bộ phận quan trọng của việc phát triển tư duy và năng lực thực hành của học sinh.
Con đường và những biện pháp sư phạm để rút ra quy luật và bài học Lịch sử trong
dạy, học Lịch sử rất đa dạng song không rơi vào công thức, giáo điều sẽ làm giảm tác dụng
của việc giáo dưỡng, giáo dục. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử cụ thể, những biểu tượng
và khái niệm đã thu nhận được giáo viên hướng dẫn học sinh thấy được bản chất, những
mối liên hệ cơ bản thường lặp lại giữa các sự kiện và rút ra quy luật (Tùy trình độ của học
sinh các lớp, tính chất quy luật của nó mà có thể nêu lên quy luật hoặc chỉ cho các em
những vấn đề cơ bản). Ví dụ qua nhiều bài học về hình thành các nước trước khi nổ ra cuộc
cách mạng tư sản giáo viên cho học sinh thấy được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mới và quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời là nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng. Nội dung
của vấn đề ngày một thể hiện cụ thể và sâu sắc qua các bài học và cuối cùng có thể nêu
tổng quát quy luật về tính tất yếu giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. (quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất chất và trình độ lực lượng sản xuất). Tùy trình độ và u

cầu học sinh mà có thể nêu quy luật này, song nội dung cơ bản của nó phải được thể hiện
và quán triệt một cách thích hợp trong nội dung các bài học lịch sử nói chung, về cách
mạng tư sản nói riêng.
Việc rút bài học kinh nghiệm lịch sử cho cuộc sống được tiến hành qua việc so sánh,
đối chiếu. Công việc này, trước hết phải đáp ứng từ những quy tắc cơ bản của phương pháp
luận cứ học và từ thực tiễn lịch sử và nhằm vào yêu cầu của hiện tại. Do đó, giáo viên cần
lưu ý học sinh khơng chỉ nắm vững kiến thức lịch sử quá khứ mà còn hiểu biết sâu sắc về
tình hình chính trị xã hội ngày nay để cho sự so sánh đối chiếu không rơi vào công thức.
Về mặt sư phạm phải chú ý đến đặc điểm của lứa tuổi, tâm lý, trình độ học sinh.
Có nhiều biện pháp tiến hành việc so sánh, đối chiếu, liên hệ tài liệu lịch sử với hiện
tại.
Rút bài học kinh nghiệm lịch sử cho hiện tại khi học các sự kiện quá khứ (Rút bài
học về Công xã Pa ri cho cách mạng Việt Nam).
Nêu triển vọng của một sự kiện lịch sử đang học trong khóa trình phát triển của nó,
Qua học tập Lịch sử cách mạng Việt Nam 1930-1945, nêu sự phát triển của phong trào giải
phóng dân tộc với các cao trào 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 và thắng lợi của cách
mạng tháng Tám 1945.
So sánh những hiện tượng xã hội cùng loại, những hiện tượng cùng có nguồn gốc và
đang phát triển trong hiện tại để hiểu rõ bản chất của nó (Khi học về chủ nghĩa đế quốc vào
thế kỉ XIX- đầu thé kỉ XX, so sánh nó với giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do và chủ nghĩa tư
bản hiện đại để thấy rằng dù có những đặc điểm trong mỗi giai đoạn của chủ nghĩa tư bản
nhưng về bản chất của nó không hề thay đổi.
So sánh, đối chiếu những sự kiện quá khứ và hiện tại để hiểu rõ hơn những sự kiện
ấy. Liên hệ công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa của dân tộc trong những thời kì trước để
hiểu rõ nhiệm vụ của chúng ta ngày nay trong việc kế thừa, bảo vệ, phát triển di sản văn
hóa của dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.
So sánh, đối chiếu hai sự kiện trái ngược nhau để nêu lên bản chất của mỗi sự kiện
(Tìm hiểu các bên tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thư nhất, thứ hai... để xác
định tính chất chính nghĩa hoặc phi nghĩa của mỗi bên).



Nhấn mạnh những vấn đề quá khứ vẫn có ý nghĩa với thời đại hiện nay (Tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, về xã hội hạnh phúc, ấm no, văn minh tiến bộ).
Việc so sánh liên hệ, đối chiếu lịch sử với hiện tại phải sát đúng (Tài liệu quá khứ,
tình hình hiện nay), thiết thực rút bài học có ích.
Hiệu quả của sáng kiến:
Năm học 2017 – 2018, tôi đã áp dụng các biện pháp trên với các khối lớp8, 8/1và 8/2
và đã đạt được hiệu quả như sau:
Kết quả đầu năm ( trước khi áp dụng- Thơng

Kết quả cuối học kì I

qua khảo sát chất lượng đầu năm)
TS HS
Giỏi Khá TB Yếu Kém
79
4
19
34
16
6
Kết quả học kì II

(sau khi áp dụng)
Khá
TB
Yếu
33
15
6


Tổng số HS
79

Tổng số HS

Giỏi
24

Kết quả thơng qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
40
32
Kết quả cả năm

7

0

Kết quả thông qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Kém
1


Kém
0

Kém

79
38
35
6
0
0
Qua đối chiếu so sánh trên thấy rằng số lượng yếu kém, trung bình giảm dần, khá
giỏi tăng. Đặc biệt là học sinh yêu bộ môn hơn. Cuối năm học chất lượng nâng cao. Đây
chính là chất lượng thực tế qua quá trình áp dụng cải tiến một số biện pháp trong năm học.
Được như vậy là nhờ vào sự kiên trì nỗ lực của thầy và trò, sự phối hợp giữa dạy và học,
sự quan tâm về việc nâng cao chất lượng dạy và học của tổ chuyên môn của nhà trường.
Với các biện pháp và kết quả đạt được như trên tôi đưa ra để các bạn đồng nghiệp
cùng tham khảo.
IV. KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT.
1. Kết luận chung:
Trong tình hình thực tế hiện nay, hầu hết học sinh khơng u thích, khơng đăng kí
thi tốt nghiệp hay chất lượng thi vào các trường Đại học thấp là do nhiều yếu tố như lượng
kiến thức đưa vào giảng dạy lớn, nhiều sự kiện phức tạp mà chỉ dùng cho các lớp cao hơn
do đó học không hiểu nên sợ. Để đạt được hiệu quả cao trong việc giảng dạy và nâng cao


chất lượng thực đối với học sinh không phải là một sớm một chiều. Đây là việc làm thường
xuyên liên tục và là vấn đề đáng quan tâm của từng giáo viên giảng dạy mơn lịch sử, tồn
ngành giáo dục và xã hội. Để thực hiện được cần dựa vào rất nhiều yếu tố tương tác nhưng

quan trọng nhất là yếu tố người dạy và sự cộng tác học tập của người học. Sự chỉ đạo sát
sao của trường, sự phối hợp của các cha mẹ học sinh, của mọi người xung quanh.
- Đối với người dạy: Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học tích cực, phát huy năng
lực học sinh giáo viên phải thực sự tâm huyết, tìm kiếm những phương pháp, biện pháp
hay nhất.
- Đối với người học phải chủ động lĩnh hội kiến thức, hứng thú học bài, biết vận dụng kiến
thức vào thực tiễn.
- Con đường dẫn đến thành công trong việc giảng dạy tạo cho học sinh hứng thú học tập có
lẽ gặp rất nhiều thác ghềnh nhưng tôi tin chúng ta những người giảng dạy lịch sử sẽ tìm
cho mình một con đường với những giải pháp hay nhất để vượt qua tất cả hoàn thành
nhiệm vụ quan trọng nặng nề mà xã hội giao cho. Đó là "sự nghiệp trồng người". Chúc các
bạn thành công.
2. Đề xuất để áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường và các tổ chuyên môn, tổ chức đoàn thể phải phối hợp đồng bộ. Sự
phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn. Trang bị đồ dùng dạy học,
đặc biệt là các tư liêu lịch sử bằng hình ảnh, máy chiếu để giảng dạy thì mới đáp ứng việc
nâng cáo hiểu quả giảng dạy lịch sử trong nhà trường. Ủng hộ giáo viên bộ môn và học
sinh về vật chất, tinh thần. Đây chính là động lực thơi thúc học sinh học tập có hiệu quả
nhất. Tăng cường giáo dục hướng nghiệp để học sinh biết xác định tương lai của mình.
Phong Thạnh Đông, ngày 25 tháng 9 năm 2019
Người viết sáng kiến

PHẠM ĐÌNH TỨ



×