Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kinh nghiệm quốc tế về mô hình phát triển khu vực ven đô các thành phố lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.02 KB, 8 trang )

DIỄN ĐÀN

kinh nghi÷m qc t’

VỀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KHU VỰC VEN ĐÔ
CÁC THÀNH PHỐ LỚN
KTS. Phạm Thị Nhâm*
ThS. KTS. Nguyễn Thị Hồng Diệp (VIUP)

INTERNATIONAL EXPERIENCE ON THE MODEL OF DEVELOPING THE SUBURBAN AREAS
OF MAJOR CITIES
Scientific research on the process of transition from rural to urban on a large scale in suburban areas around
big cities has been mentioned quite a lot in developed countries from many different angles. In the urban
planning, many topics have been systematically studied from concepts, characteristics to spatial structure
models, suburban development in relation to urban core centers...

This article is to analyze some urbanization models of suburban areas of some countries in the world, which
are valuable lessons for Vietnam in the process of urbanization. The article addresses the development
planning models of suburban areas of some countries in the world such as: The US, France, Japan, the
suburban management model - urban accumulation is taking place in China.

N

ghiên cứu khoa học quá trình chuyển hoá từ nông thôn lên đô thị trên diện rộng tại vùng ven
đô xung quanh thành phố lớn đã được đề cập khá nhiều ở các nước phát triển từ nhiều góc độ
khác nhau. Trong lónh vực quy hoạch đô thị, nhiều chủ đề đã được nghiên cứu có tính hệ thống
từ khái niệm, đặc điểm đến mô hình cấu trúc không gian, phát triển vùng ven đô trong mối quan hệ với
trung tâm lõi đô thị…
Bài viết này nhằm phân tích một số mô hình đô thị hóa khu vực ven đô của một số nước trên thế giới, là
những bài học kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình đô thị hóa. Bài viết đề cập tới các mô
hình quy hoạch phát triển khu vực vùng ven của một số nước trên thế giới như: Mỹ, Pháp, Nhật, mô hình


quản lý vùng ven đô - tích tụ đô thị đang diễn ra ở Trung Quốc.

1. Kinh nghiệm Mỹ - Thành phố ngoại ô - Vành đai đô thị ngoại ô

Ở nước Mỹ, mở rộng đô thị đến vùng ven đô thành phố lớn không có giới hạn mà theo nhu cầu sử dụng.
Vùng ven đô đã trở thành vùng đại đô thị rộng lớn có đặc trưng khác biệt, ở đó “ô tô” là biểu tượng văn hoá
đô thị, còn cư dân trung lưu được thoả mãn sở hữu những dinh thự rộng lớn và tiện nghi. Từ một thành phố
thuộc địa có chức năng hỗn hợp vào cuối thế kỉ 19 trở thành thành phố chuyên ngành quy mô lớn hơn vào
đầu thế kỉ 20. Đây là thời kì đô thị hoá lần thứ nhất với không gian đô thị được phân tầng xã hội của khu
phố nghèo khó với khu phố dành cho giới thượng lưu.

96

SË 103+104 . 2020


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Thời kì đô thị hoá lần hai vào khoảng thập
niên 70 của thế kỉ 20, thành phố tiếp tục mở
rộng nhanh chóng và phân cực, đô thị hoá
vùng ven diễn ra nhanh và xuất hiện các
khu nhà ổ chuột, nhà ở xã hội và khu nhà
tạm. Cuối thế kỉ 20, vùng ngoại ô tiếp tục mở
rộng không giới hạn hình thành thành phố
ngoại vi, dưới dạng đô thị phòng ngủ với rất
nhiều khu nhà ở dành cho nhà giàu đô thị.
Tiến trình phát triển của kết cấu đô thị diễn
ra mạnh mẽ với những đặc điểm sau: (1)
Dân số tại khu vực trung tâm giảm nhưng

có chiều hướng tăng nhanh tại vùng ven
đặc biệt khu vực ven ngoại ô; (2) Lượng
công việc và chỗ làm tại vùng trung tâm
giảm nhưng tăng nhanh tại các đô thị, thị
trấn ven đô; (3) Các đô thị và thị trấn ven
đô có mối liên kết cộng sinh ngày càng chặt
chẽ, thu hút lượng lớn lao động tri thức và
cạnh tranh mạnh mẽ với khu trung tâm.
Quá trình mở rộng không gian thành phố xuất
hiện những hình thức kết tụ mới, những đô thị
vệ tinh, trung tâm phụ, thành phố ngoại vi đã
hình thành và tự hoàn thiện những chức năng
cơ bản của thành phố, bổ sung những ngành
công nghiệp thương mại hay dịch vụ và cư
ngụ, dần dà những đô thị ở vùng ven đô phát
triển thành những trung tâm mới có chức năng
giống với khu vực CBD được Joel Gareau
(1991) gọi là thành phố ngoại vi (Edge city).
Hình 1: Tiến trình mở rộng thành phố tại Mỹ

Hình 2: Các thành phố ngoại vi ở Mỹ
Nguồn: />
Thành phố ngoại vi trở thành một dạng hình
thái đô thị mới tại các thành phố lớn ở nước
Mỹ. Trong đó, năm đặc trưng cơ bản của
thành phố ngoại vi được các học giả đúc
kết bao gồm:
(1) Thành phố trong đó quy mô diện tích
không gian văn phòng chiếm trên 5 triệu
mét vuông và là nơi tập trung của nhiều tập

đoàn, công ty đầu não;
(2) Thành phố có quy mô không gian thương
mại bán lẻ trên 600 ngàn mét vuông;
(3) Số lao động tại địa phương cao hơn số
lượng dân thường trú (tính theo ngày), quy
mô đất sản xuất công nghiệp lớn hơn quy
mô đất ở;
(4) Trang bị đủ những dịch vụ giải trí, tiêu
dùng của một thành phố;
(5) Ba mươi năm trước đây khu vực này
hoàn toàn không phải là thành phố 1.
1
CHANRLES WOILTH E.City
edge:contemporary discourses on
urbanism, 2005.

SË 103+104 . 2020

97


Hình 3: Đô thị phòng ngủ (vùng ngoại ô thành phố Los Angeles)

Thành phố ngoại ô nước Mỹ phát triển lan
rộng với phạm vi lớn, tỷ lệ chiếm đất vùng
ngoại ô lớn hơn nhiều lần so với vùng lõi đô
thị. So với điều kiện sống ở các đô thị lớn,
vùng ngoại ô nước Mỹ cung cấp nhà ở tiện
nghi giá rẻ có quyền sở hữu riêng và cảnh
quan đẹp đẽ. Tuy nhiên, vùng ngoại ô nước

Mỹ gặp nhiều bất cập lãng phí đất đai và
năng lượng.

2. Kinh nghiệm Pháp - Nông
nghiệp đô thị trong vành đai xanh
vùng Ile-de-France

Từ hơn 30 năm nay, vùng Ile-de-France
đang tiến hành quy hoạch phát triển vùng

không gian đô thị mở rộng, trong đó không
gian nông nghiệp xung quanh đô thị có vai
trò ngày càng quan trọng. Không gian nông
nghiệp ven đô không chỉ cung cấp rau quả
hàng ngày, mà còn mang lại vẻ đẹp cảnh
quan và tham gia bảo tồn di sản văn hoá nông
thôn. Vành đai xanh (Green Belt) ở ngoại vi
của trung tâm đô thị lõi là một trong những
chính sách quan trọng trong quy hoạch tổng
thể phát triển vùng đô thị. Để kiểm soát phát
triển mở rộng đô thị tự phát, cần thiết phải bảo
tồn những khu đất rừng và khu đất trống rộng
lớn, coi chúng là tiềm năng của phát triển bền
vững. Công cụ bảo tồn đa dạng hệ sinh thái
tự nhiên đã được áp dụng trên các khu rừng.

Hình 4: Sơ đồ phân vùng đô thị ở các khu vực của vùng Ile-de-France

98


SË 103+104 . 2020

Ở những khu đất trống, các chính trị gia địa
phương tìm ra biện pháp cho nông dân tham
gia các dự án “nông nghiệp - đô thị” có sự hỗ
trợ của Nhà nước.
Tác động của quá trình toàn cầu hoá làm
cho sản xuất nông nghiệp ở vùng ven đô bị
ảnh hưởng bởi các nhu cầu đầu tư phát triển
hạ tầng, KCN, khu đô thị. Tình trạng đầu tư
không liên tục, thường bị gián đoạn bởi nhiều
áp lực từ các nhà phát triển đất đai bất động
sản. Một số cư dân thành thị đã hành động
để khắc phục những nguy hại gây suy thoái
nông nghiệp ven đô. Họ tự hình thành các tổ
chức liên kết xã hội, cố gắng khôi phục những
gì còn sót lại trong vùng ven đô, tìm cách
giảm khoảng cách về quan hệ giữa người tiêu
dùng với người sản xuất, có thể trở thành nơi
giao lưu văn hoá đô thị - nông thôn, tìm hiểu
nông nghiệp sạch... Không gian nông nghiệp
đô thị “Farmland” là một cấu thành thiết yếu
tạo nên môi trường sống có chất lượng hơn
đối với các khu định cư nông thôn ven đô. Do
đó, các nhà chính trị gia địa phương đã khởi
xướng nhiều sáng kiến nhằm phục hồi và đa
dạng hoá sản phẩm nông nghiệp ven đô ở
các cấp khác nhau. Các sáng kiến này nhằm
tăng cường tính bền vững của nông nghiệp
ven đô và sự tham gia của cộng đồng vào

việc quản lý đất đai.
n Vùng Ile-de-France mở rộng và mối quan

hệ giữa xã hội đô thị - nông thôn.
Đến những năm 1960, nhận thức về
thiên nhiên và không gian mở trong các
thành phố vẫn bị hạn chế về khái niệm và
phương thức quản lý đối với các công viên,
vườn công cộng, các tuyến đường trồng
cây xanh, chủ yếu thuộc các phòng ban
chuyên trách quản lý đô thị. Không gian
nông nghiệp được hiểu thuộc về nông thôn.
Vùng ven đô luôn có trạng thái biến động
về không gian xây dựng và không gian
trống. Mặc dù, vùng ven đô còn hiện diện
những cánh đồng nông nghiệp, nhưng nó
không phải là một xã hội nông thôn. Nhưng
vùng ven đô chưa phải là một đô thị thật sự
vì sự hiện diện và sự không tương hợp của
các hoạt động nông nghiệp đôi khi tạo ra
sự phiền toái cho cư dân (tiếng ồn, mùi hôi,
bụi bẩn). Khu vực lưỡng cư, nửa đô thị nửa
nông thôn có nhiều cảnh quan đối lập về
lối sống. Cư dân mới sống trong vùng ven
đô có cả từ nội thành ra hoặc từ nông thôn
di cư đến. Khi vùng Ile-de-France mở rộng
không gian hình thành một vương miện


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝


xung quanh thành phố, đã đẩy các hoạt động đô thị di chuyển từ
nội thành ra xa hơn.

Từ năm 1970, có sự thay đổi về nhận thức đối với môi trường tự
nhiên. Thiên nhiên được nâng cao giá trị, là một nguyên tắc mới
trong tổ chức không gian đô thị và vùng đô thị. Ban đầu, bảo tồn
thiên nhiên đặt trọng tâm giữ gìn cảnh quan hoang sơ đặt xa thành
phố. Chính quyền áp dụng công cụ quản lý và chính sách công
tạo ra các Vườn quốc gia. Vùng ven đô đã trở thành khu vực có sự
kết hợp giữa khung cảnh nông thôn (tónh lặng, tầm nhìn đẹp như
tranh vẽ, thiên nhiên...) và các tiện nghi đô thị (công ăn việc làm,
giáo dục…).
Chức năng của không gian xanh là: Công viên vườn hoa đô thị,
cánh rừng hiện hữu dành cho giải trí, và công viên tự nhiên không
có giá trị sinh thái nhưng dễ tiếp cận từ khu ở đến đó. Bên cạnh
những thị trấn này, nhiều cư dân đô thị đã chọn sống trong các
trang trại xa thị trấn.

Hình 5: Sơ đồ phân bố không gian trống vùng Ile-de-France

Hình 6: Quy hoạch khu vực rừng vùng Ile-de-France

Khoảng năm 1980, nông nghiệp trở thành một dạng thức mô hình
đô thị tự nhiên. Người dân đô thị đã trở nên quan tâm hơn đến các
hoạt động giải trí ngoài trời như thể thao (đi bộ đường dài, chạy bộ,
cưỡi ngựa và đi xe đạp) hoặc đi bộ (tìm hiểu hệ thống nông thôn).
Từ đó, không gian xanh trở thành một phần của không gian cư trú
đô thị, cho dù đó là không gian xanh nông nghiệp hay rừng rộng lớn
được nuôi trồng hoặc tự nhiên. Cộng đồng địa phương ngày càng

trở nên mạnh mẽ về tinh thần đoàn kết và gắn bó mật thiết hơn.
Những từ như ‘di sản địa phương’ được coi trọng, có ý nghóa khác
biệt so với các cộng đồng khác, được đặt ra trong các chính sách
mới ở địa phương. Nông nghiệp được quản lý bằng pháp lý theo
nhiều cách khác nhau như: thực phẩm có chất lượng, thực phẩm
tươi mát, thực phẩm hỗ trợ sức khoẻ... Từ đó, làm tăng mối liên kết
thân thiện giữa người nông dân và người dân thành thị.
n Quy hoạch vùng Ile-de-France
Quy hoạch tổng thể đầu tiên của vùng Ile-de-France chỉ đề cập đến
những khu vực đô thị hiện tại và thị trấn tương lai, trong khi nông
nghiệp thì không. Nhưng từ giữa những năm 70, vành đai nông nghiệp
được cơ cấu lại và tổ chức trở thành quy mô khu vực, bao gồm tất cả
các vùng thuộc Ile-de-France. Quy hoạch tổng thể năm 1976: tìm
kiếm sự cân bằng giữa thành phố và thiên nhiên.

Nhà nước đặt mục tiêu hiện đại hoá nông nghiệp, nên nông nghiệp
Pháp đã ngày càng trở nên năng động. Bộ Môi trường thành lập
năm 1971 cho thấy xã hội ngày càng quan tâm đến môi trường
thiên nhiên.

Hình 7: Quy hoạch khu vực nông nghiệp vùng Ile-de-France

Quy hoạch tổng thể năm 1994 tạo ra một vành đai xanh xung
quanh thành phố dày đặc của Paris. Các khu rừng và đất nông
nghiệp chiếm một nửa diện tích vùng được bảo vệ nghiêm ngặt
như cây xanh và không gian cảnh quan. Vành đai xanh đủ mạnh
về mặt pháp lý để ngăn ngừa sự phát triển của đô thị. Các không
gian mở xanh được khuyến khích để đáp ứng các nhu cầu cụ thể
của thành thị: tiện nghi nông thôn bao gồm cảnh quan (trích dẫn lần
đầu tiên trong một tài liệu quy hoạch), các khu vườn và vườn cộng

đồng. Bên trong vành đai xanh, nông nghiệp là đa chức năng: nó
không chỉ sản xuất ra hàng hoá nông nghiệp mà còn đóng góp các
tiện nghi nông thôn. Ngoài vành đai này, nông nghiệp chỉ được coi
là một nền kinh tế.

SË 103+104 . 2020

99


Quy hoạch tổng thể năm 2010: vùng Ile-de-France được nghiên
cứu định hướng trở thành khu vực sinh thái đầu tiên ở châu Âu
(Nascimento, 2006). Khái niệm “vùng sinh thái” bao gồm một diện
tích lớn với đặc điểm sinh thái thống nhất: môi trường, tài nguyên
thiên nhiên, dân số... Thách thức đối với quy hoạch đô thị ở vùng
Ile-de-France đối với khái niệm vùng sinh thái là kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với sự tôn trọng môi trường tại quy mô vùng đô thị
bằng cách giữ không gian xanh mở lớn (cả đất tự nhiên và đất canh
tác), thúc đẩy hoà nhập xã hội (nhà ở, tiếp cận với thị trường lao
động…) và giao thông công cộng...
Vườn tự nhiên cấp vùng (tiếng Pháp: parc naturel régional hay
PNR) là công cụ thực hiện ý tưởng “vùng sinh thái”. Vườn tự nhiên
là tổ chức công cộng tại Pháp thuộc nhà cầm quyền địa phương và
Chính phủ quốc gia, bao phủ lên những khu vực thôn quê có người
cư trú và có vẻ đẹp nổi bật, nhằm bảo vệ cảnh quan và di sản cũng
như thiết lập phát triển kinh tế bền vững trong khu vực. PNR đặt ra
các mục tiêu và hướng dẫn về quản lý cư trú của con người, phát
triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường tự nhiên dựa trên cảnh
quan và di sản độc đáo của mỗi công viên. Các công viên thúc đẩy
các chương trình nghiên cứu sinh thái và giáo dục công cộng khoa

học tự nhiên. Tính đến năm 2014, ở Pháp có 49 PNR.
Dự án nông nghiệp đô thị trong vành đai xanh “PAU” là sáng kiến
của cư dân địa phương về phát triển nông nghiệp đô thị trong
vành đai xanh nhằm duy trì không gian sinh thái nông nghiệp
xung quanh đô thị và cung cấp những thực phẩm tươi sống, đặc
biệt mang lại sự gần gũi về cảnh quan giữa thành phố và nông
thôn, bổ sung các tiện nghi cho khu vực đô thị và nông thôn.
Cộng đồng địa phương ban hành điều lệ quản lý phát triển dự án
nông nghiệp đô thị, có sự tham gia của các cơ quan nhà nước
địa phương trong phát triển nông nghiệp địa phương, tuy nhiên
không thể được coi là một trở ngại cho tính cạnh tranh. Các dự
án nông nghiệp đô thị là chiến lược giữ gìn không gian xanh mở
đa chức năng trong vùng Ile-de-France. Giữ không gian nông
nghiệp ven đô cho các khu vực phòng hộ chống lại các nguy cơ
do thiên tai tự nhiên (cháy, lũ lụt...), cải thiện vi khí hậu cho phát
triển đô thị và công nghiệp (nhà máy, sân bay, đường cao tốc...)
và giảm các bất cập xã hội (các khu định cư bất hợp pháp, bãi
rác không được kiểm soát…) thuộc trách nhiệm của chính quyền
quản lý đất đai.

Có một sự đổi mới thực sự giữa liên kết người nông dân với các
nhà cung cấp thực phẩm và nhà cung cấp tiện nghi đô thị. Các
chính sách phát triển đô thị cho phép người dân thành thị hiểu rõ
hơn những quy định về hoạt động trên các khu đất nông nghiệp
trong đô thị.

q

Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam là:
(1) Kiểm soatù việc phát triển đô thị dàn trải ở châu Âu giúp thành

phố phát triển bền vững hơn về xã hội và môi trường. Để kiểm soát
vùng ven các đô thị Việt Nam, vành đai xanh cần được áp dụng
trong quy hoạch các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Thanh
Hoá… nhằm mục tiêu kiểm soát không cho hình thành dự án đô thị
kiểu phân tán (kiểu đô thị nhảy cóc). Tuy nhiên, sau khi đồ án quy
hoạch được duyệt, không có chính sách hỗ trợ thực hiện vành đai
xanh. Vì vậy công cụ vành đai xanh đô thị Việt Nam đã không trở
thành hiện thực trong quản lý đô thị.
(2) Công cụ quy hoạch không đủ điều kiện để kiểm soát phát triển
tràn lan ở vùng ven đô. Một số công cụ được sử dụng hiệu quả ở
các nước phát triển là Luật quản lý tăng trưởng, hình thành ranh giới
tăng trưởng đô thị, mua quyền phát triển, chuyển nhượng quyền
phát triển, quỹ tín dụng khai thác đất đai.
(3) Nông nghiệp đô thị là liên minh gắn kết đô thị - nông thôn ở
vùng ven đô.

3. Kinh nghiệm Trung Quốc - Quản lý vùng ven đô
- Tích tụ đô thị

Ở Trung Quốc, trong những thập niên vừa qua đã diễn ra tiến trình
đô thị hoá mạnh mẽ với việc trải qua bốn giai đoạn tăng trưởng, tích
tụ hình thành các chùm đô thị. Quá trình tích tụ đô thị được tác động
bởi các động lực kinh tế, toàn cầu hóa, tin học hóa, công nghiệp
hóa mới, thông tin, hỗ trợ chính sách và nền kinh tế tri thức; từ các
thành phố trở thành các khu vực đô thị, các vành đai đô thị lớn và
một megalopolis (MIR).

Phần kết luận
q Các sáng kiến địa phương đã ảnh hưởng đến phát triển bền vững
của thành phố và cư dân địa phương đã nhận thức được trách

nhiệm của mình. Điều này làm giảm sự phân tách xã hội giữa nông
dân và thị dân.
q Trong khuôn khổ của PNR và PAU, nông nghiệp đô thị vùng ven
đô không chỉ là không gian sản xuất cung cấp thực phẩm tươi sống
hàng ngày cho cư dân đô thị, nó còn là không gian cảnh quan,
cơ sở hạ tầng có tác dụng giải quyết các bất cập của đô thị trước
BĐKH. Những nguyên tắc này phù hợp với khái niệm quy hoạch đô
thị hiện đại về phát triển thành phố bền vững, không gian tự nhiên
đã không xung đột với hoạt động nông nghiệp và không gian nông
nghiệp không xung đột với hoạt động của đô thị.

100

SË 103+104 . 2020

Hình 8: Các giai đoạn phát triển chùm đô thị
(Nguồn: />S0169204617300439)


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Các tiêu chí để xác định sự tích tụ đô thị là dân số, cấu trúc không
gian, mạng lưới giao thông kết nối, công nghiệp, liên kết vùng,
phương thức mở rộng đô thị, chức năng đô thị. Xác định sự tích tụ
đô thị nhằm phát hiện hình thành đô thị, từ đó ban hành các chính
sách tích hợp, các kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp.
Việc xác định một vùng nào đó đã trở thành đô thị khi có: (1) hơn
ba thành phố lớn với dân số hơn 20 triệu người (và một trong ba
thành phố lớn - cốt lõi - có hơn 5 triệu người); (2) GDP bình quân
đầu người trên 10.000 USD; (3) dân số phi nông nghiệp lớn hơn

50%; (4) các ngành công nghiệp phi nông nghiệp trên 70% GDP
(ở giai đoạn giữa đến cuối của công nghiệp hóa và đô thị hóa); (5)
tỷ lệ trung tâm GDP của lõi vượt quá 45%; (6) tỷ lệ phụ thuộc vào
xuất khẩu trên 30%; (7) mật độ kinh tế hơn 15 triệu RMB (2,5 triệu
USD)/km2; và (8) bằng chứng rõ ràng về vành đai kinh tế bán kính
vận chuyển nửa giờ, một giờ và hai giờ.
Các tiêu chí này phản ánh quá trình tích tụ đô thị, tốc độ phát triển
kinh tế xã hội và sự hội nhập toàn cầu hoá.
Khi sự tích tụ đô thị được xác định, các kế hoạch, chính sách và xây
dựng cơ sở hạ tầng có thể được phối hợp từ cấp trung ương đến cấp
địa phương để đảm bảo hội nhập lâu dài và phát triển bền vững.


Các đô thị mới hình thành ở vùng ven đô được xác lập “từ dưới lên”
có xu hướng tăng, bởi nó phản ánh quá trình tích tụ theo nhu cầu
thị trường, được liên kết chặt chẽ giữa đô thị - nông thôn, từ đó hội
tụ lối sống đô thị. Đặc tính này đôi lúc trở nên phổ biến ở vùng ven
đô thành phố lớn. Tuy nhiên không phải lúc nào cả hai hình thức đô
thị hóa đó cũng được thừa nhận trong hệ thống lập kế hoạch chính
thức của Trung Quốc. Do đó vùng ven đô các đô thị lớn là cơ hội
để chính quyền cấp TW và địa phương thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhưng đã có nhiều mô hình đô thị không bền vững được xây dựng
trên thực tiễn, gây nên tác động tiêu cực. Không giống như đô thị
phòng ngủ ở ngoại ô thành phố nước Mỹ, vùng ven ở Trung Quốc
có nhiều đô thị “ma”, theo thống kê có đến 50 thành phố có tỷ lệ
nhà bỏ trống cao và 64 triệu căn hộ không có người ở.

4. Kinh nghiệm Nhật - Mô hình đô thị nén

Đô thị hoá vùng ven thành phố lớn ở Nhật Bản khởi đầu từ cuối thế

kỷ 19 khi nước này đang trong quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh
chóng, buộc thời Minh Trị có những nỗ lực quy hoạch thành phố
theo hướng phân vùng phát triển. Nhằm hiện đại hoá Tokyo và các
vùng đô thị với các địa lộ sang trọng và các công trình vó đại như ở
Paris hay Luân Đôn, Nhà nước đã hình thành thể chế khuyến khích
phát triển mới các ngành công nghiệp và hệ thống đường sắt đô thị.
Năm 1920, khu vực đô thị của Tokyo bắt đầu phát triển ở rìa thành
phố lịch sử, các nhà máy xí nghiệp công nghiệp nặng ở khu vực
ngoại vi, gây nên xung đột nghiêm trọng với cư dân địa phương.
Các vấn đề đô thị và xã hội ngày một gia tăng dẫn đến hình thành
bộ Luật Quy hoạch (1919). Tuy nhiên, Luật Quy hoạch năm 1919
cũng không ngăn được phát triển tự phát các khu nhà ở đơn lẻ dày
đặc cho công dân tầng lớp trung lưu mới nổi ở ngoại ô Tokyo.
Năm 1930, Chính phủ triển khai ý tưởng “vành đai xanh” học tập từ
mô hình đô thị của Anh, nhằm kiểm soát phát triển mở rộng vùng
ven đô.

Hình 9: Ngoại vi đô thị như không gian tăng trưởng và xung đột: Sự
phát triển của các thị trấn mới ở Trung Quốc

Thực tế đô thị hoá vùng ven đô ở Trung Quốc không theo định
hướng có sẵn từ Chính phủ, các hình thái đô thị nổi lên ở các vùng
ngoại vi không liền mạch, rời rạc. Không gian đô thị được mở rộng
bởi chính sách chính thức và phi chính thức.
Có hai mô hình phát triển đô thị ở vùng ven đô, cụ thể: (1) Mô hình
đô thị thành lập mới từ định hướng của Chính phủ cho phép mở
rộng thành phố trung tâm vùng; và (2) Mô hình đô thị mới được hình
thành từ nhu cầu tích tụ đô thị ở vùng nông thôn. Phát triển các đô
thị mới ở vùng ven đô được xác lập từ định hướng quy hoạch đô thị
của Nhà nước “từ trên xuống” có xu hướng giảm do không khả thi

và không phù hợp với xu thế thị trường.

Hình 10: Mở rộng khu dân cư vuøng Tokyo

SË 103+104 . 2020

101


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Ý tưởng “vành đai xanh” của Tokyo không
thực hiện được bởi chính quyền không thể
trưng thu mua đất, phần lớn đất đai được
bán cho nông dân địa phương khi cải cách
ruộng đất sau chiến tranh. Trước năm
1960, Nhật Bản vẫn là một quốc gia “nông
thôn” có hơn nửa gia đình sống ở nông
thôn. Thời kỳ tái thiết sau chiến tranh, sự
tăng trưởng kinh tế và đô thị nhanh chóng
trong thập niên 50 và 60 dẫn đến tình trạng
tập trung dân cư ở Tokyo, Osaka và vành
đai quanh các thành phố này, tạo thành
trung tâm Tokaido Megalopolis, nơi sau
này diễn ra sự phát triển công nghiệp và
đô thị mạnh mẽ.

Việc tập trung dân cư và ngành nghề dẫn
đến tình trạng sử dụng đất bừa bãi gây
tắc nghẽn, ô nhiễm môi trường và che

khuất ánh sáng mặt trời. Vùng ven Tokyo
đã tăng dân số nhanh chóng và phát triển
tự phát bởi các công trình xây dựng bám
theo hệ thống đường sắt mà không bị
kiểm soát bởi kế hoạch sử dụng đất và
chính sách “vành đai xanh”. Cuộc khủng
hoảng môi trường như bị mất quyền được
hưởng ánh sáng mặt trời, chịu đựng tình
trạng ô nhiễm khói bụi giao thông, nhà ở
chật hẹp là hậu quả của tăng trưởng kinh
tế nhanh chóng và mở rộng đô thị không
được điều tiết, dẫn đến những phản
kháng mạnh mẽ đối với chính sách của
Chính phủ, dẫn đến sự ra đời của Luật
Quy hoạch năm 1968 và sửa đổi Luật Xây
dựng năm 1970.

Vấn đề quy hoạch đô thị thế kỷ 20 của
Tokyo là mở rộng và tăng trưởng đô thị
hoá tăng nhanh. Đô thị hoá vùng ven
thành phố lớn ở Nhật Bản phải đối mặt với
những vấn đề về:
Khu vực trung tâm được dùng cho các
khu thương mại và dịch vụ lớn thay vì các
cửa hàng kinh doanh nhỏ lẻ, khu dân cư
truyền thống;

q

q Những khu chung cư được mở rộng ở các


vùng ngoại ô làm tăng khoảng cách đi lại
gây ra sự thiếu hụt các phương tiện công
cộng và môi trường sinh hoạt văn hoá;

q Các vùng ven biển được phát triển trở lại
với các khu văn phòng và chung cư cao
tầng, cung cấp nhà ở cho những cư dân từ
các vùng khác đến sinh sống;

Tỷ lệ dân cư sống ở các vùng ven đô
ngày càng tăng dẫn đến tình trạng thiếu
hụt các phương tiện giao thông và phúc lợi
công cộng.

q

Hình 11: Quy hoạch phân vùng phát triển
(Nguồn: />
102

SË 103+104 . 2020

Người Nhật đã tích luỹ được những kinh
nghiệm về quy hoạch liên quan tới những mô
hình của phương Tây, hệ thống quy hoạch
các thành phố chủ yếu được mô phỏng theo
mô hình này, tạo ra những kết quả rất khác
nhau xét về mặt đô thị và chính sách. Phát
triển đô thị Tokyo lưu ý tới năm đặc điểm của

quá trình đô thị hoá ở Nhật Bản:
q Sự tập trung nguồn lực Nhà nước cho
phát triển kinh tế đô thị;
q Sự liên kết lỏng lẻo giữa công tác quy
hoạch và xã hội;
q Sự thống trị của chính quyền Trung ương;
q Sự ưu tiên cho các công trình công cộng
so với các công trình phục vụ đời sống
cá nhân;


q Truyền

ven đô.

thống tự chủ lâu đời của các vùng

Một trong những nhân tố khác biệt ảnh
hưởng tới sự phát triển của quy hoạch đô
thị ở Nhật Bản là vai trò thứ yếu của cộng
đồng xã hội trong quá trình, thực tiễn lập
chính sách quy hoạch hoặc tạo ra những
hình ảnh về một cuộc sống thành thị tốt
đẹp. Quyền lực tập trung của Chính phủ
Trung ương đã ngăn cản sự phát triển
chuyên môn quy hoạch ở cấp địa phương
và hạn chế sự phát triển các cách tiếp
cận khác đối với vấn đề quy hoạch vì
chất lượng cuộc sống. Tuy vậy, tình hình
dường như đã thay đổi nhanh chóng trong

những năm gần đây. Và điều quan trọng
là những cải thiện môi trường từ các sáng
kiến của người dân đã được coi trọng và
đóng vai trò chủ đạo trong sự trở lại của
xã hội dân sự.
Những thay đổi về sự tham gia của người
dân đã trở nên phổ biến, với tên gọi
“Machizukuri” mà có thể gọi nôm na là “quá
trình ra quyết định tập thể” hay “phát triển
cộng đồng”. Áp dụng cách tiếp cận này với
các dự án do chính quyền địa phương quản
lý dần trở nên một thực tiễn được chấp nhận
rộng rãi nhằm cải thiện môi trường trong
những năm thập kỷ 90.

Ngày nay, việc soạn thảo và ban
hành chính sách theo phương pháp
“Machizukuri” đã trở thành trào lưu ở
hầu hết các chính quyền địa phương vì
Luật Quy hoạch đô thị sửa đổi cho phép
người dân chính thức tham gia vào quá
trình quy hoạch và phân quyền các chính
quyền địa phương. Tuy vậy, phần lớn các
chính sách theo phương pháp tiếp cận
“Machizukuri” do bộ máy nắm quyền đưa
ra còn mang tính tự vệ và chưa có đầy đủ
cơ sở pháp lý.
Trên đây là một số nội dung bước đầu xây
dựng cơ sở cho việc định hướng phát triển
khu vực ven đô của các đô thị lớn, sẽ là

tiền đề cho các nghiên cứu sâu hơn và cụ
thể hơn nhằm quy hoạch phát triển khu vực
ven đô bền vững.
* Phó Viện trưởng - Viện Quy hoạch đô thị
và nông thôn quốc gia (VIUP)

Ngày nhận bài: 25/3/2020
Ngày gửi phản biện: 26/3/2020
Ngày duyệt đăng: 15/4/2020
Tài liệu tham khảo:
Trong nước
1. Chiến Lược không gian quốc gia - Nhật Bản. Tài
liệu dịch.
2. Võ Hữu Hòa (2011). Phát triển nông nghiệp đô thị:

Hướng đi bền vững cho các đô thị trong tiến trình
đô thị hoá.
3. Nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển đô thị của
Nhật Bản và các nước châu Á - ALMEC Nikken Sekkei
(1998).
4. Những biên giới đô thị mới: Quá trình đô thị hóa
vùng ven đô và tái lãnh thổ hóa ở Đông Nam Á.
5. Nguyễn Văn Huân (2012): Liên kết vùng từ lý luận
đến thực tiễn.
6. Trần Trọng Hanh (2015): Quy hoạch vùng - Nhà
xuất bản Xây dựng.
7. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: Các phương pháp
phân tích vùng và ien vùng – Tài liệu dịch, 2008.
8. Chiến lược của các vùng đô thị lớn – Tài liệu dịch
tiếng Pháp.

9. Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Bộ
NN&PTNT, 2014, Hướng dẫn theo dõi và đánh giá
kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới 2010-2020.
10. WHO, Cục Quản lý môi trường y tế - Bộ Y tế
và Unicef, 2012, Vietnam Water and Sanitation
Assessment Report in 2011.
Quốc tế
1. Overcoming the Ecological Underdevelopment of
the Metropolis - Jeb Brugmann (1993).
2. Metropolitan Governance and Planning in
Transition, Asia Pacific Cases - NCRD & NCUA,
Nagoya Japan (1998).
3. TOR EAP Sustainable Development on the Urban
Fringe – IURD, UC Berkely (2005).
4. Peri-Urbanisation in Europe/PLUREL (2010).
5. Mariassunta Galli, Sylvie Lardon, Elisa Marraccini,
Enrico Bonari: Agricultural management in peri-urban
areas (2009).
6. Urbandevelopment in the Philippines: Trends and
Challenges of Urban Space Utilization in the Cities of
Cebu and Lapulapu.

SË 103+104 . 2020

103




×