Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc việt nam ở tỉnh bến tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.84 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ HUỆ HỒNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HĨA
VIỆT NAM Ở TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. PHAN QUỐC KHÁNH. Kết quả nghiên cứu cơng trình khoa học
này là trung thực và chưa từng được công bố.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày…….tháng………năm 2013
Tác giả

Trần Thị Huệ Hồng


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

9

CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM


NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ Ở BẾN TRE

9

1.1. Văn hóa, vai trị và bản sắc văn hóa Việt Nam

9

1.1.1. Khái niệm văn hóa và vai trị của văn hóa đối với sự phát triển xã hội 9
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa

9

1.1.1.2. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển xã hội

15

1.1.2. Bản sắc văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam

22

1.1.2.1. Bản sắc văn hóa

22

1.1.2.2. Bản sắc văn hóa Việt Nam

25

1.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam 28

1.3. Những biểu hiện chủ yếu của bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre

33

1.3.1. Bản sắc văn hóa Việt Nam Biểu hiện trong nhân cách
con người Bến Tre ......................................................

34

1.232. Bản sắc văn hóa Việt Nam biểu hiện ở di sản văn hóa

46

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ GÌN, PHÁT HUY
BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM Ở BẾN TRE HIỆN NAY

64

2.1. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre
trong những năm qua

64

2.1.1. Những thành tựu đạt được trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam ở Bến Tre trong những năm qua

64

2.1.2. Những hạn chế trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở
Bến Tre trong những năm qua


75

2.1.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam
ở Bến Tre hiện nay

81


2.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở
Bến Tre hiện nay

83

2.3. Một số giải pháp cơ bản trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam
ở Bến Tre hiện nay

84

2.3.1. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ lãnh đạo và nhân
dân Bến Tre, đặc biệt là thế hệ trẻ trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt
Nam ở Bến Tre và ý thức chủ động trong việc tiếp thu các giá trị văn hóa tinh hoa
của nhân loại.

85

2.3.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre

87


2.2.3. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân đi đôi với việc phát huy vai trò
của người dân, của cộng đồng với tư cách là chủ thể trong việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre.

88

2.3.4. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, thuận lợi cho việc giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa truyền thống.

90

2.3.5. Nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ cơng chức chun ngành văn
hóa.

92

KẾT LUẬN

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Mỗi quốc gia, dân tộc đều có một nền văn hóa riêng tạo nên diện mạo đặc
thù của dân tộc mình. Muốn tìm hiểu một dân tộc nào thì cách tốt nhất là tìm hiểu
nền văn hóa của họ, vì nó là nét đặc trưng căn bản để phân biệt giữa dân tộc này
với dân tộc khác.
Việt Nam là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời. Cùng với q trình dựng
nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam xây đắp nên một nền văn hóa in đậm dấu ấn
bản sắc của dân tộc. Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã khẳng định: “Nhờ nền tảng và sức mạnh văn
hóa ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đơ hộ, dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản
sắc của mình chẳng những khơng bị đồng hóa, mà còn quật cường đứng dậy giành
lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta mà giải phóng cho ta… Cơng cuộc đổi mới tồn
diện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh” địi hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cơ chế thị trường
có mặt tích cức là đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và xã hội tạo thêm nhiều giá trị
văn hóa mới làm giàu thêm bản sắc văn hóa Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nảy
sinh những mặt tiêu cực và phức tạp. Mặt khác, các thế lực thù địch tiến hành âm
mưu diễn biến hóa bình, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, chống lại sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bởi vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, góp phần tạo ra thế đứng
vững chắc của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


2

Cùng với sự giao lưu khu vực và quốc tế, hiện nay trên thế giới đang diễn ra
xu hướng toàn cầu hố về kinh tế. Tồn cầu hố khơng chỉ phát huy ảnh hưởng
trong lĩnh vực kinh tế mà còn tác động mạnh mẽ tới các mặt chính trị, văn hoá, xã

hội, đặt các dân tộc, các quốc gia trước những cơ hội và thách thức lớn. Tồn cầu
hố một mặt tạo cho các quốc gia học tập lẫn nhau, vận dụng các tiến bộ của khoa
học, công nghệ để thúc đẩy kinh tế, mặt khác q trình tồn cầu hố có thể làm triệt
tiêu sự khác biệt về văn hoá các dân tộc, đồng nhất các giá trị truyền thống của mỗi
quốc gia, làm xói mịn ý thức dân tộc, dẫn đến nguy cơ bị đồng hố. Khơng phải
ngẫu nhiên mà ở nơi này, nơi khác trên thế giới, người ta đã lớn tiếng cảnh báo “sự
xâm lăng về văn hoá là sự xâm lăng cuối cùng và triệt để nhất”. Vì lẽ đó vấn đề giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hố có ý nghĩa sống cịn đối với các quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả những vùng
nơng thơn, lối sống đã và đang có sự thay đổi lớn. Sự thay đổi đó khơng chỉ trong
đời sống vật chất mà ngay cả trong đời sống tinh thần và cách suy nghĩ của con
người. Nhiều hiện tượng trước đây hồn tồn xa lạ thì nay khơng ít người xem là
chuyện bình thường như: bạo lực, kích dâm, xem trọng đồng tiền …
Trong xu thế chung đó, Bến Tre là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long cũng không tránh khỏi những nguy cơ trên. Hiện nay, cùng với sự phát triển
của xã hội thì hàng loạt những giá trị đạo đức tinh thần tốt đẹp của dân tộc đang có
những dấu hiệu rạn vỡ dần. Đặc biệt là lối sơng ích kỷ, cá nhân, chạy theo vật chất,
quay lưng với tình người, với quá khứ, tâm lý vọng ngoại một cách mù quáng khá
phổ biến và hình như ngày càng có khuynh hướng lan rộng hơn trong xã hội. Trước
đây, những vấn đề trên xảy ra chủ yếu ở những thành phố lớn, nơi có kinh tế phát
triển cao. Cịn hiện nay, nó đã len lỏi đến tận những vùng sâu, vùng xa của cả nước.
Thật đáng buồn khi nhan nhãn trên các báo ta thấy những hiện tượng đau lịng như
con giết cha chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, cháu giết ơng vì xin tiền chơi game mà ơng
khơng cho, rồi hàng xóm láng giềng bao năm tối lửa tắt đèn có nhau chỉ vì bênh


3

vực con cháu mà trở mặt nhau, rồi vì ranh đất mà kéo nhau ra tòa… Mặt khác, khi
mở rộng giao lưu văn hóa, thì những sản phẩm “văn hóa” xấu, độc hại từ bên ngoài

cũng tràn vào nước ta. Nạn sách đen, video đen, băng đĩa kích thích bạo lực, kích
dục len lỏi đến tận ngõ xóm, làng q. Chúng ta đã mất nhiều công sức truy quét
mà vẫn chưa xóa bỏ được. Những sản phẩm văn hóa xấu, độc hại này rất nguy hại,
làm vẩn đục môi trường văn hóa, ảnh hưởng tới lối sống, đạo đức của mọi người,
nhất là lớp trẻ. Bên cạnh đó thì nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đang bị
xâm hại rất nghiêm trọng… Tình hình đó là một thách thức lớn đối với việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam hiện nay.
Làm thế nào để hội nhập mà vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa
Việt Nam? Đó là vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra giải pháp cụ thể trong quá trình hội nhập
mà vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre - một tỉnh vốn
được mệnh danh là đất địa linh, nhân kiệt, vùng đất không chỉ nuôi dưỡng mà còn
sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước, có nền văn hóa đa dạng và phong phú - có
ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Từ những nhận thức trên tác giả chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa Vịêt Nam ở tỉnh Bến Tre hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đã có nhiều cơng
trình, bài báo của nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu:
- Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc – Vai trò của nghiên cứu và giáo
dục (1999), Nxb. TPHCM - cơng trình này tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả
nêu quan điểm của mình về vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.


4

- Bản sắc dân tộc trong văn hóa - văn nghệ (2001), Nxb. Văn hóa. Ở cơng trình
này các tác giả tập trung về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong giao
lưu quốc tế; nêu một số suy nghĩ về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc,…
- Phạm Minh Hạc, Phát triển văn hóa giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp

với tinh hoa nhân loại (1996), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Ở đây tác giả tập
trung vào vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chống diễn biến hịa
bình.
- Hồ Bá Thâm với cơng trình: Bản sắc văn hóa dân tộc (2003), Nxb. Văn hóa. Tác
giả đã trình bày một số vấn đề về văn hóa như: khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa
Việt Nam cũng như một số đặc trưng, giá trị và hạn chế của nền văn hóa Việt Nam.
- PGS. TS. Thành Duy (chủ biên), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt
Nam - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong quyển sách này tác giả làm rõ quan niệm bản sắc văn hóa với dân tộc và mối
quan hệ giữa bản sắc dân tộc với hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, các tác giả đã
trình bày vai trị của phát triển văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.
- Phạm Vũ Dũng, Nhận diện mấy vấn đề văn hóa (1999), Nxb. Văn hóa thơng tin,
Hà Nội. Ở đây tác giả bàn về những vấn đề văn hóa truyền thống và những vấn đề
văn hóa đương đại trong đó tác giả đề cấp vấn đề bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân
tộc, phương thức kế thừa, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc…
- GS, TS. Nguyễn Văn Huyên, Văn hóa mục tiêu và động lực của sự phát triển xã
hội (2006), Nxb. CTQG, Hà Nội. Ở đây tác giả bàn về vai trị của văn hóa đối với
sự phát triển xã hội, văn hóa định hướng cho sự phát triển bền vững.


5

Ngồi ra, cịn có rất nhiều cơng trình của các tác giả khác cũng nghiên cứu
về văn hóa như: GS, TS. Huỳnh Khái Vinh, GS, TS. Nguyễn Duy Bắc, TS. Đỗ Thị
Minh Thúy, Nguyễn Bá Thành, GS, VS. Hoàng Trinh, Trần Ngọc Thêm, Lê Như
Hoa…
Ở Bến Tre cũng có khá nhiều cơng trình, bài viết mà tác giả đã tham khảo để
hồn thành luận văn của mình như:
- Thạch Phương – Đồn Tú - chủ biên (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội. Đây là quyển sách nghiên cứu đầy đủ về quá trình hình thành, phát
triển của Bến Tre trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa đến chính trị, xã hội.
Tác giả Lư Hội với các tác phẩm: Các hình thức diễn xướng dân gian ở Bến
Tre (2005), Nxb. Văn hóa dân tộc. Ở đây tác giả giới thiệu các hình thức diễn
xướng như: hò, vè, hát ru, hát lý. Di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Bến Tre (2009),
Nxb. Văn hóa dân tộc. Tác giả tập trung giới thiệu về văn hóa phi vật thể với việc
bảo tổn và phát huy. Trong đó tác giả cịn đề cập đến tín ngưỡng dân gian và phong
tục của người Bến Tre. Múa bóng - Rỗi bà trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Bến Tre
(2010), Nxb. Văn hóa dân tộc. Quyển sách này tác giả khái qt về tín ngưỡng thờ
Mẫu nói chung và mơ tả tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bến Tre nói riêng.
- Di tích lịch sử văn hóa Bến Tre, Nxb. Văn hóa dân tộc. Đây là quyển sách nghiên
cứu về tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tơn giáo và các lễ hội cũng như các di tích
lịch sử của tỉnh nhà.
- Sở Giáo dục – Đào tạo Bến Tre (2002), Lịch sử tỉnh Bến Tre, tập 1,2. Nxb.Văn
hóa thơng tin. Bộ sách này nhằm cung cấp tài liệu chính thức và thống nhất cho
việc dạy và học lịch sử địa phương ở các trường phổ thông cơ sở và phổ thông
trung học trong tỉnh.


6

- Bến Tre Đồng khởi và đội quân tóc dài (2010), Nxb. Phụ nữ. Quyển sách này tập
hợp bài viết của nhiều tác giả mô tả về phong trào Đồng khởi ở Bến Tre và kể một
số tấm gương của đội quân tóc dài đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ngồi ra
cịn một số cơng trình khác như:. Nhất Vũ – Lê Giang (chủ biên), Dân ca Bến tre
(2000), Sở Văn hóa thơng tin Bến Tre. Nguyễn Phương Thảo – Hoàng Thị Bạch
Liên (1998), Văn học dân gian Bến Tre, Nxb. KHXH, Hà Nội. Nguyễn Chí Bền,
Tìm hiểu một số hiện tượng văn hóa dân gian Bến Tre (1997), Nxb. KHXH, Hà
Nội,…
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ về bản sắc văn hóa Việt Nam,
thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre trong
những năm qua, luận văn đưa ra một số giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa Việt Nam ở Bến Tre hiện nay (2013).
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện hai nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Khái luận chung về bản sắc văn hóa Việt Nam và những biểu hiện
của nó ở tỉnh Bến Tre.
Thứ hai, phân tích làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở tỉnh Bến Tre từ đó đưa ra những giải
pháp cơ bản.


7

3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa Việt Nam ở tỉnh Bến Tre hiện nay”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, theo quan điểm thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển.
Để trình bày nội dung nghiên cứu, đề tài chủ yếu sử dụng kết hợp giữa
phương pháp logích và phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống và
cấu trúc…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Đề tài làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa và
bản sắc văn hóa Việt Nam, những giá trị văn hóa cần được giữ gìn và phát huy mà
nhân dân Bến Tre đã tạo nên từ buổi sơ khai cho đến nay.

Về mặt thực tiễn: Đề tài giúp cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
Việt Nam ở Bến Tre ngày càng tốt hơn. Từ đó nêu lên một số giải pháp nhằm giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở Bến Tre hiện nay. Mặt khác, đề tài cịn
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu của sinh viên về
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương, 6 tiết.


8

Chương 1: Khái luận chung về bản sắc văn hóa Việt Nam và những biểu
hiện của nó ở tỉnh Bến Tre.
Chương 2: Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam ở tỉnh Bến Tre hiện
nay - Thực trạng và giải pháp


9

CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA NÓ Ở TỈNH BẾN TRE
1.1.Văn hóa, vai trị và bản sắc văn hóa Việt Nam
1.1.1. Khái niệm văn hóa và vai trị của văn hóa đối với sự phát triển xã hội
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một phạm trù rộng, bao quát nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau.
Mỗi lĩnh vực nghiên cứu tiếp cận văn hóa theo cách thức đặc thù của nó. Hai nhà
nhân học người Mỹ là A. L. Kreber và K.Klaxon đã thu thập được 164 cách định
nghĩa khác nhau về thuật ngữ văn hoá (năm 1952). Trong cuốn “Triết học văn hoá”
M.S.Kagan thu thập được hơn 70 cách định nghĩa khác nhau. Tại Hội nghị về văn

hoá UNESCO tại Mêhicô năm 1982, người ta cũng đã đưa ra 200 định nghĩa về văn
hoá. Cho đến nay, chỉ riêng ở phương Tây đã lên đến 400 định nghĩa về văn hóa.
Hiện nay thì số lượng khái niệm về văn hố ngày càng tăng thêm đến vơ vàn, khó
mà thống kê hết được. Thật khó để đưa ra một định nghĩa sau cùng về văn hóa.
Danh từ “Văn hóa” được người Nhật vay mượn từ trong kho từ vựng của
người Trung Hoa, dùng để chuyển dịch một thuật ngữ của người phương Tây
là danh từ “Culture”

trong tiếng Pháp và tiếng Anh, “Kulttur” trong tiếng

Đức… các danh từ này đều bắt nguồn từ danh từ “Cultus” trong tiếng La-tinh,
có nghĩa là sự trồng trọt. Danh từ “Cultus” trong tiếng La-tinh lại được hiểu theo
hai sắc độ ngữ nghĩa khác nhau: “Cultus agri” là trồng trọt ngoài đồng (trồng cây)
và “Cultus animi” là trồng trọt tinh thần (trồng người). Vậy “Cultus” có nghĩa là
một hoạt động làm cho sự vật hiện tượng gì đó sinh sơi, nảy nở, phát triển theo
chiều hướng tốt đẹp.
Ở Trung Quốc từ “Văn hóa” là một danh từ kép do hai từ “văn” và “hóa”
hợp thành. Trong đó “Văn” là nét vẽ, là dáng dấp bên ngoài, là vẻ đẹp do màu sắc


10

tạo ra. Từ đó “văn” có nghĩa là hình thức đẹp đẽ biểu hiện trước hết ở lễ, nhạc, cách
cai trị và đặc biệt là trong ngôn ngữ, giao tiếp. Cịn “hóa” nghĩa là biến hóa, biến
đổi, cảm hóa, hóa thành.
Văn hóa là một danh từ được sử dụng khá rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng, song là một thuật ngữ có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các
nhà khoa học. Tổng Giám Đốc UNESCO Federico Mayor, trong bài “Ban đầu và
cuối cùng là văn hóa”, đọc trong buổi lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa” (1988-1997) của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa 41, đã thừa nhận: Việc

vạch ra bản chất khái niệm của văn hóa “khơng phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Ai
nấy đều biết, rất khó định nghĩa văn hóa, có lẽ vì văn hóa định nghĩa chúng ta nhiều
hơn chúng ta định nghĩa văn hóa”.
Vào năm 1952, trên cơ sở thống kê các định nghĩa về văn hóa, hai nhà nhân
học người Mỹ là A. Kroeber và C. Kluckhohn đã chia chúng thành các loại cơ bản
sau:
Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao
hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 - 1917)
đã định nghĩa: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học “là
một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được
với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền
thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa
đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ:
“văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống
trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử
và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”.


11

Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng
hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi “văn hóa là
các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào” (các thiết chế, tập tục,
phản ứng cư xử,...)
Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào q trình thích nghi với mơi
trường, q trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một
trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 - 1910),
viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự

của ông là: “Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống
của họ chính là văn hóa, hay văn minh...Những sự thích nghi này được bảo đảm
bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng
kế thừa”[55, tr.11-12]
Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa,
ví dụ Ralph Linton(1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: “Văn
hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã
hội; Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các thành
viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa” [56, tr.12].
Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của nó,
ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học
người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: “Với
nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi
hoạt động có ý thức hay vơ thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và
tác động đến lối ứng xử của nhau”. [55, tr.12]
Năm 1871, Edward Burnett Tylor (người Anh), trong tác phẩm Primitive
Culture (Văn hóa nguyên thủy), đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “Văn hóa là một
tổng thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật,


12

phong tục và cả những khả năng và thói quen khác mà con người đạt được với tư
cách là một thành viên của xã hội”.
Trong Hội nghị liên Chính phủ về các chính sách văn hố họp năm 1970 tại
Venise, ông Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đưa ra khái niệm: “Đối với
một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư
duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất
cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động”.

Quan điểm này càng được khẳng định tại Hội nghị quốc tế về văn
hóa ở Mêhicơ để bắt đầu thập kỷ văn hố UNESCO. Cuối cùng Hội nghị chấp
nhận một định nghĩa như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của
một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập
tục và tín ngưỡng”.
Văn hóa theo nghĩa hẹp gồm những khái niệm gắn từ “văn hóa” với một
chuyên ngành nào đó. Ví dụ: văn hóa dân gian, văn hóa bác học, văn hóa tơn giáo,
văn hóa giao tiếp, văn hóa xã hội, văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử (giao tiếp), văn
hóa nghệ thuật, văn hóa giáo dục (học vấn), văn hóa kinh doanh, dân tộc học văn
hóa, nhân học văn hóa, sử văn hóa, triết học văn hóa, xã hội học văn hóa …
Khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp, những từ được gắn với từ “văn hóa” sẽ
chiếm vị trí chính yếu trong khái niệm đó. Ví dụ khái niệm “văn hóa nghệ thuật” là
khái niệm văn hóa gắn với việc sáng tạo, hưởng thụ và phê bình các chun ngành
văn hóa nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Khái niệm “văn
hóa tư tưởng” là khái niệm gắn với thể chế chính trị và cơng tác lý luận; Khái niệm


13

“văn hóa giao tiếp” nói đến mối quan hệ ứng xử giữa người với người; Khái niệm
“sử văn hóa” nói đến quá trình hình thành và phát triển của một nền văn hóa theo
trục thời gian và trong khơng gian…
Ở Việt Nam vấn đề văn hóa cũng được quan tâm rất nhiều, theo Đại từ điển
tiếng Việt của Trung tâm Ngơn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào
tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thơng tin, xuất bản năm 1998,
thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong
lịch sử”.

Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đồn Văn Chúc, Viện Văn hóa và NXB
Văn hóa - Thơng tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: “Văn hóa – vơ sở bất
tại: Văn hóa - khơng nơi nào khơng có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo
của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi
đó có văn hóa”.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS. TSKH Trần Ngọc Thêm
cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” [48, tr.431].
Mặc dù khoa học nghiên cứu văn hố đã hình thành từ vài trăm năm nay
và ngày càng phát triển, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm văn hố
chung nhất, được thống nhất cao nhất. Thậm chí có ý kiến cho rằng: “Có lẽ khơng


14

thể tìm ra được một định nghĩa duy nhất, tuyệt đối chính xác cho văn hóa, bởi vì
văn hóa mang những tính chất và những khía cạnh của một hiện tượng cực kỳ phức
tạp, đó là xã hội trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên”.UNESCO đã
nhiều lần đưa ra những khái niệm về văn hoá (như khái niệm năm 1982) nhưng
cũng chưa phải là khái niệm được tồn thế giới chấp nhận. Với tính chất vừa phong
phú, vừa phức tạp của văn hố, để tìm ra một khái niệm văn hoá chung cho tất cả
các nhà nghiên cứu khoa học văn hố là điều khó có thể có được. Theo quan điểm
cá nhân tơi, khái niệm vừa có tính kế thừa, vừa có tính khái qt cao đó là khái
niệm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng:“Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực

vơ cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên
mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, q trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và
tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái
mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề
kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh” [89, tr.22]. Theo
khái niệm này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người
sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi
người, mỗi dân tộc. Văn hóa của từng cộng đồng tộc người sẽ khác nhau nếu nó
được hình thành ở những tộc người khác nhau trong những môi trường sống khác
nhau.
Như vậy, văn hóa là sản phẩm của lồi người, văn hóa được tạo ra, phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia
vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được
tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.
Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các


15

kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá
trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra.
1.1.1.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội
Văn hóa có vai trị hết sức to lớn đối với sự phát triển của mỗi người cũng
như của toàn xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, từng
quốc gia, dân tộc cũng như toàn nhân loại không chỉ đứng trước những vấn đề kinh
tế gay gắt mà còn phải giải quyết những vấn đề văn hóa hết sức cấp bách. Đứng
trước những nguy cơ và thách thức đó, nhiều quốc gia, dân tộc đã tìm thấy trong
vốn văn hóa truyền thống của mình và tinh hoa văn hóa nhân loại những sức mạnh

tiềm tàng vơ cùng to lớn có thể giúp cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong quá
trình giải quyết những vấn đề gay gắt và phức tạp ấy, một lần nữa văn hóa lại thể
hiện rõ vai trị to lớn của mình, với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1993) đã xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) tiếp
tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ... Xây dựng và phát triển kinh
tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng văn minh, con người phát triển
tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội
trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”. Như vậy, chúng ta
chỉ có thể làm rõ vai trị của văn hóa nếu xem xét nó vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển xã hội.


16

Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển xã hội, văn hóa do con người sáng tạo
ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp
năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa
rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con
người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà cịn có nhu cầu hưởng thụ
sản phẩm văn hóa tinh thần. Con người và xã hội lồi người càng phát triển thì nhu
cầu văn hóa tinh thần địi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó
chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và
xã hội.

Lấy văn hóa làm mục tiêu, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX
đề ra một nội dung có tầm chiến lược là phát triển kinh tế phải giữ vững đời sống
đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc. Chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế là
hướng tới một cuộc sống văn hóa cao, tạo điều kiện để nhân dân ngày càng nâng
cao trình độ thẩm mỹ, trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là người hưởng
thụ ngày càng nhiều các thành quả văn hóa.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục
tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết
định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con
người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó
nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo
của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng, phát huy trở thành
giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với
khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các
quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng
ta đang xây dựng.


17

Văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do
con người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng
tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp
vào sự phát triển xã hội.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai thác yếu
tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự phát triển là
trí tuệ, là thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của

mỗi người cũng như của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo khơng chỉ ở chỗ có nhiều
hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có
khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người
hay không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa
là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối
sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Đời sống của mỗi con người cũng như đời sống của xã hội có hai mặt vật
chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật
chất của con người và xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hóa biểu hiện sự hiểu biết, tài năng và trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn, tình cảm,
thẩm mỹ... của con người và của cộng đồng dân tộc trong mối quan hệ hài hòa với
xã hội, với tự nhiên. Vì vậy khả năng phát triển của một dân tộc không chỉ dựa vào
nền tảng vật chất (kinh tế) của xã hội mà còn cần phải dựa vào nền tảng tinh thần
(văn hóa) của xã hội.


18

Với tính cách và vai trị là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của quốc
gia, dân tộc không chỉ dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn... mà còn ở
khả năng phát huy tối đa nguồn lực con người, là làm cho văn hóa thấm sâu vào
trong các lĩnh vực và hoạt động xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt của
con người biến thành “nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”.
Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor cũng nhấn mạnh: “Kinh nghiệm
của hai thập kỷ qua cho thấy rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ
phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát triển
là hai mặt gắn liền với nhau ... Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát triển

kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối
nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ
bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối
ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các trọng
tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa ... Từ
nay trở đi văn hóa cần coi mình là một nguồn bổ sung trực tiếp cho phát triển và
ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trị điều
tiết xã hội...” [82, tr.23].
Coi nhẹ nhân tố văn hoá, xã hội, con người và môi trường trong phát triển,
chạy theo tăng trưởng kinh tế thuần túy là ngõ cụt của phát triển. Vì vậy, Đảng ta
và nhân loại tiến bộ mạnh mẽ phê phán việc coi nhẹ nhân tố văn hoá trong phát
triển. Nước ta và nhiều quốc gia khác trên thế giới đã và đang nhấn mạnh vai trò
của văn hóa đối với phát triển, đó là một vấn đề trung tâm của dân tộc và của thời
đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng ln
khẳng định vị trí và vai trị to lớn của văn hóa trong q trình đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo yêu cầu và nhiệm vụ


19

cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta chủ trương phát huy đến mức cao
nhất vai trò và tác dụng của văn hóa, của đội ngũ những người hoạt động văn hóa.
Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh
tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khố VI (1987) về đổi mới và
nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên
một bước mới đã xác định: “Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng
và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận thức mới về
vai trị của văn hóa: “kinh tế và văn hóa gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ: kinh tế
khơng tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa và văn hóa khơng phải là sản
phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hòa kinh tế và văn hóa
là sự phát triển năng động, có hiệu quả và vững chắc nhất” [3].
Nghị quyết 05 cũng chỉ rõ: văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh
thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại,
là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những cơng trình
nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống
con người. Văn hóa là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng văn hóa, là
một động lực mạnh mẽ đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương khoá IX (2004)
và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã xác lập vị trí của văn
hố là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững và toàn diện của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về
mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển, là bước phát triển mới trong quan điểm của
Đảng về vai trị to lớn, sâu sắc của văn hố trong phát triển bền vững và toàn diện


20

của đất nước. Đây là sự năng động của nhận thức trong việc nắm bắt các vấn đề
thời đại, cũng là sự xác định chính xác định hướng phát triển văn hố, kinh tế,
chính trị và xã hội ở Việt Nam theo học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Theo đó, văn hóa khơng đứng ngồi phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế

(là trung tâm); xây dựng chỉnh đốn Đảng (là then chốt) chính là điều kiện quyết
định sự phát triển bền vững và tồn diện của đất nước vì “xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Để phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta cần phải tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết
là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng,
các đơn vị, tổ chức cơ sở, các gia đình, trong từng cán bộ đảng viên, công chức,
viên chức, hội viên, các bậc cha mẹ, các thầy cơ giáo. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng đã nhấn mạnh phải: “Tiếp tục xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của
dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại... Phát triển, nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công
nghệ và kinh tế tri thức” [24, tr.39].
Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người rất quan tâm đến vai trò của
văn hóa. Ơng khẳng định: “Cách mạng là đổi mới, một q trình đổi mới cho đến
đích cuối cùng cho nên cách mạng càng cần văn hóa…Văn hóa là cội nguồn sức
mạnh và tài năng làm nên chiến thắng”[21].


21

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nhấn mạnh: Văn hoá không chỉ là kết quả
của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát triển nhanh, bền
vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh
tế. [93].
Khi phát động “Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa”, UNESCO đã nhấn
mạnh: “Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời mơi trường
văn hóa thì kết quả thu được sẽ rất khập khiễng, mất cân đối cả về mặt kinh tế lẫn
văn hóa, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất

nhiều”. [82, tr.19-22]. “Văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau” và “Phát
triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội”.
[82, tr. 5]. Kinh tế và văn hóa phải hịa quyện vào nhau, lồng vào nhau trong đó văn
hóa đóng vai trị là nền tảng tinh thần, nghĩa là kinh tế phải bắt rễ trong văn hóa để
phát triển. UNESCO khẳng định: “Nhận thức về vị trí, vai trị của văn hóa, chúng ta
cần vượt lên trên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra hàng trăm phương
thức có thể được để cho tính cơng nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó móc nối
với nhau và để kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa”.
Càng ngày chúng ta càng nhận thức đầy đủ hơn vai trò của văn hóa đối với
các hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên khi chúng ta nhấn mạnh yếu tố văn
hóa thì điều đó khơng có nghĩa là đặt yếu tố văn hóa lên hàng đầu. Những thành
tựu hoặc vấp váp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nhiều nước trên
thế giới đều chứng minh tầm quan trọng của nhân tố văn hóa, trước hết là ở việc
có bảo vệ, phát triển được hay khơng những tiềm năng phong phú và đặc sắc của
văn hóa dân tộc đối với sự phát triển của đất nước. Sự đúng đắn hay sai lạc trong
định hướng phát triển văn hóa đều đưa đến thành cơng hay thất bại khơng chỉ riêng
cho văn hóa, mà cả cho kinh tế và các mặt khác của đời sống xã hội, đặc biệt
là về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Những hậu quả của sự sai lầm chính sách văn hóa
thường kéo dài và khó sửa hơn những hậu quả về kinh tế.


×